|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Thích
Duy Lực
- --o0o--
-
- QUYỂN MƯỜI
-
- IV - MA HÀNH
ẤM
- - A Nan!
Người tu thiền định, khi dứt được Tưởng Ấm, những mộng tưởng
bình thường tiêu sạch, thức, ngủ thường như một, chẳng còn đuổi
theo cảnh trần, cái giác minh vắng lặng như hư không, thấy các
núi sông, đất đai của thế gian như bóng hiện trong gương, tùy
duyên chiếu soi, ở đi đều chẳng dính mắc, biết hết các tập khí
xưa, cái nguồn gốc của sanh diệt từ đây được hiển lộ, thấy khắp
12 loại chúng sanh trong mười phương, dù chưa thông suốt manh
mối của từng loại, nhưng đều từ một nguồn gốc phát sanh ra,
giống như bụi trần lăng xăng, ấy là chỗ căn cứ địa của ngũ căn,
đây gọi là phạm vi của Hành Ấm. Nhưng tánh của Hành Ấm vốn chẳng
lăng xăng, sở dĩ lưu chuyển chẳng ngừng là do tập khí của nhiều
kiếp, nếu tánh ấy trở về vắng lặng, tập khí dứt sạch, tướng lưu
chuyển hết, như làn sóng lặng trở về nước yên, gọi là Hành Ấm
hết, thì lúc ấy được siêu việt Chúng Sanh Trược. Nhưng quán xét
nguyên nhân là do bởi U-Ẩn Vọng Tưởng (l) làm gốc (Hành Ấm lưu
chuyển vi tế, động mà chẳng động nên gọi là U-ẩn).
- l. A Nan nên
biết! Trong lúc thiền định, khi được chánh tri, chánh tâm sáng
suốt, mười loại thiên ma chẳng còn được dịp quấy phá, mới được
truy cứu cùng tột cội gốc sanh diệt của các loài. Quán xét cái
cội gốc đó mà khởi tâm so đo, thì người ấy bị đọa vào hai loại
Vô Nhân Luận:
- a. Thấy sự
bắt đầu vô nhân. Tại sao vậy? Người ấy đã dứt được tưởng sanh
diệt, nhờ 800 công đức của Nhãn căn, thấy được tất cả chúng sanh
từ 8 vạn kiếp, theo nghiệp xoay vòng, chết đây sống đó, luân
chuyển không ngừng, còn ngoài 8 vạn kiếp thì mịt mù chẳng thể
thấy được, bèn cho là từ 8 vạn kiếp đến nay, mười phương chúng
sanh trên thế giới vô nhân mà tự có. Do so đo này, tự làm mất
chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
- b. Thấy sự
cuối cùng vô nhân. Tại sao vậy? Người ấy đã biết được căn bản
của sự sanh, như người sanh người, chim sanh chim, xưa nay con
quạ vẫn đen, con cò vẫn trắng, trời người vẫn đứng thẳng, thú
vật vẫn đứng ngang, trắng chẳng do tẩy mà thành, đen chẳng do
nhuộm mà nên, từ 8 vạn kiếp nay vẫn không dời đổi, nay đến tận
hết hình thể này cũng vẫn như thế. Bổn lai của ta chẳng thấy Bồ
Đề thì làm sao lại có sự tu thành Bồ Đề! Vì mê lầm cho tất cả sự
vật đều vốn vô nhân, do so đo này, tự làm mất chánh biến tri,
lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
- - Ấy gọi là
ngoại đạo thứ nhất lập Vô Nhân Luận.
- 2. Trong lúc
thiền định, chánh tâm sáng suốt, ma chẳng được dịp quấy phá,
quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, thấy luôn luôn như vậy
chẳng biến đổi, ngay nơi đó khởi tâm so đo, chấp đó là thường,
thì người ấy bị đọa vào bốn thứ Chấp Thường Luận:
- a. Người ấy
xét thấy cùng tột bản tánh của tâm và cảnh, hai nơi đều không có
nhân, do tu tập biết được tất cả sự sanh diệt của mười phương
chúng sanh, từ hai vạn kiếp đến nay vẫn lưu chuyển không hề tan
mất, bèn chấp cho là thường.
- b. Người ấy
xét cùng tột cội gốc của tứ đại, bốn thứ tánh ấy thường trụ, do
tu tập biết được tất cả. Sự sanh diệt của mười phương chúng
sanh, từ bốn vạn kiếp đến nay cái thể vẫn thường còn, không hề
tan mất, bèn chấp cho là thường.
- c. Người ấy
xét cùng tột cội gốc của lục căn, theo tánh chấp thụ của thức
thứ bẩy, trong tâm-ý-thức, chỗ nguồn gốc căn bản, tánh thường
như vậy. Do tu tập biết được tất cả chúng sanh từ tám vạn kiếp
này, dù có luân hồi, vốn là thường trụ, cuối cùng chẳng mất bản
tánh, nên chấp cho là thường.
- d. Người ấy
đã dứt được tưởng ấm chẳng còn cái tưởng sanh diệt cho là tâm
sanh diệt, nay đã vĩnh diệt, tự nhiên thành chẳng sanh diệt, vì
tâm so đo nên chấp cho là thường.
- - Do so đo
này, tự làm mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh
Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ hai lập Viên Thường Luận.
- 3. Trong lúc
thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, khởi tâm so đo giữa ta và
người, người ấy bị đọa vào bốn thứ kiến chấp điên đảo, một phần
vô thường, một phần chấp thường luận:
- a. Người ấy
quán tâm diệu minh khắp cõi mười phương cho là thần ngã chơn
thật, từ đó sanh chấp, cho ta cùng khắp mười phương, trạm nhiên
sáng suốt chẳng động, tất cả chúng sanh ở nơi tâm ta tự sanh tự
diệt, vậy thì tâm tánh ta là thường, còn sự sanh diệt ấy là chơn
vô thường.
- b. Người ấy
chẳng quán tự tâm mà quán khắp mười phương hằng sa quốc độ, thấy
chỗ kiếp hoại (từ cõi tam thiền trở xuống) thì gọi là chủng tánh
chơn vô thường, còn chỗ kiếp chẳng hoại được (từ cõi tứ thiền
trở lên, kiếp hoại chẳng đến được) thì gọi là chơn thường.
- c. Người ấy
chỉ quán riêng tâm mình, thấy tinh mật vi tế như vi trần, lưu
chuyển mười phương, khiến thân này liền sanh liền diệt mà tâm
tánh chẳng dời đổi, ngã tánh chẳng hoại, gọi ta là tánh thường,
sanh tử của tất cả chúng sanh từ ta mà ra thì gọi là tánh vô
thường.
- d. Người ấy
đã dứt được Tưởng Ấm, thấy hành ấm lưu chuyển thường xuyên, gọi
là tánh thường: sắc, thọ, tưởng ba ấm nay đã diệt hết thì gọi là
vô thường.
- - Do so đo
này, một phần vô thường, một phần là thường, nên bị lạc vào
ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ ba lập Một
Phần Thường Luận.
- 4. Trong lúc
thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong phân vị (2) khởi tâm
so đo, người ấy bị đọa vào bốn thứ Hữu Biên Luận:
- a. Người ấy
trong tâm so đo cái gốc sanh lưu chuyển chẳng ngừng, chấp quá
khứ vị lai gọi là hữu biên, chấp tâm tương tục gọi là vô biên.
- b. Người ấy
quán từ tám vạn kiếp đến nay thì thấy có chúng sanh, từ tám vạn
kiếp trở về trước thì chẳng thấy chẳng nghe, bèn cho chỗ chẳng
thể thấy nghe ấy gọi là vô biên, chỗ có chúng sanh gọi là hữu
biên.
- c. Người ấy
chấp rằng ta biết cùng khắp, được tánh vô biên; tất cả mọi người
đang trong cái hay biết của ta, mà ta chẳng từng biết cái tánh
biết của họ, ấy gọi là họ chẳng được cái tâm vô biên, chỉ được
tánh hữu biên thôi.
- d. Người ấy
quán đến cùng tột Hành Ấm rỗng không, so đo trong tâm cái sở
thấy của mình, cho là ở trong một thân của tất cả chúng sanh đều
là phân nửa sanh phân nửa diệt, cho đến tất cả hiện hữu trong
thế giới này cũng đều phân nửa hữu biên, phân nửa vô biên.
- - Do so đo
này, hữu biên vô biên, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy
gọi là ngoại đạo thứ tư lập Hữu Biên Luận.
- 5. Trong lúc
thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi tri kiến khởi tâm so
đo, người ấy bị đọa vào bốn thứ: điên đảo, bất tử, càn loạn,
biến kế hư luận:
- a. Người ấy
quán xét cội gốc của sự biến hóa thấy chỗ lưu chuyển thì gọi là
biến, thấy chỗ nối nhau thì gọi là thường, thấy chỗ thấy được
thì gọi là sanh, thấy chỗ chẳng thấy được thì gọi là diệt, cái
nhân nối nhau chẳng gián đoạn thì gọi là thêm, khi đang nối
nhau, ở giữa có chỗ gián đoạn thì gọi là bớt, chỗ sanh của mọi
vật thì gọi là hữu, chỗ diệt của mọi vật thì gọi là vô; dùng lý
quán xét thì thấy đồng, dùng tâm thì thấy khác. Có người đến cầu
pháp hỏi nghĩa thì đáp: "ta nay cũng sanh cũng diệt, cũng có
cũng không, cũng thêm cũng bớt", bất cứ lúc nào đều nói đảo loạn
như thế, khiến người nghe rồi cũng như không nghe.
- b. Người ấy
quán xét tâm họ đến chỗ Vô, vì vậy nên chẳng có chứng đắc, hễ có
người đến hỏi chỉ đáp một chữ "Vô", ngoài ra không nói gì cả.
- c. Người ấy
quán xét tâm họ đến chỗ Hữu, vì vậy mà có sự chứng đắc, hễ có
người đến hỏi thì chỉ đáp một chữ "Hữu", ngoài ra không nói gì
cả.
- d. Người ấy
hữu vô cùng thấy, do cảnh rời rạc nên tâm cũng bị rối loạn, hễ
có người đến hỏi thì đáp: "Cũng có tức là cũng không, ở trong
cũng không, chẳng phải cũng có". Tất cả càn loạn, chẳng thể hỏi
ra kết quả.
- - Do so đo
này, hư vô càn loạn, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, đây
gọi là ngoại đạo thứ năm chấp bốn thứ Điên Đảo, Bất Tử, Càn
Loạn, Biến Kế Hư Luận.
- 6. Trong lúc
thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong dòng sanh diệt vô tận
khởi tâm so đo, người ấy bị đọa vào tư tưởng điên đảo, chấp sau
khi chết có tướng: hoặc tự giữ cái sắc thân, cho sắc thân là ta;
hoặc thấy ta bao trùm khắp các cõi nước, thì cho ta có sắc; hoặc
thấy duyên cảnh xưa theo ta luân hồi thì cho sắc thuộc về ta;
hoặc thấy cái ta nương theo hành ấm mà tương tục, thì cho ta ở
nơi sắc, xoay chuyển như vậy thành mười sáu tướng, từ đó sanh ra
cái chấp "có phiền não thật", và "Bồ Đề thật", hai tánh ấy đi
song song mà chẳng đụng chạm nhau, do so đo này, chấp sau khi
chết có tướng, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là
ngoại đạo thứ sáu trong ngũ ấm chấp sau khi chết có tướng, lập
Tâm Điên Đảo Luận.
- 7. Trong lúc
thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá. Quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong những chỗ sắc, thọ,
tưởng, đã diệt từ trước, khởi tâm so đo, người ấy bị đọa vào tư
tưởng điên đảo, chấp sau khi chết chẳng tướng. Thấy Sắc Diệt rồi
thì hình thể chẳng có nhân, thấy tưởng diệt rồi thì tâm chẳng bó
buộc, thấy thọ diệt rồi thì chẳng còn chỗ nối liền, tánh ấm tiêu
tan, dẫu có sự sanh mà chẳng có thọ, tưởng, đồng như cây cỏ, cái
thể chất hiện hữu này còn bất khả đắc, huống chi chết rồi thì
đâu còn hình tướng nào! Theo đó suy lường, xoay chuyển thành tám
thứ vô tướng, cho rằng nhân quả, Niết Bàn, tất cả đều không, chỉ
có danh tự, cuối cùng đoạn diệt. Do so đo này, lạc vào ngoại
đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ bảy trong ngũ ấm
chấp sau khi chết chẳng tướng,lập Tâm Điên Đảo Luận.
- 8. Trong lúc
thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá. Quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong chỗ hành ấm còn mà thọ
tưởng đã diệt, cho "Có, Không" đồng thời cùng hiện nên tự thể
phá nhau, người ấy bị đọa vào điên đảo luận, chấp sau khi chết
chẳng phải "Có" cũng chẳng phải "Không", trong sắc, thọ, tưởng,
thấy có chẳng phải là có, nơi hành ấm lưu chuyển, thấy không
chẳng phải là không, xoay chuyển như vậy cùng tận ấm giới, thành
tám thứ tướng "chẳng phải có chẳng phải không", dù gặp một duyên
nào đều nói sau khi chết cũng có tướng cũng không tướng. Lại
chấp hành ấm tánh hay thay đổi, tâm phát thông ngộ, thấy "Có,
Không" đều chẳng phải, hư và thật đều không chỗ căn cứ, do so đo
này, làm cho mịt mù chẳng thể nói được, lạc vào ngoại đạo, mê
lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ tám trong ngũ ấm chấp
sau khi chết chẳng có cũng chẳng không, lập Tâm Điên Đảo Luận.
- 9. Trong lúc
thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá. Quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi Hậu-Hậu-Vô (3) khởi
tâm so đo, người ấy bị đọa vào bảy thứ Đoạn Diệt Luận: hoặc chấp
cái thân diệt, hoặc dục tận diệt, hoặc khổ tận diệt, hoặc cực
lạc diệt, hoặc cực xả diệt, xoay chuyển như thế tận cùng bảy
nơi, cái thân hiện tiền khi tiêu diệt rồi chẳng còn sanh nữa, do
so đo này, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại
đạo thứ chín trong ngũ ấm chấp sau khi chết đoạn diệt, lập Tâm
Điên Đảo Luận.
- 10. Trong lúc
thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá. Quán
xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi Hậu Hậu Hữu (4) khởi
tâm so đo, người ấy bị đọa vào năm thứ Niết Bàn Luận: hoặc nhận
dục giới là nơi Chánh Chuyển Y, vì thấy cảnh viên minh nên tâm
sanh ái mộ, hoặc nhận sơ thiền vì tánh không còn lo, hoặc nhận
nhị thiền, vì tâm không còn khổ, hoặc nhận tam thiền, vì rất vui
đẹp, hoặc nhận tứ thiền vì khổ vui đều mất, chẳng bị luân hồi
sanh diệt vậy. Mê lầm cõi trời hữu lậu cho là quả vô vi, năm nơi
an ổn ấy là nơi Thắng Tịnh Y, xoay chuyển ở năm chỗ này, cho là
cứu cánh, do so đo này, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy
gọi là ngoại đạo thứ mười trong ngũ ấm chấp năm thứ Niết Bàn,
lập Tâm Điên Đảo Luận.
- - A Nan! Mười
thứ thiền định cuồng giải trên đều do Hành Ấm và dụng tâm giao
tranh lẫn nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ,
gặp nhân duyên này, mà chẳng tự biết, nhận sự mê lầm cho là giải
thoát, tự nói chứng thánh, thành đại vọng ngữ, đọa ngục A-Tỳ.
- - Sau khi Như
Lai nhập diệt, nơi thời mạt pháp, các ngươi phải theo lời dạy
bảo như trên khai thị khắp tất cả chúng sanh, khiến đều tỏ ngộ
nghĩa này, chớ cho tâm ma tự khởi nghiệp chướng, hộ trì cho họ
dứt bỏ tà kiến, khiến thân tâm được mở mang, giác ngộ nghĩa chơn
thật, thành Vô Thượng Đạo, chẳng bị lạc đường, chẳng được ít cho
là đủ, làm bia chỉ đường giải thoát của Phật.
- V. MA THỨC ẤM
- - A Nan!
Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, các tính sanh diệt
lăng xăng chuyển động của thế gian bỗng được tan rã, các nghiệp
báo luân hồi, sự cảm ứng vi tế như chỉ tơ gần được đoạn dứt, sắp
được minh ngộ nơi cõi Niết Bàn, như gà gáy lần chót, trời bắt
đầu rạng đông. Lục căn hư tịnh, chẳng còn giong ruổi cảnh trần,
trong ngoài trạm nhiên sáng suốt, cho đến nhập vô sở nhập: thấu
suốt cội gốc thọ mạng của 12 loại chúng sanh trong mười phương,
chấp vào cái cội gốc đó, các loài chẳng đến với nhau, mà ở nơi
mười phương đều đồng một cội gốc, sự phát hiện chỗ ẩn bí đó, như
trời gần sáng mà chưa sáng, rạng đông kéo dài, đây gọi là phạm
vi của Thức Ấm. Nếu ở chỗ đồng ấy, nhờ sức thiền định mài giũa
lục căn, đến thấy nghe thông nhau, sự dụng của lục căn muốn hợp
hay tách ra đều được tự do thành tựu, trong ngoài sáng suốt như
lưu ly, gọi là thức ấm hết, thì lúc ấy được siêu việt Mệnh
Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là do bởi Võng Tượng (mường
tượng) Hư Vô, Điên Đảo Vọng Tưởng (5) làm gốc.
- l. A Nan!
Người tu thiền định, khi dứt được hành ấm, trở về chỗ cội gốc
của Thức Ấm, sanh diệt đã diệt mà nơi tinh diệu của tịch diệt
chưa được viên thông, có thể khiến lục căn thông dụng lẫn nhau,
cũng thông với cái giác tri của các loài trong mười phương, do
sự thông dụng ấy mới được đi vào chỗ cội gốc của Thức Ấm. Nếu ở
chỗ trở về mà lập cái nhân Chơn Thường, sanh tâm thù thắng, thì
bị đọa vào cái chấp "Năng nhân, sở nhân", làm bạn với bọn ngoại
đạo tóc vàng, nhận chỗ "căn bản của vô minh" làm nơi sở quy, mê
lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật, ấy gọi là lập cái tâm sở
đắc, thành cái quả sở quy, trái xa viên thông, ngược đạo Niết
Bàn, thành giống ngoại đạo thứ nhất.
- 2. Người tu
thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở chỗ cội gốc của
thức Ấm, ôm làm tự thể của mình, cho tất cả 12 loại chúng sanh
khắp hư không đều phát xuất từ thân ta, sanh tâm thù thắng, thì
bị đọa vào cái chấp "Năng phi năng" (6), làm bạn với bọn ma dân
hay hiện thân vô biên ở cõi Sắc giới, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất
tri kiến Phật, ấy gọi là lập cái tâm năng vi, thành cái quả năng
sự, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, sanh Đại Mạn Thiên,
thành giống chấp ngã thiên viên thứ hai (thiên viên chưa được
viên thông, chỉ có một nửa).
- 3. Người tu
thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi cội gốc của
thức ấm khởi tâm nương tựa, tự nghi thân tâm mình từ đó mà ra,
mười phương hư không đều từ đó sanh khởi, bèn nhận chỗ đó là cái
thể chơn thường, là nơi chẳng sanh diệt. Ở chỗ sanh diệt chấp là
thường trụ, chẳng những chẳng thấy tánh chơn bất sanh diệt, mà
còn nhận lầm tánh sanh diệt hiện tại, an trụ tại chỗ mê lầm này,
sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào cái chấp "thường phi thường",
làm bạn với bọn ở cõi trời Tự Tại Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề lạc
mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm nhân y (cái nhân nương
tựa) thành cái quả vọng kế (vọng chấp thường trụ), trái xa viên
thông, ngược đạo Niết Bàn thành giống điên đảo viên thông thứ ba
(nói viên thông mà chưa được viên thông).
- 4. Người tu
thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi sở tri, kiến
lập tri giải, cho các loài cây cỏ mười phương đều gọi là hữu
tình, với người chẳng khác; cây cỏ làm người, người chết rồi lại
thành cây cỏ, cho đến loài vô tình đều có sự giác tri, hữu tình
vô tình chẳng có phân biệt, sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào
cái chấp "Tri vô tri", làm bạn với hai thứ ngoại đạo Bà Tra và
Tiện Ni, chấp tất cả đều có sự giác tri, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc
mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm viên tri, thành cái quả
hư vọng, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống
Điên Đảo Tri thứ tư.
- 5. Người tu
thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi lục căn dung
thông lẫn nhau đã được tùy thuận vô ngại, rồi nương theo viên
dung này, cho là tứ đại hay biến hóa tất cả, nên từ nơi tứ đại
ham cầu tánh sáng suốt của hỏa; thích tánh trong sạch của thủy;
ưa tánh chu lưu của phong, quán tánh thành tựu của trần, mỗi mỗi
đều tôn sùng, lấy các trần ấy nhận làm bản nhân, chấp cho là
thường trụ, thì bị đọa vào cái chấp "Sanh vô Sanh", làm bạn với
bọn ngoại đạo Ca Diếp Ba và Bà La Môn, siêng tâm ép xác, thờ lửa
thờ nước để cầu được ra khỏi sanh tử, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất
tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp trước, thờ phụng, mê tâm theo vật,
lập cái nhân vọng cầu, cầu cái quả vọng mong, trái xa viên
thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống của tạo hóa điên đảo thứ
năm.
- 6. Người tu
thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở trong viên minh
chấp là hư vô, bác bỏ các sự tạo hóa, lấy cái vĩnh diệt làm chỗ
quy y, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào cái chấp "Quy vô quy"
(cho vô quy là Quy), làm bạn với bọn Thuấn Nhã Đa (thần hư
không) ở cõi Vô Tưởng Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến
Phật. Ấy gọi là chấp cái tâm hư vô thành quả Không Vong, trái xa
viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống đoạn diệt thứ sáu.
- 7. Người tu
thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi viên thường
sanh lòng củng cố cái thân này, cho là thường trụ đồng với tánh
ấy, mãi không tiêu diệt, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào cái
chấp "Tham phi tham" (7), làm bạn với bọn A Tư Đà (chẳng ai
bằng), tham cầu trường thọ, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến
Phật. Ấy gọi là chấp trước mạng căn, lập cái nhân cố vọng (kiên
cố cái vọng thân), cầu quả thường trụ, trái xa viên thông, ngược
đạo Niết Bàn, thành giống vọng diên thứ bảy (vọng diên: vọng
muốn kéo dài).
- 8. Người tu
thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, xét thức ấm là mạng căn
của các loài dung thông lẫn nhau, bỗng sợ tiêu diệt, muốn giữ
lại trần lao, bèn ở chỗ đó ngồi cung liên hoa, hóa ra rất nhiều
châu báu và mỹ nữ, buông lung tâm mình, sanh tâm thắng giải, thì
bị đọa vào cái chấp "chơn vô chơn" (cho vô chơn là chơn), làm
bạn với cõi Tha Hóa Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến
Phật. Ấy gọi là phát cái nhân tà tưởng, lập quả trần lao hưng
thịnh, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống thiên
ma thứ tám.
- 9. Người tu
thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông. Ở trong nguồn gốc của
thức ấm, khởi tâm phân biệt tinh, thô, chơn, ngụy, nhân quả trả
nhau, chỉ cầu sự cảm ứng, trái ngược đạo thanh tịnh, chấp cái
khổ, tập, diệt, đạo của Tứ Thánh Đế, cho là đến chỗ diệt rồi là
xong, chẳng cầu tiến thêm, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào
định tánh Thanh Văn, làm bạn với kẻ tăng thượng mạn như Tỳ Kheo
Vô Văn, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập
cái tâm cảm ứng tinh vi, thành quả tịch diệt, trái xa viên
thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống Triền Không thứ chín
(Triền Không: bị ràng buộc ở chỗ Không).
- 10. Người tu
thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh
diệu của tịch diệt chưa được viên thông, ở nơi tánh giác minh,
viên dung thanh tịnh, truy cứu sự thâm diệu, bèn chấp đó là Niết
Bàn, chẳng cầu tiến thêm, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào
định tánh Bích Chi, làm bạn với những người Duyên Giác và Độc
Giác, chẳng biết hồi tâm hướng về Đại Thừa, mê lầm tánh Bồ Đề,
lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm âm thầm hợp với
viên giác (8), thành cái quả trạm minh, trái xa viên-thông,
ngược đạo Niết Bàn, sanh cái giác viên minh, thành giống Bất Hóa
Viên thứ mười (Bất Hóa Viên: chấp vào nơi viên mà chẳng thế hóa
giải được).
- - A Nan! Mười
thứ cảnh giới thiền định trên, giữa chừng thành điên, là do
nương theo mê hoặc, ở nơi chưa cứu cánh chấp cho là đủ, ấy đều
do thức ấm với dụng tâm giao tranh lẫn nhau mà hiện ra, chúng
sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp nhân duyên này hiện tiền, mỗi
mỗi đều dùng tâm mê chấp những tập quán ưa thích cũ của mình,
cho là cứu cánh mà ngừng nghỉ tại đó, tự nói đã đầy đủ đạo Vô
Thượng Bồ Đề, thành đại vọng ngữ, lạc vào tà ma ngoại đạo, khi
hết nghiệp báo chiêu cảm, bị đọa ngục A Tỳ, còn hàng Thanh Văn
Duyên Giác thì chẳng cầu tiến thêm. Các ngươi đã phát tâm theo
đạo Như Lai, sau khi ta nhập diệt, nơi thời mạt pháp, phải đem
pháp môn này truyền dạy cho đời sau, khiến tất cả chúng sanh đều
rõ biết nghĩa này, chớ để cho kiến ma (tự chấp tri kiến của mình
thành ma), tạo nghiệp chìm đắm, hộ trì cho họ dứt bỏ tà duyên,
khiến thân tâm họ nhập tri kiến Phật, từ bắt đầu đến khi thành
tựu chẳng bị lạc đường.
- - Chư Phật
trong quá khứ hằng sa kiếp đều nhờ pháp môn này mà khai ngộ,
thành đạo Vô Thượng. Nếu dứt được thức ấm rồi thì lục căn của
các ngươi hỗ dụng lẫn nhau, do hỗ dụng này được vào cấp bậc Kim
Cang Càn Huệ Bồ Tát, ở trong đó phát khởi chơn trí, trong suốt
như mặt trăng ở trong ngọc lưu ly, từ đó cho đến siêu việt thập
tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh và Kim
Cang thập địa, Đẳng Giác viên minh vào trong biển Diệu Trang
Nghiêm của Như Lai, Bồ Đề viên mãn, quy về Vô Sở Đắc.
- - Đây là
những ma vi tế trong lúc tu tập thiền định mà chư Phật đã giác
ngộ từ đời quá khứ, cảnh ma hiện tiền, các ngươi nhận biết được
liền tẩy trừ tâm cấu nhiễm của mình, chẳng lọt vào tà kiến, thì
ấm ma tiêu diệt, thiên ma vỡ nát, đại lực quỷ thần hoảng sợ chạy
trốn. Các loại yêu tinh ly mî chẳng còn sanh ra, những căn hạ
liệt cũng được tinh tấn, tâm chẳng mê lầm nơi Đại Niết Bàn,
thẳng đến Bồ Đề, chẳng gì thiếu sót.
- - Nếu các
chúng sanh ngu độn trong đời mạt pháp chưa hiểu Thiền Na, chẳng
biết Phật pháp mà ưa tu tam muội, e họ mắc phải tà kiến, nên một
lòng khuyên họ trì chú Phật Đảnh Đà La Ni của ta; nếu chưa thể
tụng trì, thì viết nơi thiền đường, hoặc đeo trong thân, như
thế, tất cả tà ma đều chẳng động đến được. Ngươi nên kính vâng
lời dạy sau cùng về đường tu rốt ráo của mười phương Như Lai.
- A Nan nghe
Phật dạy bảo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ kính vâng, ghi
nhớ chẳng sót, lại bạch Phật rằng:
- - Như lời
Phật dạy, trong tướng ngũ ấm, năm thứ hư vọng vốn là bản tâm,
chúng con bình thường chưa được Như Lai khai thị tỷ mỷ như thế.
Lại ngũ ấm này là tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà diệt
trừ? Năm lớp này đến đâu là bờ bến? Xin Như Lai phát lòng đại
từ, khiến tâm và mắt của đại chúng được trong sáng, và làm đạo
nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong đời mạt pháp.
- Phật bảo A
Nan:
- - Diệu tâm
sáng tỏ, bổn giác trong sạch, vốn chẳng có sanh tử và những trần
cấu, tất cả chúng sanh, cho đến hư không, đều do vọng tưởng mà
sanh khởi. Cái bổn giác vốn sáng tỏ trong sạch này, vọng sanh
các tướng thế gian, như Diễn Nhã Đạt Đa mê đầu nhận bóng. Vọng
vốn chẳng nhân, lại nơi vọng tưởng lập tánh nhân duyên, kẻ mê
nhân duyên cho là tự nhiên, thật ra, tánh hư không còn là huyễn
hóa, nhân duyên và tự nhiên đều do vọng tâm của chúng sanh tạo
thành. - A Nan, biết chỗ vọng khởi, thì nói vọng duyên, nếu vọng
vốn không, thì các vọng nhân duyên vốn chẳng thể có, huống là
chẳng biết lại cho là tự nhiên. Vì thế, Như Lai phát minh: Bản
nhân của ngũ ấm đều là vọng tưởng.
- - Thân ngươi
trước tiên, do niệm tưởng của cha mẹ sanh ra, tâm ngươi nếu
chẳng có niệm tưởng thì chẳng thể đến hợp với tưởng của cha mẹ
mà thọ sanh. Như trước ta đã nói, tưởng tượng vị chua thì tiết
ra nước miếng, tưởng tượng leo dốc thì lòng bàn chân ghê rợn,
dốc cao chẳng có, vật chua chưa đến, thân ngươi nếu chẳng cùng
loại với hư vọng thì làm sao nghe nói chua lại tiết ra nước
miếng? Nên biết sắc thân hiện tiền của ngươi, gọi là Kiên Cố
Vọng Tưởng thứ nhất.
- Như trên đã
nói, tưởng tượng leo dốc thì khiến thân thật chịu ghê rợn; vì
cái nhân niệm tưởng cảm thọ, lay động sắc thân, nay trước mắt
ngươi ham thuận chán nghịch, hai hiện tượng này giao tranh với
nhau, gọi là Hư Minh Vọng Tưởng thứ hai.
- - Bởi do niệm
tưởng sai khiến sắc thân; nếu sắc thân với niệm tưởng chẳng cùng
loại, thì tại sao thân ngươi lại theo niệm tưởng sai khiến? Đủ
thứ hiện tượng tương ưng với niệm tưởng, hễ tâm sanh thì thân
nhận, lúc thức là niệm tưởng, lúc ngủ thành chiêm bao. Vậy thì
niệm tưởng của ngươi lay động vọng tình, gọi là Dung Thông Vọng
Tưởng thứ ba.
- - Lý tạo hóa
chẳng ngừng, âm thầm dời đổi, móng dài, tóc mọc, sức mòn, hình
nhăn, ngày đêm thay đổi mà không hề hay biết.
- - A Nan, ấy
nếu chẳng phải là ngươi, thì tại sao thân ngươi lại dời đổi? Nếu
ắt phải là ngươi, thì sao ngươi lại chẳng hay biết? Vậy thì,
hành ấm của ngươi niệm niệm chẳng ngừng, gọi là U Ẩn Vọng Tưởng
thứ tư.
- - Lại, chỗ
tánh thức trong lặng chẳng lay động của ngươi, cho là thường còn
ấy, ở nơi thân ngươi chẳng ra ngoài Kiến, Văn, Giác, Tri, nếu
cho là chơn thật, thì chẳng thể huân tập sự vọng, tại sao các
ngươi đã từng xem một vật lạ từ năm xưa, trải qua nhiều năm, nhớ
quên chẳng còn; về sau bỗng thấy vật lạ đó, thì nhớ lại rõ ràng,
chưa từng lạc mất?
- - Vậy nơi
tánh thức trong lặng chẳng lay động này, đâu có suy tính, mà
niệm niệm chịu sự huân tập! A Nan nên biết, tánh trong lặng này
chẳng thật, như dòng nước chảy gấp, trông như tịch lặng, ấy là
vì chảy gấp mà chẳng thấy, chứ chẳng phải không chảy; nếu chẳng
phải là cội gốc của niệm tưởng, thì đâu thể huân tập sự vọng?
Nếu lục căn chưa được hỗ dụng tự tại, thì vọng tưởng này chẳng
bao giờ diệt trừ được.
- - Vậy nên
hiện nay cái Kiến, Văn, Giác, Tri của ngươi, hòa hợp với tập khí
vi tế, thành mường tượng hư vô nơi tánh Trạm Liễu, gọi là tướng
vi tế của Điên Đảo Vọng Tưởng thứ năm.
- - A Nan! Ngũ
ấm này do năm thứ vọng tưởng kể trên mà thành.
- - Nay ngươi
muốn biết bờ bến sâu cạn, thì Sắc với Không là bờ bến của Sắc
Ấm; Xúc với Lìa là bờ bến của Thọ Ấm; Nhớ với Quên là bờ bến của
Tưởng Ấm, Diệt với Sanh là bờ bến của Hành Ấm; Trạm nhập hợp
Trạm, là bờ bến của Thức Ấm.
- LƯỢC GIẢI
- Trước kia,
A Nan hỏi về ngũ ấm đến đâu là bờ bến, ở đây Phật giải thích kỹ
càng, có nguyên nhân có bờ bến, từ cạn vào sâu.
- Sắc chẳng
tự Sắc, vì Không hiển Sắc, nên sắc với Không là bờ bến của Sắc
Ấm. Thọ chẳng tự Thọ, vì Xúc có Thọ, nên Xúc với Lìa là bờ bến
của Thọ Ấm; Tưởng chẳng phải Tưởng, vì ghi nhớ gọi là Tưởng, nên
Nhớ và Quên là bờ bến của Tưởng Ấm; Hành chẳng phải Hành, vì
sanh diệt chẳng ngừng, gọi là Hành, nên Sanh với Diệt là bờ bến
của Hành Ấm; Thức gọi là Trạm Liễu (trong lặng sáng suốt), là đã
diệt sanh diệt, tánh Thức nhập vào chỗ cội gốc trong lặng, mà
hợp với trạm nhiên, có nhập có hợp, tức là bờ bến của Thức Ấm.
- Vì Trạm
Nhập là Thức Ấm, Trạm Xuất là Hành Ấm. Chơn Tánh chẳng gọi là
Trạm Nhập, là vì cùng khắp pháp giới, nên chẳng có xuất nhập,
nay Trạm Nhập dần dần đi vào, cho đến nhập vô sở nhập, tức đến
chỗ chẳng sanh diệt vậy.
- *****
- - Cội gốc của
ngũ ấm từng lớp sanh khởi; sanh do thức mà có, diệt theo sắc mà
trừ; Lý thì Đốn Ngộ, theo ngộ cùng tiêu. Sự chẳng thể bỗng diệt,
phải dần dần mới được dứt sạch.
- - Ta đã khai
thị cho ngươi về thắt kết của khăn bông, tại sao còn chẳng rõ mà
lại hỏi nữa! Ngươi đối với cội gốc vọng tưởng này, nơi tâm được
khai ngộ, rồi mới có thể truyền dạy cho người tu hành trong đời
mạt pháp, khiến họ biết sự hư vọng, tự sanh nhàm chán, biết có
Niết Bàn, chẳng lưu luyến tam giới.
- - A Nan! Nếu
có người đem thất bảo chất đầy mười phương hư không để cúng
dường vô số Phật, tâm chẳng buông lung, ý ngươi thế nào, người
ấy do nhân duyên cúng dường Phật này, có được phước nhiều chăng?
- A Nan đáp
rằng:
- - Hư không vô
tận, thất bảo vô biên. Xưa kia có người cúng Phật bảy xu, còn
được phước báo làm Chuyển Luân Vương, huống là dùng thất bảo đầy
khắp hư không để cúng dường; thất bảo ấy suốt kiếp đếm mãi còn
chẳng thể hết, làm sao phước ấy lại có bờ bến!
- Phật bảo A
Nan:
- - Lời nói của
chư Phật chẳng có hư vọng, nếu có người gây các tội Tứ Trọng
(Sát, đạo, dâm, vọng), Thập Ba La Di, phải trải qua địa ngục
A-Tỳ phương này phương kia, cho đến cùng tột các ngục A Tỳ mười
phương trong sát na, chẳng nơi nào không trải qua, nếu người ấy
dùng một niệm đem pháp môn này khai thị cho người sơ học trong
đời mạt pháp, liền được tội chướng tiêu diệt, biến cái nhân khổ
địa ngục thành cõi an lạc được phước siêu việt hơn người cúng
dường trước kia gấp trăm ngàn lần, ngàn vạn ức lần như thế cho
đến toán số thí dụ đều chẳng thể so bằng.
- LƯỢC GIẢI
- Theo đoạn
trên nói, Phạm tội Tứ Trọng, Thập Ba La Di là cái tội cực ác,
phải chịu cái quả báo cực khổ cho đến cùng tột tất cả địa ngục
A-tỳ. Kẻ phạm tội như vậy tại sao chỉ cần dùng "một niệm đem
pháp môn này khai thị cho người sơ học trong đời mạt pháp liền
được tội chướng tiêu diệt, biến cái nhân khổ địa ngục thành cõi
an lạc". Vậy nếu thật như thế thành không có nhân quả sao? Nếu
người hiểu lầm việc này thì cho là làm cái nhân cực ác cũng
không sao! Vì chỉ cần biết thuyết pháp thì tội lớn đến mức nào
cũng tiêu ngay lại còn được phước báo vô cùng tận.
- Chứng Đạo
Ca nói:
- "Liễu thì nghiệp chướng vốn là
không,
chưa liễu vẫn phải trả nợ xưa".
- Liễu là
liễu ngộ tức là ở trong chiêm bao thức tỉnh, thì nghiệp chướng ở
trong chiêm bao tự tiêu diệt, còn chưa liễu thì còn ở trong
chiêm bao phải chịu nghiệp báo trong chiêm bao không thể tiêu
liền được. Kinh nói dùng "Một niệm đem pháp môn này khai thị cho
người sơ học trong đời mạt pháp liền được tội chướng tiêu diệt,
biến cái nhân khổ địa ngục thành cõi an lạc", ấy là ám chỉ người
liễu ngộ mới có thể liền tiêu nghiệp chướng.
- "Y văn
giải nghĩa, tam thế Phật oan", độc giả hãy tự xem xét cho kỹ.
- *****
- - A Nan! Nếu
có chúng sanh hay tụng trì kinh này và chú này như ta đã nói,
thì phước báo cùng tột số kiếp cũng chẳng thể hết; nếu nương
theo lời dạy của ta mà tu hành, thì thẳng đến Bồ Đề chẳng còn
nghiệp ma.
- Phật thuyết
kinh này xong, các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di,
tất cả cõi trời, người, A Tu La trong thế gian, với các vị Bồ
Tát, Nhị Thừa, Thần tiên, đồng tử ở cõi khác, và đại lực quỷ
thần mới phát tâm, đều rất vui mừng, đảnh lễ ra về.
- GHI CHÚ
- (l) U-Ẩn
Vọng Tưởng và Chúng Sanh Trược:
- Hành Ấm
tại sao gọi là U Ẩn Vọng Tưởng? Vì cái vọng tưởng của Hành Ấm u
nhàn ẩn mật, khó mà tự phát giác được, gọi là U Ẩn Vọng Tưởng.
Chúng Sanh Trược là sanh diệt chẳng ngừng, nghiệp báo thường lưu
chuyển, luân hồi thành đủ thứ chúng sanh, dựa theo đó mà sanh ra
tri kiến chấp thật, nên gọi là Chúng Sanh Trược.
- (2) Phân
Vị:
- Luận về
thường, vô thường, nói về tánh thì thuộc kiến phần; biên vô
biên. Nói về phân vị thì thuộc tướng phần. Bốn thứ Hữu Biên Luận
nói về phân vị: Một là phân vị tam tế, quá khứ, hiện tại, vị
lai, hai là phân vị kiến văn, ba là phân vị nhân ngã, bốn là
phân vị sanh diệt, đều bị kẹt trong phân vị của Hành Ấm mà sanh
ra vọng tâm so đo.
- (3) Hậu
Hậu Vô:
- Vì trước
kia thấy có hành ấm mà chẳng có thọ tưởng, sau này hành ấm cũng
chẳng có; trước kia thấy sau khi chết chẳng tướng là chỉ nói về
một chỗ thân diệt mà thôi, nay truy cứu hết bảy chỗ tận diệt
chẳng sanh nữa: thân diệt thuộc dục giới, gồm cõi trời và cõi
người, sắc dục diệt thuộc Sơ thiền, khổ diệt thuộc Nhị thiền,
cực lạc diệt thuộc Tam Thiền, cực xả diệt thuộc Tứ Thiền, dù chỉ
nói 5 chỗ diệt, kỳ thật gồm hai cõi Vô Sắc (Không Vô Biên Xứ và
Vô Sở Hữu Xứ) là bảy chỗ diệt. Đây là lọt vào Vô Tưởng Thiên
ngoại đạo, giống như Tỳ Kheo Vô Văn, đồng một đoạn kiến, tự nói
chứng quả, chẳng thọ sanh nữa, nên lập sau khi chết
đoạn-diệt-luận.
- (4) Hậu
Hậu Hữu:
- Trước đã
nói là Hậu Hậu Vô, rồi nay tại sao lại nói Hậu Hậu Hữu? Bởi vì
cái cội gốc sanh diệt lăng xăng này là chẳng thể diệt được vì
chưa đến chỗ chơn tịch diệt, mà vọng thấy chỗ diệt có sự chứng
đắc, nên nói Hậu Hậu Hữu. Vì Hành Ấm được tạm ngưng sát na tánh
viên minh hơi hiện, bèn cho là chẳng sanh diệt, tức là Niết Bàn,
do so đo thành có năm chỗ Niết Bàn vậy.
- (5) Điên
Đảo Vọng Tưởng và Mệnh Trược:
- Thức Ấm
tại sao gọi là Điên Đảo Vọng Tưởng? Vì chấp võng tượng hư vô,
"Võng" thì giống như là không. "Tượng" thì giống như là có, như
có như không, trở thành hư vô. Hư vô là thể của Chơn Như, chẳng
sanh chẳng diệt, nay có võng tượng là bóng sanh diệt của thức
thứ tám. Nếu nương theo Chơn Như thì gọi là Chánh Giác, nếu
nương theo thức thứ tám thì gọi là vọng giác, vì chấp cái võng
tượng hư vô này, nên thành điên đảo vọng tưởng. Sinh mệnh là do
sự hô hấp, sức ấm của cơ thể và ý thức ba thứ hòa hợp mà thành,
dựa theo đó mà sanh ra tri kiến chấp thật, nên gọi là Mệnh
Trược.
- (6) Năng
Phi Năng:
- Chấp ta
năng sanh tất cả chúng sanh (tâm năng vi), nhưng sự thật thì
chẳng có cái năng lực ấy (quả năng sự).
- (7) Tham
Phi Tham:
- Thân vốn
vô thường, chẳng thể tham được, nay khởi tâm chấp thật, tham cầu
trường thọ, tham cái không thể tham gọi là tham phi tham.
- (8) Lập
tâm viên giác thành cái quả trạm minh.
- Lấy cái
giác làm viên minh: cho là "viên" thì bị kẹt ở nơi viên, cho là
"minh", thì bị kẹt nơi minh. Là "minh" thì chẳng mê ở nơi nhân
quả cảm ứng; là "viên" nên chẳng mê vào chỗ "diệt rồi là xong",
từ đó truy cứu sự thâm diệu, thâm lại càng thâm, chẳng đọa nơi
hữu, diệu lại thêm diệu, chẳng đọa nơi Vô, thì ở chỗ "Phi hữu
phi vô" này lập cái Niết Bàn chẳng sanh chẳng diệt, cố chấp
không thể hóa giải được, nên chẳng cầu tiến thêm, thành quả định
tánh Bích Chi.
-
- (KINH LĂNG NGHIÊM HẾT)
- --o0o--
|
|