|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Thích
Duy Lực
- --o0o--
-
- QUYỂN NĂM
-
- A Nan bạch
Phật rằng:
- - Như Lai dù
đã khai thị nghĩa thứ hai, nhưng con xét những người mở thắt
kết, nếu chẳng biết cái gốc của thắt kết, thì con tin chắc người
ấy chẳng bao giờ mở được. Thế Tôn, con và hàng hữu học Thanh văn
trong hội cũng như vậy; chúng con với vô minh cùng sanh cùng
diệt từ vô thỉ, dù được thiện căn đa văn, mang tiếng là xuất
gia, mà sự tu như người sốt rét cách nhật, lúc có lúc không. Xin
Phật từ bi thương xót kẻ chìm đắm, khai thị thế nào là cái thắt
kết của thân tâm hiện hữu này, làm sao được mở, cũng khiến chúng
sanh khổ não đời vị lai được ra khỏi luân hồi. Nói xong, cùng
đại chúng năm vóc gieo sát đất, cung kính rơi lệ, mong đợi lời
khai thị vô thượng của Phật.
- Bấy giờ, Thế
Tôn thương xót A Nan và hàng hữu học trong hội, đồng thời làm
nhân xuất thế gian, chỉ đường cho tất cả chúng sanh đời vị lai,
lấy tay xoa đầu A Nan. Liền đó, sáu thứ rung động khắp mười
phương thế giới, vô số Như Lai trong các cõi ấy, mỗi mỗi đều từ
đỉnh đầu phóng ra hào quang, đồng thời chiếu đến rừng Kỳ Đà, rọi
vào đỉnh đầu Như Lai, cả chúng đều được pháp chưa từng có.
- Lúc ấy, A Nan
và đại chúng đều nghe mười phương Như Lai đồng thanh bảo A Nan
rằng:
- - Lành thay,
A Nan! Ngươi muốn biết cái Câu Sinh Vô Minh (căn bản vô minh),
là gốc thắt kết khiến ngươi lưu chuyển trong vòng sanh tử ấy,
chính là lục căn của ngươi chứ chẳng phải vật khác; ngươi lại
muốn biết đạo Vô Thượng Bồ Đề khiến ngươi mau chứng quả tự tại
giải thoát, tịch lặng thường trụ ấy, cũng chính là lục căn của
ngươi chứ chẳng phải vật khác.
- A Nan dù được
nghe pháp âm như vậy, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch Phật:
- - Tại sao
khiến con bị sanh tử luân hồi và được tự tại giải thoát, đều là
lục căn, chẳng phải vật khác?
- Phật bảo A
Nan:
- - Căn trần
cùng gốc, thắt mở chẳng hai, tánh thức hư vọng như hoa đốm trên
không. A Nan, do trần phát tri, vì căn kiến tướng; kiến và tướng
chẳng có tự tánh, như những cây sậy gác vào nhau, cho nên ngươi
nay lập tri kiến thành tri, tức là căn bản của vô minh, nếu đối
với tri kiến chẳng chấp là tri kiến, ấy tức là Niết Bàn, trong
sạch vô lậu, làm sao trong đó còn có thể dung nạp vật khác.
- Bấy giờ, Thế
Tôn muốn lập lại nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:
-
Chơn tánh hữu vi không
-
Duyên sanh cố như huyễn
-
Vô vi vô khởi diệt,
-
Bất thật như không hoa
-
Ngôn vọng hiện chư chơn,
-
Vọng chơn đồng nhị vọng,
-
Do phi chơn phi chơn,
-
Vân hà kiến sở kiến?
-
Trung gian vô thật tánh,
-
Thị cố nhược giao lô,
-
Kết giải đồng sở nhân,
-
Thánh phàm vô nhị lộ,
-
Nhữ quán giao trung tánh,
-
Không hữu nhị câu phi.
-
Mê hối tức vô minh,
-
Phát minh tiện giải thoát,
-
Giải kết nhân thứ đệ,
-
Lục giải nhất diệc vong,
-
Căn tuyển trạch viên thông,
-
Nhập lưu thành Chánh Giác,
-
Đà Na vi tế thức,
-
Tập khí thành bạo lưu.
-
Chơn phi chơn khủng mê,
-
Ngã thường bất khai diễn
-
Tự tâm thủ tự tâm,
-
Phi huyễn thành huyễn pháp
-
Bất thủ vô phi huyễn,
-
Phi huyễn thượng bất sanh,
-
Huyễn pháp vân hà lập?
-
Thị danh Diệu Liên Hoa,
-
Kim Cang Vương Bửu Giác
-
Như huyễn Tam Ma Đề,
-
Đờn chỉ siêu vô học
-
Thử A Tỳ Đạt Ma,
-
Thập phương Bạt Già Phạn,
-
Nhất lộ Niết Bàn môn.
- Dịch
nghĩa:
-
Tánh hữu vi vốn không,
-
Duyên sanh nên như huyễn
-
Vô vi không sanh diệt,
-
Chẳng thật như hoa đốm,
-
Nói vọng để hiển chơn,
-
Vọng chơn là hai vọng
-
Phi chơn phi bất chơn
-
Làm sao kiến sở kiến?
-
Trong đó chẳng thật tánh,
-
Nên như sậy gác nhau.
-
Thắt, mở đồng một nhân,
-
Thánh phàm chẳng hai đường,
-
Ngươi xem tánh gác nhau,
-
Không, Hữu thảy đều sai.
-
Mê muội tức vô minh,
-
Phát minh liền giải thoát.
-
Mở, thắt theo thứ tự,
-
Lục mở nhất cũng tiêu
-
Chọn căn nào viên thông,
-
Nhập lưu thành Chánh Giác.
-
Đà Na (thức thứ tám) thức vi tế,
-
Tập khí như nước dốc.
-
Sợ chấp Chơn phi chơn,
-
Nên ta chẳng khai giảng
-
Tự tâm chấp tự tâm,
-
Phi huyễn thành pháp huyễn.
-
Chẳng chấp chẳng phi huyễn
-
Phi huyễn còn chẳng sanh,
-
Pháp huyễn làm sao lập?
-
Đây gọi Diệu Liên Hoa
-
Bửu giác như Kim Cang
-
Tu theo Tam Ma Đề,
-
Búng tay siêu vô học
-
Pháp này chẳng gì bằng,
-
Mười phương chư Như Lai,
-
Chỉ một cửa Niết Bàn.
- LƯỢC GIẢI
- Trước kia,
A Nan hỏi Phật những phương tiện đầu tiên về ba thứ Thiền Quán:
Sa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na, mà mười phương Như Lai đồng thanh
đáp lại A Nan rằng: "Ngươi muốn biết cái Câu Sinh Vô Minh, là
gốc thắt kết khiến ngươi lưu chuyển trong vòng sanh tử ấy, chính
là lục căn của ngươi chứ chẳng phải vật khác; ngươi lại muốn
biết Đạo Vô Thượng Bồ Đề, khiến ngươi mau chứng quả tự tại giải
thoát, tịch lặng thường trụ ấy, cũng chính là lục căn của ngươi,
chứ chẳng phải vật khác".
- Cũng như
lời thí dụ băng nước kể trên, nước đóng thì thành băng, đâu thể
cho lộn vật khác mà thành băng; băng tan thì thành nước, đâu thể
cho lộn vật khác mà thành nước.
- Lục căn làm mai mối cho giặc,
tự cướp của báu trong nhà, ấy là lục căn; lục mở nhất tiêu, mau
chứng Chánh Giác, cũng là lục căn. Vậy tức vọng tức chơn, tức
chơn tức vọng, chỗ này cần phải có diệu ngộ mới được, chữ Diệu
này lời nói chẳng thể diễn tả, ắt phải chuyển thức thành trí,
khế hợp với Diệu Tâm sáng tỏ, mới có thể nói là Vô Thượng Bồ Đề.
- Bửu Giác
như Kim Cang: tánh Kim Cang hay phá hủy tất cả, Thập Địa đều gọi
là Tâm Kim Cang, như phá hủy sơ địa lên nhị địa, phá hủy nhị địa
lên tam địa v.v... Nếu Bửu Giác này được hiện ra, chẳng những
căn bản vô minh liền tiêu, cả Tri kiến Bồ Tát và Tri Kiến Phật
cũng không còn. Ba thứ Thiền quán Sa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na
chỉ cần tự ngộ, hễ ngộ thì liền đến địa vị Phật, nên trong búng
ngón tay siêu việt bậc vô học của nhị thừa. Bậc vô học vì còn
chấp vô kiến, tức còn lọt vào công dụng, đây chơn tánh hiện
tiền, hữu vô đều lìa, một cửa sâu vào, chẳng phải nhờ công dụng,
nên gọi là cửa Đốn Ngộ vậy. (chẳng nhờ công dụng là chẳng phải
chẳng cần công phu).
- *****
- A Nan và đại
chúng nghe lời dạy vô thượng và bài tụng tinh túy, diệu lý trong
suốt của Phật, tâm được sáng tỏ, tán thán pháp chưa từng có. A
Nan chắp tay đảnh lễ bạch Phật:
- - Nay con dù
nghe pháp tánh chơn thật, vi diệu trong sạch của Phật, nhưng tâm
còn chưa thấu nghĩa "lục mở nhất tiêu" theo thứ tự của mở thắt,
xin Phật rủ lòng từ bi, thương xót cả hội này và chúng sanh đời
vị lai, bố thí pháp âm và rửa sạch trần cấu cho chúng con.
- Tức thời, Như Lai từ nơi tòa sư
tử, chỉnh áo trong và sửa đại y, dựa vào ghế thất bảo, lấy cái
khăn bông của cõi Trời Dạ Ma cúng dường ở trước mặt đại chúng
thắt một cái kết, rồi hỏi A Nan:
- - Đây gọi là
gì?
- A Nan và đại
chúng đều đáp:
- - Gọi là thắt
kết.
- Như Lai thắt
thêm một kết nữa, lại hỏi A Nan:
- - Đây gọi là
gì?
- A Nan và đại
chúng lại đáp:
- - Đây cũng
gọi là thắt kết.
- Phật tuần tự
thắt sáu cái kết trên khăn, mỗi khi thắt xong một cái, đều lấy
cái kết vừa thắt hỏi:
- - A Nan, Đây
gọi là gì?
- A Nan và đại
chúng cũng tuần tự đáp lại Phật:
- - Đây gọi là
thắt kết.
- Phật bảo A
nan:
- - Khi ta mới
thắt cái khăn thì ngươi gọi là thắt kết, khăn bông này vốn chỉ
có một, tại sao lần thứ hai, lần thứ ba các ngươi cũng gọi là
thắt kết?
- A Nan bạch
Phật:
- - Khăn này dù
chỉ có một theo con nghĩ: Như Lai thắt một lần thì được gọi là
một cái kết, nếu thắt đến trăm lần thì phải gọi là trăm cái kết,
huống là khăn này chỉ có sáu kết, không lên đến bảy, cũng không
ngưng ở năm, tại sao Như Lai chỉ cho cái đầu tiên được gọi là
thắt kết, còn cái thứ hai, thứ ba thì chẳng gọi là thắt kết?
- Phật bảo A
Nan:
- - Ngươi biết
khăn bông này vốn chỉ là một, khi ta thắt sáu lần thì gọi là sáu
kết. Ngươi hãy xét kỹ, bản thể của khăn là đồng, do thắt kết mà
thành khác. Ý ngươi thế nào? Cái thắt kết đầu tiên thì gọi là
kết thứ nhất, như vậy cho đến cái kết thứ sáu, nay ta muốn gọi
cái kết thứ sáu thành kết thứ nhất, có được chăng?
- - Bạch Thế
Tôn! Sáu kết nếu còn thì cái thứ sáu chẳng thể gọi là cái thứ
nhất, dẫu cho con dùng hết biện tài nhiều kiếp để sáng tỏ nghĩa
lý, cũng chẳng thể khiến sáu thắt kết lộn tên được.
- Phật nói:
- - Đúng thế!
Sáu kết chẳng đồng chỉ do một khăn tạo ra, nhưng muốn làm cho
sáu kết đảo lộn tên gọi, thì chẳng thể được. Lục căn của ngươi
cũng vậy, trong rốt cuộc đồng, sanh rốt cuộc khác, ngươi ắt chê
sự khác nhau của sáu kết, mà mong muốn thành đồng một, thì phải
làm sao mới được.
- A Nan đáp:
- - Thắt kết
nếu còn thì thị phi mống khởi, trong đó tự sanh phân biệt kết
này chẳng phải kết kia, kết kia chẳng phải kết này. Nếu hôm nay
Như Lai giải tỏa tất cả, thắt kết chẳng sanh nữa thì không có bỉ
thử, nhất còn chẳng có, làm sao thành lục?
- Phật bảo:
- - Cái nghĩa
"Lục mở nhất tiêu" cũng như thế, do tâm ngươi cuồng loạn từ vô
thỉ, vọng sanh tri kiến, sanh mãi không thôi, như con mắt ngó
lâu mỏi mệt phát ra cảnh trần, thì có hoa đốm lăng xăng vọng
khởi nơi tánh trong lặng, các tướng thế gian như núi sông, đất
đai, sanh tử, Niết Bàn v.v... tất cả đều là tướng hoa đốm điên
đảo do mỏi mệt mà phát sanh.
- A Nan hỏi:
- - Cái mỏi mệt
này cũng như cái thắt kết kia, làm sao mở được?
- Như Lai lấy
tay cầm khăn đã thắt, kéo riêng mối bên trái, rồi hỏi A Nan:
- - Thế này có
mở được chăng?
- - Bạch Thế
Tôn! Không ạ. Phật lại lấy tay kéo riêng mối bên phải, hỏi A
Nan:
- - Thế này có
mở được chăng?
- - Bạch Thế
Tôn! Không ạ.
- Phật bảo A
Nan:
- - Nay ta lấy
tay kéo mối hai bên mà chẳng mở được, vậy ngươi có cách nào để
mở chăng?
- - Bạch Thế
Tôn! Nên mở nơi trung tâm thắt kết thì tan rã ngay.
- Phật nói:
- - Đúng thế!
Đúng thế! Muốn giải tỏa thắt kết thì phải mở nơi trung tâm thắt
kết. A Nan, ta thuyết pháp từ nhân duyên ra, chẳng phải lấy
tướng thô hòa hợp của thế gian. Như Lai phát minh pháp thế gian
và xuất thế gian, đều biết rõ bản nhân của nó theo sở duyên gì
mà ra; cho đến quá trình dời đổi của một giọt mưa ở ngoài hằng
sa thế giới, trước mắt các thứ tòng thẳng, gai cong, cò trắng,
quạ đen v.v.. đều rõ nguyên do. A Nan! Nay tùy ngươi lựa chọn
một căn nơi Lục căn, nếu giải tỏa được gốc căn thì tướng trần tự
diệt, vọng tưởng liền tiêu, vậy chẳng phải chơn là gì?
- - A Nan! Ta
lại hỏi ngươi: Cái khăn sáu kết này nếu cùng một lượt mở ra, có
được chăng?
- - Bạch Thế
Tôn! Không ạ! Kết này khi thắt có thứ tự, nay mở cũng phải theo
thứ tự. Sáu kết dù đồng thể, nhưng thắt chẳng cùng thời, thì làm
sao có thể mở cùng một lượt?
- Phật nói:
- - Giải tỏa
lục căn cũng như vậy, căn này vừa bắt đầu giải tỏa thì được Nhân
Ngã Không, nếu tánh Không sáng tỏ, thì Pháp Ngã giải thoát,
thành tựu pháp giải thoát xong, cả hai thứ Không đều chẳng sanh,
ấy gọi là từ Tam Ma Địa, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát.
- A Nan và đại
chúng nghe Phật khai thị huệ giác viên thông, chẳng còn nghi
hoặc, bèn chắp tay đảnh lễ, bạch Phật rằng:
- - Nay chúng
con thân tâm rõ ràng vô ngại, dù đã ngộ cái nghĩa "nhất lục đều
tiêu", nhưng còn chưa thấu đạt nguồn gốc của viên thông. Thế
Tôn, chúng con bị trôi lăn lẻ loi từ nhiều kiếp, ngờ đâu lại
được làm con của Phật, như đứa bé khát sữa bỗng được gặp mẹ, nếu
nhân cơ hội này mà thành đạo, được mật ngôn của Phật, đồng với
bổn ngộ của con, thì mới tự rõ: nghe và chưa nghe chẳng có sai
biệt. Xin Phật rủ lòng từ bi ban cho bí nghiêm để con được thành
tựu lời khai thị cuối cùng của Như Lai. Nói xong, năm vóc gieo
sát đất, lui về chỗ ẩn mật, mong Phật âm thầm mật thọ.
- LƯỢC GIẢI
- Phật khai
thị "Huệ giác viên thông" tức "Lục mở nhất tiêu" và đắc Vô Sanh
Pháp Nhẫn kể trên, do "Lục mở" nên thân được vô ngại; do "nhất
tiêu" nên tâm được vô ngại, dù chưa đến nơi lục căn thanh tịnh,
nhưng nhổ nhất thì lục tiêu, lục tiêu thì nhất diệt, đã rõ ràng
chẳng còn nghi hoặc, nhưng A Nan còn chưa ngộ nguồn gốc của viên
thông ở đâu; căn nào viên thông nhất; dựa theo căn nào sâu vào
mới mau chứng được viên thông.
- Sự dựa
theo căn viên thông, chứng quả viên thông, nơi A Nan thì do đó
thành đạo, nơi Như Lai thì là lời khai thị cuối cùng, nên A Nan
mong Phật chẳng tiếc bí nghiêm (pháp vi diệu nhiệm mầu), mà âm
thầm mật thọ. Nếu nói về căn viên thông thì có thể hiển bày, so
sánh căn nào viên thông nhất để dựa theo đó vào Tam Ma Địa còn
có thể được; nếu muốn ngay đó chứng ngộ thì phải mỗi mỗi tự tu
tự chứng, đâu thể nhờ lời nói mà đến được! Lời nói còn chẳng thể
đến thì làm sao có thể mật thọ?
- Nhưng theo
ý của A Nan, mong Phật mật thọ, tức là Phật chẳng dùng lời nói
để nói, gọi là mật ngôn; A Nan chẳng dùng cái nghe để nghe,
gọi là bổn ngộ, nên nói "được mật ngôn của Phật, tức đồng bổn
ngộ của con", có nghe đồng như chưa nghe, thường nghe khi chưa
nghe, gọi là chơn nghe, nên lui về chỗ ẩn mật mà mong cầu mật
thọ.
- Giả sử Phật có thể truyền
thọ, A Nan có thể đắc được, thì chẳng phải là bí mật rồi, nếu do
đó mà được chứng viên thông thì chẳng phải viên thông rồi. Sự
chứng ngộ phải do tự ngộ, đâu thể do người khác ban cho mà được!
- *****
- Lúc bấy giờ,
Thế Tôn bảo khắp chư Đại Bồ Tát và hàng vô lậu Đại A La Hán
trong chúng rằng:
- - Các ngươi
là hàng Bồ Tát và A La Hán trong pháp ta, đã chứng quả vô học,
nay ta hỏi các ngươi: trong lúc mới phát tâm, nơi thập bát giới,
ở giới nào mà ngộ được viên thông, và do phương tiện gì được vào
Tam Ma Địa.
- Kiều Trần Na trong nhóm năm vị
Tỳ Kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật mà bạch
rằng:
- - Con ở Lộc
Uyển và Kê Viên được lời dạy của Phật khi mới thành đạo, do âm
thanh Phật ngộ Tứ Thánh Đế. Khi đó, Phật hỏi các Tỳ Kheo, con là
người ngộ giải trước tiên, Như Lai ấn chứng cho con tên là A Nhã
Đa (ngộ giải), được diệu âm mật viên. Con do âm thanh mà đắc quả
A La Hán, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì Âm
Thanh là hơn cả.
- Ưu Ba Ni Sa
Đà liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Con cũng
được lời dạy của Phật khi mới thành đạo, con quán tướng bất
tịnh, sanh lòng nhàm chán, ngộ các tánh sắc đều là bất tịnh như
xác chết, xương cốt thúi mục hóa ra vi trần, rồi cuối cùng trở
thành hư không. Sắc và Không cả hai vốn chẳng có nên thành đạo
vô học. Như Lai ấn chứng cho con tên là Ni Sa Đà (tánh không),
tướng trần đã sạch, thì diệu sắc mật viên. Con do sắc tướng mà
đắc quả A La Hán, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con
thì Sắc Tướng là hơn cả.
- Hương Nghiêm
Đồng Tử liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Con nghe
Như Lai dạy quán các tướng hữu vi, khi về trai đường tĩnh tọa,
đang lúc thiền quán, thấy các Tỳ Kheo đốt hương trầm thủy, mùi
hương lặng lẽ bay vào lỗ mũi. Con quán mùi hương này phi gỗ phi
không, phi khói phi lửa, chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, do
đó, ý căn tiêu diệt, phát minh vô lậu, Như Lai ấn chứng cho con
hiệu là Hương Nghiêm, hương trần đã diệt thì diệu hương mật
viên. Con do hương nghiêm đắc quả A La Hán, Phật hỏi về viên
thông, như chỗ chứng của con, thì Hương Trần là hơn cả.
- Hai vị Pháp
Vương Tử Dược Vương và Dược Thượng, cùng với năm trăm Phạn Thiên
trong hội, liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Chúng con
làm lương y nơi thế gian nhiều kiếp từ vô thỉ, trong miệng từng
nếm những cỏ cây, kim thạch trong cõi Ta Bà này, đến mười vạn
tám ngàn thứ, nên biết hết các vị đắng, chua, mặn, lạt, ngọt,
cay v.v... và sự biến đổi của các vật hòa hợp hay tự sanh, là
tánh thuốc nóng hay mát, có độc hay chẳng độc, thảy đều biết cả.
- - Từ khi
phụng sự Như Lai, rõ biết tánh vị phi không phi hữu, phi tức
thân tâm, phi lìa thân tâm, do phân biệt bản nhân của vị trần mà
khai ngộ, được Phật ấn chứng cho anh em chúng con cái danh hiệu
Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát; nay ở trong hội này, làm Pháp
Vương Tử. Chúng con do vị trần mà giác ngộ, lên bậc Bồ Tát, Phật
hỏi về viên thông, như chỗ chứng của chúng con, thì Vị Trần là
hơn cả.
- Bạt Đà Bà La
cùng các bạn mười sáu Đại Sĩ liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Chúng con
trước kia ở nơi Phật Oai Âm Vương nghe pháp rồi xuất gia, đến
giờ tắm, chúng con theo lệ vào phòng tắm, bỗng ngộ tánh nước đã
chẳng rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, khoảng giữa an nhiên, vốn vô
sở đắc. Cho đến hôm nay theo Phật xuất gia, vì sự huân tập từ
xưa chẳng quên, khiến đắc quả vô học, Như Lai đặt tên con là Bạt
Đà Bà La (hiền hộ) do phát minh diệu xúc, thành Pháp Vương Tử,
Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì Xúc Trần là
hơn cả.
- Ma Ha Ca Diếp
và Tử Kim Quang Tỳ Kheo Ni liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Kiếp xưa,
trong cõi này có Phật Nhật Nguyệt Đăng ra đời, con được thân cận
nghe pháp tu học, sau khi Phật diệt độ, con thắp đèn liên tục
cúng dường Xá Lợi, lại lấy vàng Tử Kim Quang tô thếp hình tượng
Phật. Từ đó đến nay, đời đời kiếp kiếp, thân thể thường viên mãn
sáng ngời như vàng Tử Kim Quang. Tử Kim Quang Tỳ Kheo Ni này,
tức quyến thuộc cùng phát tâm khi xưa của con.
- - Con quán
thế gian, lục trần đều biến hoại, chỉ y theo Pháp Không Tịch, tu
Diệt Tận Định, thì thân tâm mới có thể trải qua trăm ngàn kiếp
như búng ngón tay. Con do quán Pháp Không, đắc quả A La Hán. Thế
Tôn khen con tu hạnh đầu đà bậc nhất, diệu pháp sáng tỏ, tiêu
diệt phiền não, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con,
thì Pháp Trần là hơn cả.
- A Na Luật Đà
liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Lúc con mới
xuất gia, thường ham nằm ngủ. Như Lai quở con là loài súc sinh,
nghe lời Phật quở, con khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày không
ngủ, hư cả hai con mắt. Thế Tôn dạy con tu pháp "Lạc Kiến Chiếu
Minh Kim Cang Tam Muội" chẳng nhờ con mắt, xem thấy mười phương
rỗng suốt như trái cây trong bàn tay; Như Lai ấn chứng cho con
đắc quả A La Hán. Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con,
thì Xoay Cái Thấy Trở Về Bản Tánh là hơn cả.
- Châu Lợi Bàn
Đặc Ca liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Con kém trí
nhớ, chẳng thể tụng trì, khi mới gặp Phật, nghe Pháp rồi xuất
gia, con cố nhớ một câu kệ của Như Lai, trong một trăm ngày mà
chẳng thuộc lòng, hễ nhớ trước thì quên sau, nhớ sau thì quên
trước, Phật thương xót con ngu muội, dạy con an cư, tu Sổ Tức
Quán. Con quán hơi thở đến chỗ cùng tột, thấy các hành tướng vi
tế dời đổi từng sát na nơi sanh, trụ, dị, diệt, tâm con bỗng
ngộ, được đại vô ngại, cho đến phiền não dứt sạch, đắc quả A La
Hán, trước pháp tọa của Phật, được ấn chứng thành bậc vô học.
Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con, thì Xoay Hơi Thở
Trở Về Tánh Không là hơn cả.
- Kiều Phạm Bạt
Đề liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Con có khẩu
nghiệp khinh rẻ Sa Môn trong kiếp quá khứ, nên đời đời mắc bệnh
nhai như trâu, Như Lai dạy con pháp môn: "Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm
Địa". Con quán tánh biết vị chẳng phải thân thể, chẳng phải
ngoại vật, ngay đó được siêu thoát những tập khí thế gian, bên
trong giải thoát thân tâm, bên ngoài lìa bỏ thế giới, xa lìa tam
giới như chim sổ lồng, lìa cấu tiêu trần, pháp nhãn thanh tịnh,
đắc quả A La Hán. Như Lai ấn chứng cho con lên bậc vô học. Phật
hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thì Xoay Cái Biết Vị
Trở Về Tự Tánh là hơn cả.
- Tất Lăng Già
Bà Ta liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Khi con mới
phát tâm theo Phật, thường nghe Như Lai dạy về những việc chẳng
vui trong thế gian. Lúc đi khất thực trong thành, đang suy nghĩ
pháp môn, bất giác bị gai góc đâm vào chân, cả thân đau đớn con
nghĩ: Có cái năng biết mới biết sự đau đớn này; dù biết đau đớn,
nhưng bản giác trong sạch, vốn chẳng có năng đau và sở đau. Con
lại suy nghĩ: Một thân đâu thể có hai giác? (năng giác và sở
giác). Nhiếp niệm chưa bao lâu, thân tâm bỗng thành không tịch,
trong 21 ngày, các tập khí phiền não đều dứt sạch, đắc quả A La
Hán. Như Lai ấn chứng cho con lên bậc vô học. Phật hỏi về viên
thông, như chỗ chứng của con, thì Quên Thân Thuần Giác là hơn
cả.
- Tu Bồ Đề liền
đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Con từ
nhiều kiếp đến nay, tâm được vô ngại, tự nhớ thọ sanh nhiều đời
như hằng sa; lúc còn trong thai đã biết tánh Không Tịch, cũng
khiến chúng sanh chứng được tánh Không, như thế cho đến mười
phương đều thành tánh Không. Nhờ Như Lai phát minh Giác Tánh
Chơn Không, nên tánh Không được sáng tỏ, đắc quả A La Hán, đốn
nhập Tánh Không sáng tỏ của Biển Giác, đồng Tri Kiến Phật, được
ấn chứng thành bậc vô học, về giải thoát tánh Không, con là bậc
nhất, Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con thì chư tướng
phi tướng, cả năng phi và sở phi đều sạch, xoay Pháp Về Tánh
Không là hơn cả.
- Xá Lợi Phất
liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Con từ
nhiều kiếp đến nay, Tánh Kiến của bản tâm trong sạch, thọ sanh
nhiều đời như hằng sa, đối với các pháp biến hóa của thế gian và
xuất thế gian, hễ thấy liền thông suốt, được chẳng ngăn ngại.
Con ở giữa đường gặp anh em Ca Diếp Ba thuyết nghĩa nhân duyên,
ngộ tâm chẳng bờ bến. Con theo Phật xuất gia, giác ngộ Tánh Kiến
sáng tỏ, được đại vô úy, đắc quả A La Hán, do pháp âm của Như
Lai hóa sanh, làm trưởng tử của Phật. Phật hỏi về viên thông,
như chỗ chứng của con, thì Tánh Kiến Của Bản Tâm Sáng Tỏ, Sự
Sáng Tỏ Đến Chỗ Cùng Cực, Đồng Tri Kiến Phật là hơn cả.
- Phổ Hiền Bồ
Tát liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Con đã từng
làm Pháp Vương Tử cho hằng sa Như Lai, mười phương Như Lai dạy
những đệ tử có căn cơ Bồ Tát, tu hạnh Phổ Hiền, hạnh đó theo con
mà lập tên. Thế Tôn, con dùng Tánh Văn của bản tâm, phân biệt
tất cả tri kiến của chúng sanh. Nếu ở phương khác, ngoài hằng sa
thế giới, mỗi thế giới đều có chúng sanh phát tâm theo hạnh Phổ
Hiền, thì liền trong lúc đó con cỡi voi sáu ngà, phân thân thành
trăm ngàn, đồng thời đến mọi nơi, dẫu cho họ nghiệp chướng còn
sâu, chưa thấy được con, con cũng thầm xoa đầu họ, ủng hộ an ủi,
khiến cho họ được thành tựu hạnh nguyện. Phật hỏi về viên thông,
nơi bản nhân của con thì Tánh Văn của Bản Tâm Sáng Tỏ, Phân Biệt
Tự Tại là hơn cả.
- Tôn Đà La Nan
Đà liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Lúc con mới
theo Phật xuất gia, dù giữ đủ giới luật, nhưng với pháp Tam Ma
Địa, tâm thường tán loạn, chưa được vô lậu. Thế Tôn dạy con và
Câu Si La quán nơi chót mũi, lúc con mới bắt đầu tu quán này,
trải qua 21 ngày, thấy hơi thở ra vào như khói, thân tâm sáng
tỏ, chiếu khắp thế giới thành rỗng không, trong sạch như lưu ly;
tướng khói dần dần tiêu tan, hơi thở hóa thành màu trắng, tâm
được khai ngộ, tập khí dứt sạch, những hơi thở ra vào hóa thành
ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới, đắc quả A La Hán. Thế
Tôn thọ ký cho con sẽ được Bồ Đề. Phật hỏi về viên thông, con do
Quán Sổ Tức, Tiêu Diệt Hơi Thở, Quán Lâu Phát Minh Sáng Tỏ, Dứt
Sạch Phiền Não là hơn cả.
- Phú Lâu Na Di
Đa La Ni Tử liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Con từ
nhiều kiếp đến nay, được biện tài vô ngại, thuyết pháp Khổ
Không, thông đạt thật tướng, như thế cho đến pháp môn bí mật của
hằng sa Như Lai, đều vi diệu khai thị cho chúng sanh được sức vô
úy. Thế Tôn biết con có biện tài lớn, dạy con dùng âm thanh giúp
Phật chuyển pháp luân, hoằng dương Chánh Pháp. Con do thuyết
pháp, đắc quả A La Hán. Thế Tôn ấn chứng cho con thuyết pháp bậc
nhất. Phật hỏi về viên thông, con do Pháp Âm Hàng Phục Tà Ma
Ngoại Đạo, Tiêu Diệt Tập Khí Phiền Não là hơn cả.
- Ưu Ba Ly liền
đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Con theo
Phật, vượt thành xuất gia. Như Lai sáu năm khổ hạnh, hàng phục
tà ma, chế phục ngoại đạo, giải thoát tham dục phiền não của thế
gian, tất cả con đều đích thân được thấy. Phật dạy con trì giới,
cho đến ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, các Tánh Nghiệp và
Giá Nghiệp thảy đều trong sạch, thân tâm tịch diệt, đắc quả A La
Hán. Con là người điều hành kỷ luật trong chúng. Thế Tôn ấn
chứng cho con tu thân trì giới bậc nhất. Phật hỏi về viên thông,
con do Trì Thân, Thì Thân Được Tự Tại, Lần Đến Trì Tâm, Tâm Được
Thông Suốt, Rồi Cả Thân Tâm Đều Thông Triệt là hơn cả.
- Đại Mục Kiền
Liên liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Trước kia
con khất thực giữa đường, gặp ba anh em Ca Diếp Ba là: Ưu Lâu
Tần Loa, Già Gia, và Na Đề, giảng về nghĩa nhân duyên thâm sâu
của Như Lai, con liền phát tâm, được đại thông đạt. Như Lai ban
cho con áo cà sa đắp trên mình, râu tóc tự rụng, con đi khắp
mười phương được chẳng ngăn ngại, phát ra thần thông là bậc
nhất, đắc quả A La Hán. Chẳng những Thế Tôn, cả mười phương Như
Lai đều khen thần lực con sáng tỏ trong sạch, tự tại vô úy. Phật
hỏi về viên thông, con do xoay Ý Thức Lăng Xăng, Trở Về Tịch
Lặng, Nên Diệu Tâm Sáng Tỏ, như lắng nước đục lâu thành trong
sáng là hơn cả.
- Ô Xô Sắt Ma
chắp tay đảnh lễ bạch Phật:
- - Con thường
nhớ những kiếp xưa, tánh hay tham dục. Lúc ấy có Phật Không
Vương ra đời, nói người đa dâm như đống lửa hồng, dạy con quán
khắp hơi lạnh và nóng trong cơ thể, ánh sáng tự tánh lặng đứng
nơi trong, hóa tâm đa dâm thành lửa trí huệ, từ đó chư Phật đều
gọi con là Hỏa Đầu. Con nhờ sức "Hỏa Quang Tam Muội", đắc quả A
La Hán; trong tâm phát đại nguyện, chư Phật thành đạo, con sẽ
làm lực sĩ, uốn dẹp bọn tà ma. Phật hỏi về viên thông, con do
Quán Hơi Ấm Nơi Thân Tâm Lưu Thông Chẳng Ngại, Phiền Não Dứt
Sạch, Sanh Lửa Trí Huệ, Chứng Vô Thượng Giác là hơn cả.
- Trì Địa Bồ
Tát liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Con nhớ
kiếp xưa, khi Phật Phổ Quang ra đời, con làm Tỳ Kheo, thường hay
sửa sang những đoạn đường, bến nước, nơi gập ghềnh, lồi lõm làm
cản trở xe cộ, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát, siêng năng
chịu cực, trải qua nhiều đời Phật. Hoặc có chúng sanh ở nơi chợ
búa cần người mang đồ, con liền mang giúp đến nơi đến chốn mà
chẳng lấy tiền.
- - Khi Phật Tỳ
Xá Phù ra đời, nhằm lúc đói kém, con cõng giúp người, chẳng kể
xa gần, chỉ lấy một xu; hoặc có xe trâu bị sa xuống bùn lầy, con
dùng thần lực xô kéo, khiến ra khỏi khổ não. Thuở đó, vua thiết
trai cúng dường Phật, con bèn sửa đường, chờ Phật đi qua, Tỳ Xá
Như Lai xoa đỉnh đầu con và bảo rằng: "Nên bình tam địa, thì tất
cả địa trên thế giới đều bình". Con liền khai ngộ, thấu vi trần
của thân thể với tất cả vi trần tạo thành thế giới đều chẳng sai
biệt; vi trần tự tánh không, nên mỗi mỗi chẳng đụng chạm nhau,
cho đến binh lính giao chiến cũng chẳng đụng chạm. Con do pháp
tánh ngộ Vô Sanh Nhẫn, đắc quả A La Hán, hồi tâm hướng Đại Thừa,
vào ngôi vị Bồ Tát, nghe chư Phật khai diễn Diệu Pháp Liên Hoa,
nhập Tri Kiến Phật, con được chứng minh là bậc thượng thủ. Phật
hỏi về viên thông, con do Quán Thân Thể Và Thế Giới Hai Thứ Vi
Trần Chẳng Sai Biệt, Vốn Là Như Lai Tạng, Do Hư Vọng Phát Ra
Cảnh Trần; Trần Tiêu thì Trí Hiện, Thành Vô Thượng Đạo là hơn
cả.
- Nguyệt Quang
Đồng Tử liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Con nhớ
hằng sa kiếp trước, có Phật Thủy Thiên ra đời, dạy chư Bồ Tát tu
tập Thủy Quán, vào Tam Ma Địa. Con quán tánh thủy trong thân từ
nước mũi, nước bọt, cho đến các thứ dịch vị, tinh huyết, đại
tiểu tiện, lưu chuyển trong thân, đều đồng một tánh thủy, thấy
nước trong thân cùng nước các bể Hương Thủy của Liên Hoa Tạng
Thế Giới đều chẳng khác.
- - Khi con mới
tu thành quán này, tuy được thấy nước, chưa được quên thân. Lúc
ấy, con là Tỳ Kheo tọa thiền trong phòng, đệ tử con từ cửa sổ
nhìn vào, thấy nước trong đầy khắp phòng, nó nhỏ dại không biết,
liền lấy một miểng ngói ném vào nước phát ra tiếng, thích thú bỏ
đi, khi con xuất định, liền thấy đau tim như Xá Lợi Phất bị quỷ
Vi Hại đập. Con tự nghĩ: Nay con đã đắc quả A La Hán, lìa khỏi
bệnh duyên đã lâu, sao bỗng bị đau tim, chẳng lẽ đã bị lui sụt
chăng? Lúc bấy giờ, đệ tử đến kể lại việc trên, con mới bảo nó
sau này nếu lại thấy nước thì nên mở cửa, vào lấy miểng ngói ra.
Đệ tử vâng lời, khi con nhập định, nó lại thấy nước với miểng
ngói rõ ràng, liền mở cửa lấy ra, sau đó con xuất định thì thân
thể lại được như cũ.
- - Con trải
qua nhiều đời, gặp vô số Phật, đến đời Sơn Hải Tự Tại Thông
Vương Như Lai, thì con mới được quên thân. Từ đó, cả thân đều
hóa thành nước, cùng với nước các bể Hương Thủy nơi mười phương
thế giới đồng một tánh Chơn Không, chẳng hai chẳng khác; nay ở
nơi Như Lai, được danh hiệu là Đồng Chơn, dự hội Bồ Tát. Phật
hỏi về viên thông, con do Quán Tánh Nước Một Mực Lưu Thông, Được
Vô Sanh Nhẫn, Bồ Đề Viên Mãn là hơn cả.
- Lưu Ly Quang
Pháp Vương Tử liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
- - Con nhớ
hằng sa kiếp trước, có Phật Vô Lượng Thanh ra đời, khai thị bản
giác diệu minh cho hàng Bồ Tát, dạy quán thế giới và thân chúng
sanh đều theo sức gió của vọng duyên xoay chuyển.
- - Bấy giờ,
con quán sự an lập của không gian, sự động chuyển của thời gian,
hành động của thân thể, sự động tịnh của tâm niệm, những cái
động ấy đều chẳng hai chẳng khác. Lúc đó, con liền giác ngộ tánh
của những thứ động ấy, chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, mười
phương vô số điên đảo chúng sanh đều đồng một hư vọng, như vậy
cho đến tất cả chúng sanh trong một tam thiên đại thiên thế
giới, giống như hàng trăm con muỗi đựng trong bình, vo ve kêu
ầm, ở nơi nhỏ hẹp phát ra náo loạn. Con gặp Phật chưa bao lâu,
được Vô Sanh Nhẫn, lúc bấy giờ khai ngộ, thấy cõi Phật Đông
Phương Bất Động, làm Pháp Vương Tử, phụng sự mười phương Phật,
thân tâm phát ra ánh sáng, thấu triệt chẳng ngại. Phật hỏi về
viên thông, con do Quán Sức Gió Chẳng Nơi Nương Tựa, Ngộ Tâm Bồ
Đề, Vào Tam Ma Địa, Khế Hợp Với Diệu Tâm Của Mười Phương Phật là
hơn cả.
- Hư Không Tạng
Bồ Tát liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Con cùng
Như Lai chứng vô biên thân nơi Phật Định Quang. Lúc ấy, tay con
cầm bốn hạt châu lớn, chiếu sáng mười phương vô số Phật Sát đều
hóa thành hư không, lại ở nơi tự tâm hiện Đại Viên Cảnh, hào
quang vi diệu, soi khắp Liên Hoa Tạng Thế Giới và tận mười
phương hư không, đều vào trong Viên Cảnh, xen nhập thân con, như
xen vào hư không, chẳng ngăn ngại nhau. Thân con hay vào vô số
quốc độ, tùy thuận đại thần lực, rộng làm Phật sự. Con quán tứ
đại chẳng nơi nương tựa, vọng tưởng, sanh diệt, với hư không và
cõi Phật vốn đồng, do phát minh tánh đồng, đắc Vô Sanh Nhẫn.
Phật hỏi về viên thông, con do Quán Hư Không Vô Biên, Vào Tam Ma
Địa, Diệu Lực sáng tỏ là hơn cả.
- Di Lặc Bồ Tát
liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- - Con nhớ vô
số kiếp trước, có Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời, con dù theo
Phật xuất gia, còn ham danh dự thế gian, ưa giao du với các quý
tộc. Lúc ấy, Thế Tôn dạy con tu tập Duy Tâm Thức Định, vào Tam
Ma Địa. Từ nhiều kiếp đến nay, dùng Tam Muội này phụng sự hằng
sa chư Phật, sự ham cầu danh dự đã dứt sạch. Đến đời Phật Nhiên
Đăng, con mới được thành "Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam
Muội", ngộ các pháp dơ, sạch, có, không, nơi tất cả cõi Phật,
đều do tâm thức biến hiện.
- - Thế Tôn! Vì
con ngộ Duy Tâm thức như thế, nên từ tánh thức hiện ra vô số Như
Lai, nay được thọ ký sẽ thừa kế ngôi Phật ở cõi này. Phật hỏi về
viên thông, con do Quán Mười Phương Duy Thức, Tâm Thức Sáng tỏ,
Chứng Nhập Viên-Thành-Thật, Xa Lìa Tánh Y-Tha-Khởi Và
Biến-Kế-Chấp, Đắc Vô Sanh Nhẫn là hơn cả.
- LƯỢC GIẢI
- Từ bắt đầu
tu tập Duy Tâm Thức Định, đến khi thành "Vô Thượng Diệu Viên
Thức Tâm Tam Muội", tức là đã chuyển thức thành trí, nên nói vào
Viên-Thành-Thật. Khi chưa chuyển thức, còn bị cảnh buộc, gọi là
Biến-Kế-Chấp; phá được Biến-Kế-Chấp, còn bị pháp buộc, gọi là
chấp Y-Tha-Khởi.
- Ham danh
dự thế gian, thích giao du với quý tộc, là cái tướng
Biến-Kế-Chấp: sự ham cầu danh dự của thế gian đã dứt sạch, là
cái tướng Chấp-Y-Tha-Khởi. Đến khi liễu ngộ tất cả duy tâm thức,
nên thức tánh hiện ra vô số Như Lai, ấy là tướng Viên-Thành-Thật
vậy.
- Kinh Giải Thâm Mật có nói:
Người mắt nhặm như Biến-Kế-Chấp, hiện màu xanh, vàng như
Y-Tha-Khởi, con mắt trong sáng như Viên-Thành-Thật vậy.
- *****
- Đại Thế Chí
Pháp Vương Tử cùng với 52 vị Bồ Tát đồng tu, liền đứng dậy, đảnh
lễ bạch Phật:
- - Con nhớ
hằng sa kiếp trước, có Phật Vô Lượng Quang ra đời, thuở đó, mười
hai vị Như Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp. Vị Phật sau
cùng hiệu là Siêu Nhựt Nguyệt Quang, dạy con tu "Niệm Phật Tam
Muội", ví như có người thì chuyên nhớ, người thì chuyên quên,
nếu hai người ấy nhớ nhau, không kể gặp hay chẳng gặp, thấy mặt
hay chẳng thấy; cứ nhớ mãi sâu vào tâm niệm, cho đến đời này,
đời khác, thì như hình với bóng, chẳng cách xa nhau.
- - Mười phương
Như Lai tưởng nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh
thì dù nhớ cũng chẳng làm gì được; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ
con, thì đời đời mẹ con chẳng xa cách. Nếu tâm chúng sanh nhớ
Phật, niệm Phật, thì hiện nay hay về sau nhất định thấy Phật,
cách Phật không xa, chẳng nhờ phương tiện, tâm tự khai ngộ, như
người ướp hương thì thân có mùi thơm, ấy gọi là Hương Quang
Trang Nghiêm. Bản nhân của con là dùng tâm niệm Phật, đắc vô
sanh nhẫn, nay ở cõi này tiếp dẫn người niệm Phật về cõi Tịnh
Độ. Phật hỏi con về viên thông, con do Nhiếp Cả Lục Căn, Tịnh
Niệm Tương Tục Vào Tam Ma Địa là hơn cả.
- LƯỢC GIẢI
- Người niệm
Phật chẳng có một sát na niệm ngũ dục của thế gian, mới được gọi
là tịnh niệm (tâm niệm trong sạch). Tịnh niệm tương tục như con
nhớ mẹ, là miệng niệm tâm nhớ, oai nghi nghiêm chỉnh, nhiếp cả
lục căn, là nhãn chẳng thấy tướng xấu đẹp, nhĩ chẳng nghe tiếng
khen chê, tỷ chẳng ngửi mùi thơm thối, thiệt chẳng nếm vị ngon
dở, thân chẳng tiếp xúc lạnh, ấm, ý chẳng phân biệt buồn vui, ấy
mới được gọi là nhiếp cả lục căn, cho đến nhất tâm bất loạn, như
thế trong Tam Ma Địa, ắt phải thấy Phật.
- Nói chẳng
nhờ tu tập, tự được khai ngộ, như người ướp hương, chẳng mong
mùi hương mà tự có mùi hương, ấy là nguyện lực bất khả tư nghì
của Phật Di Đà. Dù nói nhờ nguyện lực của Phật Di Đà, nhưng cần
phải có đại nguyện của chính mình để tương ưng với đại nguyện
của Phật thì mới được thành tựu.
- Đại nguyện
nếu chỉ dùng tâm nghĩ miệng nói ấy là nguyện suông, cần phải
thực hành đúng theo đại nguyện của chính mình phát ra, mới là
nguyện chơn thật, và mới có thể tương ưng với đại nguyện của
Phật.
-
- (QUYỂN NĂM HẾT)
- --o0o--
|
|