|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
-
PHẦN MƯỜI LĂM
-
-
Sao gọi là không có
huệ phương tiện bị trói? Nghĩa là Bồ Tát trụ nơi tham dục, sân
nhuế, tà kiến... Các thứ phiền não mà gieo trồng các gốc công
đức. Ấy gọi là không có huệ phương tiện bị trói.
-
Quí vị thấy nghĩa là
Bồ Tát cũng làm lợi ích cho chúng sinh mà còn tham dục, con sân
nhuế, còn tà kiến... làm mọi việc phước đức, phước đức này,
phước đức nọ. Thấy ai khổ mình giúp. Thấy ai bệnh mình giúp. Làm
đủ thứ hết nhưng giúp thì gíup mà động tới nổi sân đùng đùng thì
đó gọi là gì? Động tới thì cũng là tham. Thành ra làm việc công
đức mà còn tham dục, còn sân nhuế, còn tà kiến thì làm việc công
đức đó là không có trí tuệ phương tiện là bị trói buộc. Nhớ cho
thật rõ mấy điều đó.
-
Sao gọi là có trí huệ
phương tiện được cởi mở? Nghĩa là lìa các tham dục, sân nhuế, tà
kiến... các thứ phiền não mà gieo trồng các gốc công đức rồi
hồi hướng về vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ấy gọi là huệ
phương tiện giải thoát hay được cởi mở.
-
Như vậy cũng làm việc
công đức, hai bên đều làm công đức, mà một bên làm việc công đức
còn mang trong lòng mình tham dục, sân nhuế, tà kiến. Còn một
bên làm việc công đức mà dứt lìa những cái đó, rồi lại hướng về
Phật đạo thì gọi là có trí tuệ phương tiện. Đó là được giải
thoát.
-
Văn Thù Sư Lợi, những
vị Bồ Tát có bệnh kia nên như thế mà quán các pháp (phải quán
các pháp như vậy đó). Lại nữa quán thân vô thường, khổ, không,
phi ngã, ấy gọi là huệ. Tuy thân có bệnh mà thường ở trong sanh
tử làm lợi ích cho tất cả chúng sinh không biết mệt mỏi, không
biết chán mỏi. Ấy gọi là phương tiện lại nữa quán thân, thân
chẳng lìa bệnh, bệnh chẳng lìa thân. Bệnh ấy, thân ấy phải mới,
không phải củ. Ấy gọi huệ. Dù thân có bệnh mà không hằng diệt.
Ấy gọi là phương tiện.
-
Đoạn này lại chỉ thêm
cho chúng ta thấy là Bồ Tát cũng dùng những pháp vô thường, khổ,
không, vô ngã của Phật dạy. Mình thấy rõ được lý vô thường, khổ,
không, vô ngã, gọi đó là trí huệ. Tuy thấy như vậy mà thường
Thanh Văn thấy vô thường, khổ, không, vô ngã thì liền thấy Niết
Bàn là tịch tịnh, phải không? Rồi thích an trú nơi Niết Bàn. Còn
Bồ Tát thấy vô thường, khổ, không, vô ngã mà thân này biết là
thân có bệnh mà ở trong sanh tử để làm lợi ích cho tất cả chúng
sinh, không biết mệt mỏi. Đó gọi là Bồ Tát có phương tiện. Chớ
không phải các Ngài thấy thân này là thật, là quí. Cho nên sanh
ra rồi chết đi, họ muốn sanh lại vì họ quí thân.
-
Còn một hạng người
nữa là thấy thân này vô thường, khổ, không, vô ngã. Rồi biết nó
quá tạm bợ, nó không có giá trị gì, rồi muốn bỏ luôn để nhập
Niết Bàn. Đó là hai quan niệm của phàm phu và của Nhị thừa. Bồ
Tát ngược lại biết rõ thân vô thường, khổ, không, vô ngã mà vẫn
mang thân làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không biết chán
mỏi. Đó là tâm niệm của Bồ Tát. Hai cái khác nhau chỗ đó đó.
-
Rồi lại nữa ở đây mới
nói Bồ Tát phải quán thân. Thân không lìa bệnh. Quán thân, chữ
thân trước là bảo mình quán thân. Cái thân này không lìa bệnh,
rồi bệnh không lìa thân. Bệnh ấy, thân ấy không phải mới, không
phải củ. Ấy gọi là huệ. Tại sao vậy? Bây giờ chúng ta xét thân
này và cái bệnh, hai cái đó rời nhau không? Bệnh ở ngoài thân có
hay là từ trong thân ra? Như vậy nếu bệnh không ngoài thân thì
tức nhiên thân không lìa bệnh mà bệnh cũng không lìa thân. Như
vậy bệnh và thân cũng không phải mới cũng không phải cũ. Sao
vậy? Mới phát bệnh hồi nãy thì nói mới, phải không? Còn bệnh năm
xưa gọi là cũ. Tại sao đây nói không phải mới, không phải cũ?
-
Bởi nếu có thân là có
bệnh. Tại sao vậy? Vì Phật đã dạy thân này là tứ đại hợp. Tứ đại
hợp thì tứ đại có hợp nhau hay không? Tứ đại là chống nghịch. Mà
chống nghịch là gốc bệnh. Cho nên có thân là có bệnh. Cái bệnh
đó có sẵn hay là mới có? Có tứ đại hợp là có bệnh liền. Như vậy
nó không phải mới rồi phải không? Nhưng tại sao không phải cũ?
Nó không phải mới vì có htân là gốc bệnh, cho nên bệnh không
phải là mới. Nhưng khi chưa đủ duyên thì nó không phát. Khi gặp
duyên nó mới phát, cho nên không phải là cũ. Như vậy để thấy rõ
rằng cái thân và bệnh cũng không phải mới, không phải cũ, không
phải lìa nhau. Thấy được như vậy đó gọi là có trí tuệ.
-
Dù thân có bệnh mà
chẳng hằng diệt. Dù Bồ Tát biết rằng cái thân này là gốc của
bệnh. Nhưng không muốn nhập Niết Bàn. Vì sao? Vì muốn còn thân
mà giáo hóa chúng sinh. Vì chúng sinh mê muội. Thân giả tưởng là
thật, khổ tưởng là vui... Mê muội như vậy. mình bây giờ được
biết, mình biết rồi mà mình lại muốn tịch diệt thì ai dạy giùm
họ, ai giáo hóa cho họ. Cho nên biết được như vậy rồi lý đáng
các Ngài đủ điều kiện nhập Niết Bàn mà không nhập Niết Bàn. Ấy
gọi là phương tiện. Phương tiện của Bồ Tát là như vậy.
-
Văn Thù Sư Lợi, Bồ
Tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm kia. Chẳng trụ ở trong
ấy cũng lại chẳng trụ, chẳng điều phục tâm.
-
Như vậy câu này nghe
dễ hiểu không? Nói rằng nếu Bồ Tát có bệnh thì nên như thế mà
điều phục tâm đó, nhưng mà chẳng trụ trong chỗ điều phục đó. Tại
sao vậy?
-
Vì sao? Nếu trụ chẳng
điều phục tâm, ấy là pháp của người ngu. Còn nếu trụ ở điều phục
tâm, ấy là pháp của Thanh Văn. Thế nên Bồ Tát không phải trụ ở
nơi điều phục mà chẳng điều phục tâm. Lìa hai pháp này, ấy gọi
là hạnh Bồ Tát.
-
Chỗ này quí vị nghe
cho kỹ để thấy cái cao thượng của Bồ Tát. Vì nếu Bồ Tát lo điều
phục tâm của mình thì điều đó rất tốt, rất phải rồi. Nhưng mà cố
chấp cái điều phục đó là cứu cánh, rồi cứ lo điều phục mãi, như
vậy đó trở thành Thanh Văn, quên làm lợi ích cho chúng sinh. Còn
nếu kẻ chưa bao giờ biết điều phục tâm thì kẻ đó là kẻ nào? Kẻ
mà chưa bao giờ biết điều phục tâm thì gọi kẻ đó là kẻ gì? Kẻ
ngu. Cái pháp của người ngu. Bởi vì tâm muốn gì thì họ chạy theo
cái nấy. Điên đảo đủ thứ thì đó là cái pháp của người ngu. Thành
ra Bồ Tát không kẻ ở hai bên đó. Không kẹt ở bên người ngu mà
cũng không kẹt ở cố chấp điều phục mà quên làm lợi ích cho chúng
sinh.
-
Ở trong sanh tử không
làm những hạnh ô uế. Trụ nơi Niết Bàn mà không hằng diệt độ. ấy
là hạnh của Bồ Tát.
-
Cái này thật là khó.
Ở trong sanh tử, tức là sống trong sanh tử như mọi người. Cũng
như chúng sinh mà không bao giờ làm hạnh ô uế. Hạnh ô uế như là
tham, sân, si. Hay là phá trai, phạm giới. Gọi đó là hạnh ô uế.
Trụ Niết Bàn mà không hằng diệt độ. Trụ Niết Bàn đây không phải
là chấp. Trụ ở tâm thanh tịnh không có dấy động. Cái tâm hằng
như như. Đó gọi là trụ Niết Bàn mà không hằng diệt độ. Tức là
không phải nhập Niết Bàn bằng một cách mãi mãi không sanh trở
lại. Đó là hạnh của Bồ Tát. Như vậy Bồ Tát tuy ở trong sinh tử
mà tâm hằng được thanh tịnh như như. Tuy tâm hằng thanh tịnh như
như mà không có ưng nhập Niết Bàn. Tức là không có đến chỗ vô
sanh. Đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Không phải là hạnh
phàm phu. Không phải là hạnh hiền thánh. Ấy là hạnh Bồ Tát.
-
Câu này quí vị thấy
dễ hiểu không? Không phải hạnh phàm phu thì mình hiểu rồi, mà
không phải hạnh hiền thánh. Như vậy là sao? Bồ Tát có phải là
hiền thánh không? Đây tôi thí dụ.
-
Thí dụ như có kẻ phàm
phu họ mê say rượu chè. Rồi có người tu giữ giới thanh tịnh,
biết rượu chè là tội lỗi, tránh xa không bao giờ bén mảng đến.
Người mê say rượu chè đó là kẻ xấu phải không? Còn người tránh
xa rượu chè đó là người tốt. Người tốt tức là người hiền phải
không? Như vậy một bên mê say, một bên xa lánh. Còn Bồ Tát không
phải vậy. không mê say rượu chè nhưng có khi ngồi quán rượu để
dạy cho người ta bỏ rượu. Như vậy đó là hạnh của Bồ Tát. Quí vị
thấy nó khác hơn phàm phu ngồi quán rượu vì say rượi, vì mê
rượu. Còn hiền thánh vì tránh, biết chỗ đó xấu, không bén mảng
tới, thì đó là hạnh người tốt. Nhưng đây vẫn tới chỗ đó, không
vì mê say mà vì giáo hóa họ. Cho nên nói hanh đó là hạnh Bồ Tát.
Cái này thật là, đến đó mới dám làm nghe. Chứ đừng tưởng lấy cớ
rằng tôi tu hạnh Bồ Tát, rồi sớm la cà quán rượu, chiều la cà
thanh lâu. Nói tôi tới đây để giáo hóa họ. Nhưng giáo hóa ai
chưa biết mà mình nghiền trước rồi. Cái đó là đại tội đó. Nên Bồ
Tát tới đó mà không phải như tâm phàm phu. Như vây mới đúng là
hạnh Bồ Tát.
-
Không phải cái hạnh
cấu. Không phải cái hạnh tịnh. Ấy là cái hạnh Bồ Tát.
-
Không phải hạnh cấu
(tức là hạnh nhơ nhớp). Cũng không phải hạnh tịnh. Ấy là hạnh Bồ
Tát. Hạnh cấu là gì? Hạnh tịnh là gì? Hạnh cấu, thí dụ như những
kẻ tham lam, nóng giận v.v... Hạnh đó là cấu hay tịnh? Đó là
hạnh cấu, hạnh nhơ nhớp. Hạnh tịnh là những người không tham
lam, không nóng giận, đó là hạnh tịnh. Nhưng Bồ Tát thì không
phải cả hai cái đó. Bồ Tát có khi các Ngài la rầy, đánh đập. La
rầy, đánh đập là vì cái gì? Vì để răn, để sửa những chúng sanh
ngoan cố. Nhưng vì thương họ, la rầy, đánh đập. Cái hạnh la rầy,
đánh đập đó cấu hay tịnh? Là cấu rồi phải không? Nhưng mà không
ở trong lòng xấu, không phải vì tham vì sân. Vì vậy mà không
phải cấu. Mà đã la rầy đánh đập rồi làm sao gọi là tịnh được
phải không? Cho nên không phải là tịnh. Đó là hạnh của Bồ Tát.
Thực ra hạnh của Bồ Tát là hạnh không thể lường được. Người phàm
khó thấy, khó biết. Chúng ta luôn luôn thâý có hai bên. Ai xấu
thì chúng ta thấy xấu. Ai tốt thì chúng ta thấy tốt. Thấy người
xấu mình chê. Thấy người tốt mình khen. Hai cái đó hết sức rõ và
cũng hết sức dễ. Còn hàng Bồ Tát này có khi thấy họ như xấu mà
tâm họ không phải xấu. Rồi mình làm sao, mình khen hay mình chê?
Đó là những điều mà gọi là hạnh Bồ Tát, là cái hạnh khó, hạnh
nghĩ bàn, khó mà thấy tới được.
-
Tuy qua khỏi hạnh của
ma mà hiện hàng phục chúng ma. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Bồ Tát thì đâu còn bị
nghiệp chướng sanh trong các loài ma vương hay quỷ thần. Nhưng
các Ngài có khi cũng thị hiện làm những việc của quỷ thần, của
ma vương để hàng phục chúng nó, chớ không phải tránh nó mãi
mãi.
-
Cầu nhất thế trí,
không cầu phi thời. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Quí vị thây câu này
dễ hiểu hay khó? Cầu nhất thế trí không cầu phi thời. Ấy là hạnh
của Bồ Tát. Bởi vì nhất thế trí là trí biết tất cả. Hàng Thanh
văn thì được nhất thế trí còn Phật thì gọi là gì? Là đạo chủng
trí. Bồ Tát, các Ngài cũng cầu nhất thế trí nhưng mà không phải
cầu phi thời. Nghĩa là cầu nhất thế trí để biết tất cả tâm địa
và các pháp để giáo hóa chúng sinh. Chớ không phải cầu nhất thế
trí để an trụ Niết Bàn, để thoát ly sinh tử cho bản thân mình.
vì vậy mà nói không cầu phi thời. Đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy quán các pháp
chẳng sanh mà chẳng nhập chánh vị. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Nghĩa là quán thấy
các pháp không có thực tính, do duyên hợp tự tánh là không. Mà
tự tánh là không thì duyên hợp gọi là sanh. Duyên ly tán gọi là
diệt. Cái sanh cái diệt đó không thực cho nên nói rằng thấy nó
không sanh. Thấy không sanh mà không nhập chánh vị. Chánh vị đây
là chỉ cho Niết Bàn. Niết Bàn là vô sanh. Tuy thấy các pháp
không sanh mà mình không. Nhập chỗ không sanh. Đó là hạnh của Bồ
Tát.
-
Tuy quán 12 nhân
duyên, 12 duyên khởi mà nhập vào các tà kiến. Ấy là hạnh của Bồ
Tát.
-
Nói rằng Bồ Tát quán
12 duyên khởi mà vào tà kiến. Bởi vì thường chúng ta học đạo thì
pháp duyên khởi là pháp chính của người tu, của Thanh Văn, của
Bồ Tát, do Phật dạy. Thấy các pháp do duyên sinh là thấy đúng
chân lý. Thấy đúng lẽ thật. Còn nếu thấy có, thấy không, thấy
phải, thấy quấy là thật thì đó là thấy tà kiến, phải vậy không?
Vậy thì Bồ Tát lúc nào cũng thấy rõ các pháp là duyên khởi.
Nhưng đối với chúng sinh phải dạy họ bỏ điều ác. Nói đây là điều
ác thật phải bỏ đi. Đây là điều thiện thật phải ráng làm. Như
vậy có tà kiến không? Điều ác, điều thiện là duyên hợp không
thật, phải không? Nhưng mình vẫn nó nó thật, để bảo người ta
tránh. Mình nói nó thật để bảo người ta làm. Như vậy có vào tà
kiến không? Như vậy để hiểu cho thật rõ, chớ nhiều khi chúng ta
chỉ nhìn có một chiều, mình thấy cái gì cũng duyên khởi tánh
không, rồi nói cái gì cũng không không hết trơn. Rồi mấy người
mới vào đạo, nói các pháp không thật, họ biết làm sao mà tu đây,
phải không? Cho nên mình biết rõ các pháp duyên khởi tánh không,
nhưng kẻ mới học đạo, thì phải chỉ thẳng rằng, đây là cái tội.
Tội này là thật đó, chớ tạo sẽ bị đọa vào địa ngục. Đây là cái
phước thật đó, nếu tu thì sanh thiên đường. Mình nói như khẳng
đình thì có giống tà kiến không? Giống tà kiến. Mà chính đó là
hạnh Bồ Tát vì làm lợi ích cho chúng sinh, chớ không nói theo
cái thấy riêng của mình.
-
Tuy nhiếp phục tất cả
chúng sinh mà không có ái trước. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy là mình nhiếp
phục mình giáo hóa được tất cả chúng sinh mà mình không có mê
chấp ở đó thì đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy ưa xa lìa mà
chẳng y nơi thân tâm hết. Âúy là hạnh của Bồ Tát.
-
Mấy câu này nghe lạ.
Tuy là ưa xa lìa mà chẳng y nơi thân tâm hết. Ưa xa lìa tức là
vì Bồ Tát thấy thân là không thật. Thấy thân là nhớp nhúa, là
tạm bợ. Cho nên Ngài cũng thích xa lìa nó. Nhưng vì lòng đại bi
muốn giáo hóa cho mọi người cùng thấy như mình, cùng được như
minh, nên không để thân tâm này nó hết, vẫn để cho nó còn tiếp
tục tái sanh để giáo hóa họ. Chó không phải vì thấy thân này vô
thường không rồi, muốn xa lìa mãi mãi, nhập Niết bàn không còn
tái sanh nữa. Bồ Tát biết điều đó, ưa điều đó, mà vì thương
chúng sinh nên vẫn giữ thân tâm còn lại để giáo hóa họ. Đó là
hạnh Bồ Tát.
-
Tuy là đi trong tam
giới mà không phá hoại pháp tánh. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Pháp tánh là gì? Tức
là tánh thể của các pháp. Tánh thể của các pháp thật có không?
Cái nhà có nó có thực tủa cái nhà không? Như vậy cái nhà không
có thực thể cái nhà. Cái chuông không có thực thể cái chuông.
Cái mõ không có thực thể cái mõ. Cho tới mọi người, mọi cảnh,
đều là tướng lừa dối không có thực thể. Tất cả cảnh trong dục
giới, không có thực thể, thì sắc giới, vô sắc giới cũng không có
thực thể. Như vậy các Ngài làm hạnh Bồ Tát, tuy là qua lại trong
tâm giới mà không pháp hoại pháp tánh. Tức là đi qua lại trong
tam giới mà vẫn thấy rõ tam giới là không thực. Tam giới là hư
dối, thấy rõ như vậy. Đó là hạnh Bồ Tát. Chớ không phải như minh
đi trong tam giới rồi mê, tới đâu tưởng thiệt tới đó.
-
Như bây giờ mình ở
trong dục giới này, mình thấy thiệt không? Như vậy mình có pháp
hoại pháp tánh không? Chúng ta vào trong cõi nào thì chúng ta
liền tháy cõi đó là thật. Đó là phá hoại pháp tánh. Còn Bồ Tát
vào trong tam giới mà vẫn thấy tam giới không thật, không có tự
thể, cho nên không phá hoại pháp tánh.
-
Tuy hành nơi không mà
gieo trồng các gốc công đức. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Học những cái này
chúng ta phải nghiềm ngẫm cho thật kỹ. Nhiều khi mấy chú mới học
đạo, nghe nói các pháp do duyên hợp, tánh nó là không, tội cũng
không thật, phước cũng không thật v.v... Mà tội không thật,
phước không thật thì làm phước làm gì. Rồi thôi nghêu ngao mà
chơi. Như vậy đó là cái bệnh. Cho nên đây biết rõ các pháp tự
tánh là không, nhưng mọi công đức vẫn không bỏ sót, vẫn không
quên làm thì đó là hạnh của Bồ Tát. Nhớ như vậy. chớ để nhiều
khi chúng ta học rồi cái học đó nó làm chướng ngại việc lành.
Nên tôi thấm thiết nhất là câu mà đức Phật nói rằng, đức Phật
còn mót từ cái phước xỏ kim. Còn chúng ta công đức cỡ nào mà
nhiều khi thấy việc lành không muốn làm. Huynh đệ có việc gì
nặng nhọc, họ làm không muốn nổi, kêu giúp một tay thì ngó lơ
đi. Như vậy đó mấy chú nghĩ sao? Mình có phước hơn Phật không?
Nghĩa là Phật còn xỏ kim gìum cho Ngài A Na Luật, khi Ngài không
thấy đường xỏ kim để vá áo. Ngài than rằng:
-
(Ai làm phước lại xỏ
giùm cây kim cho tôi.
-
Phật liền đi tới
nói:
-
(A Na Luật, đưa đây
ta xỏ kim cho để bòn 1 chút phước.
-
Mấy chú thấy Phật còn
tiếc từng cái phước xỏ kim. Còn mình bây giờ tu hành chưa ra trò
ra trống gì, mà những điều phước thiện để cho vui với nhau đó,
mình còn không muốn làm thì thiệt là quá dở phải không? Đó là
những điều Bồ Tát làm.
-
Tuy hành vô tướng mà
độ chúng sinh. Âúy là hạnh của Bồ Tát.
-
Hành vô tướng tức là
thấy tất cả pháp không có tướng thật. Thí dụ như chúng ta nhìn
cái đồng hồ. Phàm phu cho đó là đồng hồ thật, có tướng tròn,
tướng vuông, tướng đẹp, tướng xấu. Nhưng với con mắt trí tuệ của
hành duyên giác thì thấy đồng hồ chỉ là một mới bộ phận rạp lại.
Mếu mở tháo tung ra thì có còn gì là đồng hồ đâu. Từng bộ phận
ráp lại đủ thì tạm gọi là đồng hồ. Mở tung ra thì không có đồng
hồ thật. Như vậy các pháp có tướng gì thật đâu.
-
Như cái nhà này, mình
nói nó là cái nhà, hình chữ nhật hay là hình gì đó. Như sự thật
là hình chữ nhật, hay là nó có thướng thật là hình thế này thế
kia không? Chẳng qua là một mớ duyên ráp lại, rồi nó có cái giả
tướng. Cái giả tướng đó nó không thật. Cho nên Bồ Tát thấy cái
tướng là không thật mà độ chúng sinh không mệt mỏi. Chớ còn nói
tất cả pháp không có tướng nào thật hết thì chúng sinh cũng đâu
có thật. Chúng sinh không thật thì khổ vui đâu có thật phải
không. Khổ vui không thật thì khổ kệ họ, cứu họ làm chi, khổ đâu
có thật. Như vậy tâm niệm đó chưa phải là tâm niệm của Bồ Tát.
Tuy không có tướng thật mà luôn luôn cứu độ chúng sinh, làm lợi
ích cho chúng sinh. Đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành vô tác mà
hiện thọ thân. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành vô tác, (vô
tác đây là vô nghiệp). Bồ Tát không còn nghiệp để sanh tử nữa
nhưng luôn luôn hiện thân trong tam giới để giáo hóa chúng sinh
đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Còn mình bây giờ làm
sao? Mong tu hết nghiệp cho rồi, khỏe phải không? Mấy chú có ham
điều đó không? Làm sao cho mình hết sạnh nghiệp để mình giải
thoát cho rồi còn thiên hạ ở đây ai sao kệ họ, miễn mình giải
thoát thì thoi. Cho nên nhiều khi toooi nói mình tàn nhẫn, ăn
cơm của bá gia bá tánh, mỗi ngày nhận lãnh của người ta mà tu
rút cho mình về cực lạc phứt cho rồi, để thiên hạ bà cỏn ở đây
làm sao thì làm. Như vậy có tàn nhẫn không. Hay là mình nhận của
thiên hạ ăn mỗi ngày, cả ăn cả mặc, mà bây giờ nói tôi tu rút để
tôi nhập Niết bàn, hết sanh tử. Vậy ai trở lại đây tiếp độ họ?
Có phải là mình muốn quịt nợ không? Cho nên chúng ta phải có tâm
niệm cao thượng của Bồ Tát hạnh để thấy rõ cái gì nên làm. Chớ
không nhiều khi cái tu của mình không khéo nó biến thành ích kỷ,
của người ta thì nhận mà cứ lo phận mình thôi. Cái đó thật là
tàn nhẫn đó. Hiểu cho rõ mới thấy Bồ Tát hết nghiệp nhưng vẫn
hiện thọ thân. Chúng ta tu những nghiệp ác của thân, khẩu, ý.
Những nghiệp sanh tử của thân, khẩu, ý chúng ta dừng nhưng vẫn
nguyện cầu tiếp tục sanh trong ta bà hay trong tam giới để giáo
hóa chúng sinh. Như vâỵ mới là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành vô khởi mà
khởi tất cả hạnh lành. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành vô khởi mà
khởi tất cả các pháp không có thật tươngs. Không có thật tướng
tì cái gì sinh, cái gì diệt? Sinh tức là khởi. Tuy thấy các pháp
không sanh, không diệt mà luôn luôn khởi tất cả hạnh lành để làm
lợi ích chúng sinh. Đó là hạnh Bồ Tát.
-
Tuy hành lục Ba La
Mật mà khắp biết tâm vương, tâm sở. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành Lục Ba La
Mật, tức là 6 pháp Ba La Mật. Sáu pháp Ba La Mật là lục độ đễ đi
đến bờ kia, tức là bờ của Niết Bàn. Tới bờ giải thoát rồi nhưng
luôn luôn cốt thấy được tâm niệm, tâm vương, tâm sở của chúng
sinh.Tâm thiện, tâm ác, tâm thế này thế kia để dùng phương tiện
giáo hóa họ. Đó là hạnh của Bồ Tát. Chớ không phải dùng lục độ
đưa mình qua bên kia rồi an trú ở Niết Bàn. Không phải vậy.
-
Tuy hành lục thông mà
không có tận lậu. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Lục thông là gì? Tức
là 6 thức thần thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, rôì Túc
mạng thông, Tha tâm thông, Thần túc thông và Lậu tận thông. Tuy
tu đủ lục thông mà chừa cái thông sau chót đó , là Lậu tận
thông. Vì Lậu tận là chỉ cho các nghiệp đã sạch hết, không còn
để rớt trong tam giới. Gọi đó là lậu tận. Bồ Tát tuy đủ lục
thông nhưng về cái rớt trong tam giới thì các Ngài còn để dành
lại. Để dành cái đó để đi trong tam giới để độ chúng sinh, chớ
các Ngài không chịu rớt trong tam giới. Cho nên không có lậu
tận.
-
Tuy hành Tứ vô lượng
tâm mà không tham trước sanh ở cõi trời Phạm Thiên. Ấy là hạnh
của Bồ Tát.
-
Bởi vì trong kinh
Phật thường nói người nào tu: Từ, Bi, Hỷ, Xả, bốn hạnh đó viên
mãn thì được sanh về cõi trời Phạm Thiên. Bồ Tát cũng tu bốn
hạnh: Từ, Bi, Hỷ, Xả nhưng không cốt để sanh về cõi Phạm Thiên.
Đó là hạnh Bồ Tát.
-
Tuy hành Thiền định,
giải thoát tam muội mà không rơi trong Thiền sanh. Ấy là hạnh
của Bồ Tát.
-
Nói rằng chúng ta tu
như là được định Sơ thiền, được định Nhị thiền, định Tam thiền,
định Tứ thiền, rồi cho tới Không vô biên xứ ... Tất cả những tam
muội đó Bồ Tát cũng tu hết, nhưng các Ngài không vì sanh ở trong
các chỗ đó. Thí dụ nhưng người tu đinh Sơ thiền thì chết sanh về
cõi Sơ thiền thiên phải không? Người được đinh tứ Thiền, thì
chết sanh về Tứ thiền thiên. Ngài tu hết những định đó mà không
chịu sanh về những cõi đó mà trở lại Ta bà giáo hóa chúng sinh.
Đó là hạnh Bồ tát.
-
Tuy hành Tứ Niệm Xứ
mà không có cứu cánh hằng lìa thân thọ, tâm, pháp. Ấy là hạnh
của Bồ Tát.
-
Thường thường Tứ niệm
xứ là quán làm sao? Quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán
tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Bốn pháp quán đó thành công rồi
thì vĩnh viễn lìa thân, không còn bị sanh trở lại nữa. Nhưng các
Ngài tu bốn hạnh đó là không vĩnh viễn lìa thân, cũng không vĩnh
viễn lìa thọ, tâm và pháp, để còn thân, còn thọ, còn tâm, pháp
mà trở lại giáo hóa chúng sanh. Đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành Tứ chánh cần
mà không xả thân tâm tinh tấn. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Nói rằng Bồ Tát tu Tứ
chánh cần (Tứ chánh cần thì dễ nhớ rồi). Đều ác chưa sanh thì
ngăn đừng cho nó sanh. Điều ác đã sanh thì cố gắng tiêu diệt.
Điều ác đã sanh thì cố gắng tiêu diệt. Điều thiện chưa sanh thì
kích phát cho nó sanh. Điều thiện đã sanh thì tạo điều kiện cho
nó tăng trưởng. Đó là Tứ chánh cần. Bồ Tát. Bồ Tát tu Tứ chánh
cần này mà không bỏ thân tâm tinh tấn. (Tức là tu Tứ chánh cần
rồi mà thân tâm mãi mãi tinh tấn không dừng). Gọi là hạnh của Bồ
Tát.
-
Tuy hành Tứ như ý túc
mà được tự tại thần thông. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Tứ như ý túc là bốn
pháp của Đại thừa tu đó. Tứ như ý túc, mấy chú nhớ là gì không?
-
!- Là Dục Như Ý Túc.
-
2- Là Tinh Tấn Như Ý
Túc.
-
3- Là Niệm Như Ý
Túc.
-
4- Là Nhất Tâm Như Ý
Túc (hay là định Như Ý Túc).
-
Như vậy Bồ Tát tu 4
cái đó thì theo phàm phu hay Thanh Văn? Tu 4 cái đó thì được đầy
đủ 4 Như Ý Túc thôi. Còn các Ngài Bồ Tát tu 4 cái đó là đầy đủ
tất cả thần thông. Đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành ngũ căn mà
phân biệt chúng sinh, các căn lợi độn. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Tức là Ngũ Căn đó.
Khi tu Ngũ Căn cốt làm sao để biết căn của chúng sinh, người đó
lanh lợi, ngu độn để tìm cách giáo hóa họ. Đó là hạnh của Bồ
Tát.
-
Tuy hành Ngũ Lực mà
ưa cầu thập lực của Phật. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Hạnh Thanh Văn thì tu
Ngũ Lực, Bồ Tát cũng tu Ngũ Lực nhưng các Ngài chỉ mong làm sao
được thập lực của Phật mới thội. Đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành Thất giác
phần mà phân biệt trí huệ Phật. Ấy là hạnh Bồ Tát.
-
Thất Bồ Đề phần là 7
phần giác ngộ. Bảy phần giác ngộ đó là của Thanh Văn, ở đây các
Ngài cũng tu 7 phần đó nhưng cốt được trí huệ Phật, chớ không
cốt được trí tuệ Thanh Văn. Đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành Bát chánh
đạo mà ưa hành vô lượng Phật đạo. Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Thường thường chúng
ta tu Bát chánh đạo là dượt trừ tâm bệnh của mình. Ở đây Bồ Tát
tu Bát chánh đạo nhưng nguyện hành vô lượng Phật đạo, thì đó là
hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành chỉ quán để
làm pháp trợ đạo, không cứu cánh rơi ở tịch diệt. Ấy là hạnh của
Bồ Tát.
-
Thường thường chúng
ta tu chỉ hay là tu quán để làm gì? Để tâm mình yên lặng, phải
không? Tâm yên lặng tức là tiến tới chỗ tịch diệt. Bồ Tát cũng
tu chỉ tu quán, dùng cái đó để giúp cho đạo pháp, nhưng các Ngài
không an trú chỗ tịch diệt. Đó là hạnh của Bồ Tát.
-
Tuy hành các pháp
chẳng sanh, chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân kia.
Ấy là hạnh của Bồ Tát.
-
Bởi Bồ Tát luôn luôn
biết các pháp thực thể không sanh không diệt. Tuy thực thể không
sanh không diệt mà luôn luôn tu các hạnh tướng hảo, trang nghiêm
thân. Tại sao vậy? Lẽ ra thì các pháp không sanh không diệt
- --o0o--
|
|