|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
PHẦN MƯỜI HAI
Phật bảo Thiện Đức,
con ông Trưởng giải:
Ông đi đến chỗ ông
Duy Ma Cật để thăm bệnh.
Ông Thiện Đức bạch
Phật rằng:
(Bạch Thế Tôn! Con
không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa con
tự ở trong nhà ba con mà lập hội đại thí cúng dường tất cả vị Sa
môn, Bà la môn và những người ngoại đạo, bần cùng, hạ tiện, cô
độc, người ăn xin, đầy đủ 7 ngày. Khi ấy ông Duy Ma Cật đến
trong nhà bảo con rằng:
(Này con ông Trưởng
giả, phàm làm đại thí hội thì không phải là việc như ông đã làm.
Phải làm cái hội pháp thí, đâu có dùng hội tài thí làm gì.
Con mới nói:
(Này cư sĩ, thế nào
là là hội pháp thí?
Ông mới đáp:
(Hội pháp thí là
không trước không sau. Đồng thời cúng dường tất cả chúng sanh.
Ấy gọi là hội pháp thí.
Con hỏi rằng:
(Làm thế nào?
Ông ấy bảo:
(Do Bồ tát mà khởi
tâm từ. Do cứu chúng sanh mà khởi tâm đại bi. Do gìn giữ chánh
pháp mà khởi tâm hỷ. Do nhiếp trí tuệ mà hành tâm xả.
Như vậy bốn tâmm: Từ,
Bi, Hỷ, Xả. Sở dĩ có tâm từ là nơi tâm Bồ đề mà khởi lòng từ. Sở
dĩ có tâm Bo vì cứu chúng sanh mà khởi tâm bi. Sở dĩ có tâm Hỷ
vì gìn giữ chánh pháp nên có tâm hỷ. Sở dĩ có tâm xả vì mình
nhiếp được trí tuệ nên có tâm xả.
Như vậy ai mà xả được
là người có trí tuệ. Còn ai mà hỷ được là do nhiếp teì được
chánh pháp. Ai có tâm bi là vì muốn cứu chúng sanh. Sai khởi tâm
từ vì thấy Bồ đề là giác, quí trọng, cho nên mình muốn đem cái
quí trọng an vui cho người, là có tâm từ. Đó là bốn pháp Từ, Bi,
Hỷ, Xả rồi. Bây giờ tới gì nữa.
Do nhiếp xan tham cho
nên khởi Bố thí. Do giáo hóa phạm giới cho nên khởi nhẫn nhục.
Do lìa tướng thân tâm cho nên khởi Tinh Tấn. Do tướng Bồ đề cho
nên khởi Thiền Ba La Mật. Do Nhất Thiết Trí cho nên khởi Bát Nhã
Ba La Mật.
Như vậy là Lục Độ.
trước là Tứ Vô Lượng Tâm. Đây là Lục Độ. Lục Độ thì mỗi độ đều
có căn do. Vì nhiếp kẻ xan tham cho nên mới tu bố thí. Vì bố thí
kẻ phạm gới nên mình mới tu trì giới... Như vậy mỗi pháp của lục
độ đều trị một bệnh của chúng sanh.
Do giáo hóa chúng
sanh mà khởi cái không. Do chẳng xả pháp hữu vi mà khởi vô
tướng. Do thị hiện thọ sanh mà khởi vô tác
Đây là không. Vô tác
là tam giải thoát môn đó. Sở dĩ có tam giải thoát môn là vì mới
khởi ra. Rồi do xả pháp hữu vi cho nên mới vô tướng. Do thị hiện
độ sanh nên mới khởi vô tác. Như vậy ba cái: Không, vô tướng, vô
tác. Hay không, vô tướng, vô nguyện đều là có lý do mà khởi.
Do hộ trì chánh pháp
mà khởi sức phương tiện. Do độ chúng sanh mà khởi Tứ Nhiếp Pháp.
Do kính sự (tức là sự kính thờ) tất cả nên khởi trừ pháp mạn.
Đối với thân, mạng, tài ba cái đó mà khởi ba pháp kiên cố. Ở
trong lục niệm mà khởi pháp Tứ niêmj. Ở trong lục hòa kỉnh mà
khởi tâm chánh trực.
Như vậy đoạn này nói
những pháp tu. Đầu tiên là vì trì chánh pháp khởi lục phương
tiện. Dùng phương tiện đó là bỏa hộ chánh pháp. Rồi vì độ chúng
sanh mà khởi Tứ Nhiếp Pháp. Phương tiện là Tứ Nhiếp Pháp. Rồi do
kính thờ tất cả nên mới trừ pháp mạn (tức là ngã mạn đó). Mạn
này nói chung là ngã mạn, rồi Tăng thượng mạn... Đủ trong đó
hết. Cho nên nói chữ mạn là đủ trong mấy thứ mạn.
Đối với thân, mạng,
tài. Thân mình nè, mạng sống của mình, tiền của của mình mà khởi
ba pháp kiên cố. Quí vị biết ba pháp kiên cố đó là ba pháp gì
không? Một là pháp thân. Hai là huệ mạng. Ba là công đức, pháp
tài. Gọi là ba pháp kiên cố đó. Thay vì mình cũng ba pháp là
thân, mạng, tài. Thân này thì vô thươngf. Mạng này là tạm bợ.
Tài sản là vô thường, phải không? Như vâỵ ba cái là tạm bợ vô
thường. Đổi lại ba pháp kiên cố là pháp thân, là bất sanh bất
diệt. Trí tuệ là mạng, thì mạng đó không có bị sinh diệt. Rồi
tài là công đức pháp tài. Ba cái đó là ba pháp kiên cố đó.
Ở trong lục niệm mà
khởi niệm tư pháp, khởi pháp tư niệm. Lục niệm, quí vị biết lục
niệm là cái gì không? Một là niệm Phật. Hai là niệm Pháp. Ba là
niệm Tăng. Bốn là niệm Thiên. Năm là niệm giới. Sáu là niệm thí,
đó là lục niệm, ở trong lục niệm. Như vâỵ trong lục niệm đó khởi
ra pháp tư niệm. Đó là để chỉ cho trong những pháp của Phật mà
mình có khởi pháp riêng.
Ở trong lục hòa kỉnh
thì dư biết phải không? Khởi tâm chánh trực. Hiện tại mà mình
trừ dẹp hoặc tăng trưởng những pháp tu của mình.
Do chánh hành thiện
pháp mà khởi tịnh mạng. Do tâm thanh tịnh hoan hỷ mà khởi gần
bậc hiền thánh. Do chẳng có ghét người ác mà khởi tâm điều phục.
Do pháp xuất gia mà khởi thâm tâm. Do như nói mà thực hành cho
nên khởi đa văn. Do không thấy pháp vô tránh mà khởi ở chỗ vắng
vẻ. Do thú hướng Phật huệ mà khởi ở chỗ yên tịnh. Do giải các
trói buộc cho chúng sanh, mà khởi chỗ tu hành. Do đầy đủ các
tướng hảo và trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh mà khởi nghiệp
phước đức.
Như vậy đay là những
lý do để nói lên công hạnh tu của mình. trước hết vì các chánh
hạnh, thiện pháp. Tức là mình tu hành đúng như pháp lành của
Phật dạy cho nên mình tịnh mạng. Tịnh mạng tức là mạng sống
thanh tịnh. Thay vì tịnh mạng thì ngược lại là tà mạng. Tà mạng
thì trong kinh đã nói rõ rồi.
Vì tịnh tâm hoan hỷ,
tức là tâm thanh tịnh vui vẻ, cho nên khởi thân cận hiền thánh.
Mình muốn tâm được thanh tịnh, mình muốn được sự hoan hỷ thì gần
bậc hiền thánh thì tâm dễ thanh tịnh, tâm dễ hoan hỷ.
Vì không ghét người
ác nên khởi tâm điều phục. Khởi cái điều phục tâm. Quí vị thấy
người dễ thương mà ít thương. Người ác ghét mà không ghét đó dễ
không? Dễ hay khó? Sao mà khó. Họ đáng ghét mình đừng ghét họ
thì thôi, phải không? Như vậy vì chẳng ghét người ác mà khởi cái
điều phục tâm. Bởi vì nếu không điều phục, thấy người ác thì
sao? Ghét. Cho nên muốn đừng ghét người ác, khéo điều phục tâm
mình đừng cho nó có những cái ganh ghét hay bực bội
Do pháp xuất gia mà
khởi thâm tâm. Thâm tâm bữa hổm nói đó. Thâm tâm là sao? Trước
hết là trực tâm hay là thâm tâm. Trực tâm rồi mới tới thâm tâm.
Thâm tâm tức là hành những pháp của Phật. Gọi nó là thâm tâm.
Như vậy là do mình muốn xuất gia cho nên phải hành những pháp
Phật dạy luôn luôn không quên.
Do như nói mà hành
khởi đa văn. Điều này quí vị thấy dễ hiểu không? Chúng ta có cái
bệnh học nhiều mà quên tu, phải không? Còn có người ham tu mà
không chịu học. Đó đều là hai cái cực đoạn hết. Ở đây vì mình
muốn nghe nói. Nói được là làm được. Cho nên mới học nhiều.
Mình học nhiều là vì mình học tới đâu mình tu tới đó. Chớ không
phải học để mà nói. Cho nên do mình muốn như nói mà hành thì
phải đa văn. Có nghe rồi mình mới hiểu. Hiểu rồi mình mới hành.
Nói được thì hành được. Cái học đó mới đúng là cái học của đạo.
Chonên phải do như nói mà hành mới khởi đa văn. Do pháp vô tránh
mà khởi ở chỗ vắng vẻ. Vô tránh là không cãi. Vì mình không muốn
cãi với thiên hạ cho nên ở chỗ vắng vẻ.
Vì muốn thú hươngs về
Phật huệ nên khởi ra yên tọa. Ngồi thiền đó. Ngồi thiền là hướng
về Phật huệ. Trí huệ của Phật. Không cho những niệm thế gian
chen lấn. Cho nên mình ngồi yên cho trí huệ Phật phát hiện.
Vì cởi những trói
buộc của chúng sanh cho nên khởi tu hành. như vậy minh tu hành
cốt là để cỏi những trói buộc cho chúng sanh. Chớ không phải là
tu cho mình.
Do muốn cho đầy đủ
các tướng tốt và trang nghiêm cõi Phật cho nên mình mới tu những
nghiệp phước đức. Những nghiệp phước đức, những điều lành, điều
tốt mình làm cho người thì đó gọi là nghiệp phước đức. Làm những
điều lành điều tốt đó có hai ý nghĩa. Yï nghĩa thứ nhất là trang
nghiêm 32 tướng tốt cho mình. Ý nghíathư hai là trang nghiêm cõi
thanh tịnh của Phật. Phật đó là Phật của mình chứ không phải
Phật của ai. Mai kia mình thành Phật có 32 tướng tốt rồi có cõi
thanh tịnh luôn phải không? Chớ lỡ thành Phật có 32 tướng tốt mà
ở trong nhà tranh, chung quanh hôi hám quá, chắc không được phải
không? Cho nên tướng tốt, đủ tướng tồi thì phải có cõi thanh
tịnh theo đó. Vì vậy làm những công đức đó là để trang nghiêm
cho thân thanh tịnh, cõi Phật thanh tịnh. Vậy quí vị có chán làm
phước đức không? Nếu chán làm phước đức là chán đời sau mình
đẹp. Chán chỗ ở mình trang nghiêm. Vậy quí cị muón sau thân đẹp
và chỗ ở trang nghiêm thì đối với phước đức làm sao? Làm không
có biét mỏi mệt. Như vậy thì khả dĩ. Chớ còn bây giờ cứ thấy
chuyện gì, làm chuyện gì tốt thì xô cho người ta làm. Rồi mai
mốt lỡ sinh ra xấu quá đi thì chừng đó tủi thân, tủi phận. Chừng
đó không biết than thở với ai.
Vì biết tất cả tâm
niệm chúng sanh như, nên nói những pháp gì thì liền khởi nghiệp
trí
Vì mình muốn cho mình
biết được tâm niệm chúng sanh. Biết nên nói pháp gì cho họ nghe.
Vì vậy mà mình khởi cái nghiệp trí.
Vì biết tất cả pháp
không thủ, không xả để vào môn nhất tướng mà không khởi ra
nghiệp huệ.
Đây chia ra nghiệp
trí, nghiệp huệ.
Vì đoạn tất cả phiền
não, tất cả chướng ngại, tất cả pháp bất thiện mà khởi ra tất cả
nghiệp thiện. Do được nhất thiết trí huệ, nhất thiết thiện pháp,
khởi tất cả các pháp trợ Phật đạo.
Như vậy để thấy rằng
tất cả vị Bồ tát mà hành đạo thì chúng ta thấy rõ ràng. Đây là
đoạn chót nói rằng vì muốn biết tất cả tâm chúng sanh để nên nói
pháp gì độ họ thì mình nói. Bởi vậy mình mới tu nghiệp trí, để
tìm hiểu, để tu hành, để thấu suốt được những gì Phật dạy. Biết
được tâm niệm của họ để mình giáo hóa họ. Biết tất cả pháp không
thủ, không xả vào môn đệ nhất tướng. Đó là mình khởi ra được gì?
Tuệ rồi tới sau chót là đoạn tất cả phiền não, tâts cả chướng
ngại, tất cả pháp bất thiện mà khởi tất cả nghiệp thiện. Nhất
thiết trí tuệ nè. Nhất thiết thiện pháp nè. Khởi tất cả pháp trợ
đạo được như ý. Như vậy đây là cái hội thí mà ở trên Ngài Thiện
Đức hỏi ông Duy Ma Cật.
Như thế này thiện nam
tử. Cái hôi pháp thí là như thế. Nếu Bồ Tát trụ nơi hội pháp thí
nào là đại thí chủ, cũng là phước điền của tất cả thế gian.
Ông tán thán nếu ai
trụ được hội pháp thí này đó là đại thí chủ, đó là phước điền
của tất cả thế gian.
Bạch Thế Tôn! Ông Duy
Ma Cật khi nói pháp này thì trong chúng Bà La Môn 200 người đều
phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Con khi ấy tâm được
thanh tịnh, tán thán chưa từng có. Cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông
Duy Ma Cật. Liền cởi xâu chuỗi anh lạc giá trị trăm ngàn để dâng
lên cho Ngài mà Ngài không nhận. Con nói rằng:
(Này cư sĩ, mong Ngài
nhận cho. Tùy ý mà Ngài dân, tùy ý mà Ngài cho.
Ông Duy Ma cật mới
nhận chuỗi anh lạc. Phân làm hai phần. Một phần thí cho người ăn
mày thấp nhất ở trong hội. Còn một phần dâng cho đức Phật Nan
Thắng. Tất cả chúng hội đều thấy cõi Phật sáng suốt. Cõi Phật
Nan Thắng rất sáng suốt. Lại thấy xâu chuỗi anh lạc ở chỗ Phật
kia nó biến thành bốn cây cột trụ của bảo đài (bốn trụ của bảo
đài mình cũng không biết làm sao, mà nói có bốn trụ). Bốn phía
trang nghiêm không có gì chướng ngại, không có gì che lấp được.
Như vậy khi dâng xâu
chuỗi lên Phật Nan Thắng thì toàn chúng trong hội nhìn thấy cõi
Phật Nan Thắng rất là sáng suốt. Lại thấy phân nữa xâu chuỗi đó
biến thành bốn cây cột trụ của đài báu. Rồi 4 phía đều đẹp đẽ,
không gì che ngại hết.
Khi đó ông Duy Ma Cật
hiện thần biến rồi lại nói rằng:
(Nếu vị thí chủ mà
tâm bình đẳng thí cho người ăn mày thấp nhất cũng như là tướng
phước điền của Phật không có phân biệt, bình đẳng đại bi, không
cầu quả báu, ấy gọi là đầy đủ pháp thí.
Trong thành người ăn
mày thấp nhất thấy được thần lực này rồi, nghe lời ní kia, liền
phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cho nên con không kham
đến thăm bệnh ông.
Như vậy quý vị mới
thấy hai cái lối thí. Ở trước ông Duy Ma Cật giảng trạch cho ông
cư sĩ này biết (hay ông Thiện Đức biết), bố thí tài không bằng
bố thí pháp, phải không? Cho nên ông không bằng hội pháp thí.
rồi tới cuối cùng ông kết thúc, bố thí bình đẳng mới gọi là hội
pháp thí.
Bình đẳng là sao? Là
dù cho Phật đầy đủ muôn lượng công đức, kẻ ăn mày thấp nhất
trong hội đó. Trên là Phật, dước là kẻ ăn mày thấp nhất mà mình
thấy như nhau. Một xâu chuỗi anh lạc chia hai. Bình đẳng không?
Bồ Tát như vậy mà khong một niệm cầu phước cho mình. đó mới là
hội pháp thí. Gọi là đầy đủ pháp thí. Pháp thí như vậy mới là
đầy đủ.
Như vậy chúng ta xét
lại mình coi, hội pháp thí mà đầy đủ như trước đó thì mình khó
làm phải không? Nhiều quá. Hội pháp thí sau chót này dễ quá! Giả
sử bây giờ mình có một nải chuối sửa soạn đem cúng Phật. Có
người ăn mày đói tới xin, mình cầm nải chuối đem đi cúng Phật,
mình dám chia họ phân nữa không? Dám không? Bao nhiêu đó thì quí
vị kiểm. Mình thấy họ đói thì mặc họ, chớ nhất định cúng Phật
thôi phải không? Chứ không bao giờ nói đây anh đói quá, tôi chia
anh nữa nải, còn nữa nải tôi cúng Phật. Còn nữa nải kia cũng vẫn
cung kính chia cho họ chứ không phải khinh. Như cung kính đem
dâng cho Phật vậy. làm bao nhiêu đó quí vị thấy dễ làm hay khó.
Sao vậy? Đâu phải có chuỗi anh lạc mới khó. Chỉ cần một nải
chuỗi thôi mà mình được cái tâm như vậy đó thì cũng gọi là hội
pháp thí vậy.
Nhưng chúng ta có cái
khổ là kính thì kính, người nào thường thì khinh, phải không?
Kính thì kính quá, khinh cũng khinh quá. Cho nên cái gì mình
dành cho người mình cung kính đó, mà gặp kẻ mình khinh tới xin
là mình bực bội liền, phải không? Chẵng những không cho mà còn
rầy nữa chứ. Đừng có xin cái này tội chết à! Để cho tôi cũng
Phật, phải không? Vì mình nghĩ cái đó là tội. Chứ thật ra mình
được cái tâm bình đẳng mà cho như vậy. Ở đây Ngài Duy Ma Cật gọi
là cụ túc pháp thí. Đó là đầy đủ pháp thí.
Như vậy đoạn này
chúng ta thấy có một là tài thí. tài thí là một cái hội bố thí
tài sản 7 ngày. Đó là phước rồi. Nhưng phước đó là phước thế
gian thôi, không bằng cái phước pháp thí. Cho nên Ngài mới dẫn
bao nhiêu pháp để dạy ở đây. Đem những pháp đó ứng dụng bố thí
cho người thì gọi đó là hội pháp thí. nhưng kết thúc lại, với
một hình ảnh một xâu chuỗi, phân nữa cúng Phật, phân nữa cúng
người hạ tiện. Bần cùng hạ tiện nhất trong đám đó. Đó mới là đầy
đủ pháp thí. cuối cùng cái thí bình đẳng là trên hết. Vậy mình
phải hiểu cả ba cả ba trường hợp thí. Đó là nói cho thấy rõ
những câu chuyện. Bây giờ tới kết thúc.
Như thế các vị Bồ Tát
mỗi mỗi đều hướng về Phật để nói cái duyên xưa kia và khen ngợi
ông Duy Ma Cật, lời nói ông Duy Ma Cật. Đều nói rằng chúng con
không kham đến thăm bệnh ông ấy.
Các vị Bồ tát cũng
rút lui luôn. Trước thì đệ tử Thanh Văn rút lui không dám đi
thăm. Bây giờ chỉ có ai cừ khôi mới dám đi thăm.
Tới phẩm Văn Thù Vấn
Cật. Tức là đến phiên Ngài Văn Thù đi hỏi thăm bệnh.
Khi ấy Phật bảo Ngài
Văn Thù Sư Lợi:
(Ông đi đến thăm bệnh
ông Duy Ma Cật.
Ngài Văn Thù Sư Lợi
bạch Phật rằng:
(Bạch Thế Tôn! Bậc
Thượng Nhân kia khó mà đối đáp được vì đã thâm đạt được thật
tướng. Khéo nói pháp yếu. Biện tài không chướng ngại. Trí huệ
cũng không ngại. Tất cả các phương thức của Bồ Tất thảy đều biết
hết (phương thức tức là phương tiện. Hình thức gì của Bồ Tát
Ngài cũng thông hết. Nên gọi là phương thức). Những bí tàng của
chư PHật không chỗ nào mà chẳng nhập (vô bất đắc nhập đó, là
thảy đều được nhập). Hàng phục các chúng ma và được thần thông
du hí. Tối huệ phương tiện phương tiện kia đều đã được độ. Tuy
nhiên con xin vâng thánh chỉ của Phật mà đến thăm bệnh ông.
Trước khi nhận lời,
tán thán ông Duy Ma Cật. Chúng ta thấy đối với thật tướng của
các pháp thì ông đã thâm nhập. Ông lại khéo giảng pháp yếu cho
người ta. Ôg có đủ biện tài không chướng ngại. Đủ trí tuệ không
gì ngăn trở. Tất cả những phương thức của Bồ tát đều thông suốt
kho bí mật của Phật ông cũng được vào. hàng phục tất cả ma. Được
thần thông du hí. Được trí tuệ phương tiện... Như cậy ông đa
ccược đầy đủ tát cả cái đó rồi thì thật là đáng nể đáng kính.
Nhưng tuy vậy con xin vâng lời PHật con tới thăm. Ngài Văn Thù
không thăm nữa thì biết ai thăm. Cho nên tới đây thì Văn Thù
phải đi.
Khi đó ở tỏng chúng
hội các vị Bồ Tát và cac vị Đại đệ tử Thích Đề Hoàng Nhân tức là
trời Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương đều khởi nghĩ thế này:
Nay hai vị đại sĩ là Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật cùng luận bàn
với nhau, ắt là nói cai diệu pháp.
Liền khi ấy 8.000 vị
Bồ Tát, 500 vị Thanh Văn, trăm ngàn vị thiên nhân đều mới đi
theo. Khi ấy Ngài Văn Thù Sơ Lợi cùng các Bồ Tát, các vị Đại đệ
tử và chư Thiên nhân cung kính đi nhiễu để vào đại thành Tỳ Xá
Ly.
Giống hệt mình bây
giờ phải không? Khi có hai vị nào có uy tín, có tiếng tắm tới
đàm luận với nhau, quí vị có muốn đi nghe không? Rủ nhau đi nghe
bửa nay luận bàn cái gì. Như vậy kể số người đi, rồi mình nhìn
lại cái thất ông Duy Ma Cật. Thất ông cao lắm khoảng này là
cùng. Khoảng này mình chưa bao nhiêu người? 200 người là cứng
rồi. Thất ông bao nhiêu mà chứa 8.000 vị Bồ Tát. Rồi 500 vị
Thanh Văn. Rồi trăm ngàn vị Thiên Nhân nữa, không biết bao nhiêu
mà tính. Vậy đó mà đều dung hết. Đó là điều đặc biệt. Đó là cái
giai đoạn đầu Ngài Văn Thù mới nhận lời đi thăm. Tới giai đoạn
kế ông Duy Ma Cật ngồi trong thất mới suy nghĩ.
Khi ấy ông Trưởng giả
Duy Ma Cật tâm khởi nghĩ, nay Văn Thù Sư Lợi cùng với đại chúng
đồng đến. Liền dùng thần lực làm rỗng không trong thất của ông.
Dẹp hết đồ đạt (sở hữu tức là đồ đạt) và các thị giả. Chỉ để
giường bệnh mà nằm.
Chỗ này nói có cái
lý. Lý rằng cái thất của ông cũng chỉ cho cái tâm của tất cả
chúng sanh hay là của chư Bồ Tát. Nghĩa là tâm đó muốn đầy đủ
tuệ giác thì phải dẹp tất cả. Dẹp hết thì mới được tuệ giác.
Cũng như thất của ông muốn cho trống rỗng để cho dung chứa được
bao nhiêu người đó, thì ông phải dẹp tất cả. Đó là cái lý sẽ nói
ở đây.
Ngài Văn Thù Sư Lợi
đã vào trong cái nhà kia thấy thất trống rỗng không có vật gì,
riêng chỉ có một cái giường nằm. Khi ấy ông Duy Ma Cật mới nói:
(Lành thay! Văn Thù
Sư Lợi! Cái tướng không đến mà đến. Cái tướng không thấy mà thấy
(gặp nhau chào một một câu nghe tẻ lạnh làm sao).
Ngài Văn Thù liền
đáp:
(Như thế cư sĩ! Nếu
đến đã lại chẳng đếng. Nếu đi đã lại chẳng đi. Vì cớ sao? Đế đó
không chỗ mà đến. Đi đó không có chỗ mà đi. Còn cái đã thấy lại
không có chỗ để thấy.
Như vậy mở màn hai
ông nói chuyện nghe thấy trên trời xanh không, phải không? Ông
này ông vào không có mừng rỡ gì hết mà chào bằng một câu rằng:
Cái tướng chẳng đến mà đến. Cái tướng chẳng thấy mà thấy. Tại
sao tướng chẳng thấy mà thấy. Tại sao tướng chẳng đến mà đến?
Cái này học trong Trung Quán chắc dễ nhớ rồi. Bởi vì nó không có
cái đến thật, không có cái đi thật. Không có đến thật, không có
đi thật, nhưng có giả tướng đến giả tướng đi hay không? Như vậy
không đến mà đến, đó là cái tướng thật thì không đến nhưng cái
giả tướng thì có đến. Tướng thật không thấy giả tướng thì có
thấy. Chính vì vậy mà Ngài Văn Thù mới đáp lại rằng, như thế
đúng như cư sĩ nói. Nếu cái đến đã thì không lại không đến, đến
rồi thì lại không đến. Còn nếu cái đi rồi thì lại không đi. Cái
này trong kia đã nói rồi vì cớ sao? Vì người đến thì không có từ
đâu đến. Người đi thì không đi về đâu. Như vậy cái đến và cái
đi, đã thì không còn đến đã thì không còn đi. Đến rồi gọi là đã
phải không? Vì vậy tìm cái đến cái đi thật không có. Bây giờ đã
thấy lại không thấy. Cho nên nói rằng tướng thấy thì không
thấy.
Như vậy hai ông gặp
nhau nói chuyện mừng rỡ hay nói cái gì. Chào hỏi bằng một cách,
mở màn bằng một lối đến mà không thật đến. Đi không thật đi.
Thấy không thật thấy. Như mình gặp chào anh mới đến, phải không?
Chào anh mới đến là tướng đến. Nhưng mà đến thì không có thực
đến. Nếu nói thật có đeén thì phàm phu rồi. Cho nên Bồ Tát thấy
có đến mà không thật đến. Có đi mà không thật đi. Gặp nhau là
thấy, mà thấy cũng không thật thấy. Đó là tinh thần của Bồ Tát.
Ngang đây hai ông lý sự một chút rồi trở lại thực tế.
- --o0o--
|
|