|
KINH TẠNG
- PHẦN MỘT
- KINH HIỀN NGU
- H. T.Thích
Trung Quán Dịch
- --o0o--
PHẠM
THIÊN THỈNH PHÁP
Chính tôi được
nghe: Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, tại đạo tràng Thiện Thắng. Cũng do
lòng bi thiết cứu thế, hoằng pháp độ sinh, đã mất bao công gian khổ tu
tập. Khi mới thành Phật, thấy vấn đề trên đối với tất cả chúng sinh khó,
nên Ngài tự nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh mê tối thâm độc qúa, lòng dạ
đảo điên, kiến thức hẹp hòi, chỉ mê theo những lối tà đạo, rất khó giáo
hóa, ta có ở đời cũng vô ích, chi bằng ta vào cõi Vô Dư Niết Bàn là
hơn".
Khi đó ông vua
cõi trời Phạm Thiên biết Ngài tự nghĩ như vậy, liền từ trên trời bay
xuống tận nơi, tới trước làm lễ, rồi qùy gối chắp tay cung kính thưa với
Ngài rằng:
- Kính lạy Đức
Thế Tôn! Vừa đây con được biết ý niệm của Ngài, vì thấy chúng sinh điên
đảo khó giáo hóa, nên Ngài muốn vào Niết Bàn, vậy con tới đây xin cầu
thỉnh Ngài ở lại truyền Pháp cho đời, khiến ánh sáng chân lý lan tràn
khắp cõi nhân gian thiên thượng muôn loài được thấm nhuần đức hóa, thoát
qua khỏi luân hồi sinh tử trong sáu thú, đời đời được an vui tự tại nơi
Phật Quốc. Kính xin Ngài hoan hỷ nhận lời thành kính cầu thỉnh của con.
Phật dạy: - Ông
có lòng vì tất cả chúng sinh vậy cũng tốt, song tôi nhận thấy chúng sinh
bị trần cấu che tối, say mê, tài sắc, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, tham
dục, sân si, lòng dạ đen tối không có chút trí tuệ gì, vì thế tôi có ở
đời cũng chỉ luống công thôi! Nên tôi muốn vào Niết Bàn là một sự an vui
hơn.
Ông lại thưa
rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài nhủ lòng thương đến con và tất cả
chúng sinh trong cõi trời, cõi người, đương bị màn vô minh che tối, tìm
ra không biết lối, ngày nay biển Pháp đã đầy, cờ Pháp đã dựng, thời đã
tới, những chúng sinh có thể độ được, con xem số đó cũng khá đông nhiều.
Vậy kính mong Ngài thi ân tế độ hoằng pháp lợi sinh.
Kính lạy Ngài!
Con nhớ cách đây vô số kiếp, cũng vì lũ chúng con nên Ngài từng góp
nhặt, một bài kệ, cho đến một câu đạo, đến nỗi quên mạng sống, bỏ cả vợ
con yêu dấu, hy sinh vì Phật pháp, một cách rùng mình sởn gáy, tất cả
không ai làm nổi, được những hạnh của Ngài đã thực hiện, giờ đây Ngài đã
thành tựu trên công cuộc tầm đạo giải thoát, chúng sinh như những áng cỏ
trên mặt đất bao la bị sương mù phủ đậy đã lâu năm đương ngóc ngó ánh
thái dương phản chiếu, để biến thành những bông hoa tươi đẹp. Kính lạy
Ngài, xin chớ bỏ lũ chúng con để vào Niết Bàn.
Con lại nhớ
kiếp qúa khứ cách đây đã khá lâu xa có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở
Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông,
tám mươi ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu nhân và một vạn quan Đại thần.
Đối với thời
ấy, phúc đức và thế lực của vua Tu Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở
đó đức vua, được an lạc thái bình, mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng
vô tận!
Một hôm vua tự
nghĩ rằng: - "Đối với vật chất ta đã giúp dân được đầy đủ, nhưng về tinh
thần giải thoát cho con người chưa có. Nếu con người chỉ sống theo vật
chất, sống theo tình dục, tâm như gỗ đá, tâm như cát sỏi tha hồ cho bốn
tướng sinh, già, bệnh, chết lôi quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no
nằm mát, phơi mình trên đám phân tro, cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng lẽ
đó là lỗi ở ta, ta có trách nhiệm tìm đường giải thoát cho họ".
Nghĩ thế rồi
Ngài ra yết thị và báo cho thiên hạ biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải
thoát của Phật dạy nói cho ta hay, muốn dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy
đủ".
Tuyên lệnh đã
lâu, nhưng không thấy ai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý
lúc nào cũng không được vui!
Sau đó ông Tỳ
Sa Môn, là một ông vua cõi trời Tứ Thiên Vương thấy vậy bèn đến thử Ngài
như sau.
Ông biến hình
làm một con qủi Dạ Xoa, mặt xanh lè, mắt đỏ như huyết, răng to như quả
chuối măn, mọc chìa ra ngoài, tóc dựng ngược, mồm phun lửa đến cung vua
giựt lấy bảng rồi nói: - Các ông vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật
Pháp, nhà vua muốn nghe, tôi sẽ giảng cho.
Quan Môn Giám
nhận lời, vào tâu vua rằng:
- Tâu bệ hạ
ngoài thành có một người hình thể khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin
nói cho bệ hạ nghe, việc đó thế nào xin cho hạ thần được rõ?
Nhà vua nghe
nói, vui vẻ đội mũ mặc áo chỉnh tề, tự ra đón tiếp mời vào chánh điện và
nhường ngồi trên ngai vàng, thết đãi một cách rất trọng hậu.
Sớm ngày mai
nhà vua bày một tòa cao đẹp, trà nước xong xuôi, đánh trống ca nhạc rước
Pháp sư thăng tòa thuyết pháp, Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có
đông đủ quan quân, dân chúng, nhà vua ra lễ bái Pháp sư, rồi quỳ xuống
xin Pháp sư thuyết pháp.
Pháp sư nói:
- Học pháp rất
khó, ông muôn được nghe không phải dễ.
Nhà vua thưa
rằng: - Kính thưa Pháp sư! Thương đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe
Pháp phải đúng lễ thế nào, xin cho chúng tôi được rõ.
Pháp sư nói: -
Nếu nhà vua đem vợ yêu con quí cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.
Nghe xong nhà
vua vui vẻ thọ giáo, bái tạ lui ra trở về cung gọi vợ con nói:
- Tôi xin nói
để các người hay: vợ chồng cha con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái
có ngày biệt ly, tôi muốn tìm con đường giải thoát, cho tôi và lũ ngươi,
vì thế tôi muốn đem thân mạng của lũ ngươi dâng Pháp sư để cầu thành
Phật; ý thế nào cho tôi được rõ?
Nghe xong hoàng
hậu và thái tử liền quỳ xuống, xin tuân lời chỉ giáo.
Được sự đồng ý
rồi nhà vua liền đem vợ con dâng Pháp Sư. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên
tòa cao, giữa đám hội đông người nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn
hết, mọi người thấy thế đều lắc đầu, lè lưỡi, kinh sợ hãi hùng.
Khi đó quần
thần, dân chúng, thấy nhà vua hành động như vậy, ai nấy đều không bằng
lòng, và cho nhà vua qúa ư mê chấp. Song họ có biết đâu nhà vua làm
những việc mà người đời không ai làm được. Họ như con ếch nằm trong đáy
giếng, chưa bao giờ nhìn thấy biển Đông. Sự nhìn xa trông rộng không
phải kẻ phàm ngu có thể so sánh.
Tiếp đến Pháp
Sư đọc bài thơ như sau:
Nhất thiết hành
vô thường.
Sinh giả giai
thị khổ!
Ngũ ấm không vô
tướng.
Vô hữu ngã, ngã
sở.
Nghĩa là:
Hết thảy đều vô
thường,
Sinh ra tất
phải khổ!
Năm ấm không có
tướng.
Ta và của đều
không.
Nhà vua nghe
xong vui vẻ khôn xiết! Sai người chép lấy, để ban phát cho mọi người
trong nước, bắt ai cũng phải tụng đọc.
Bấy giờ Pháp Sư
(quỉ Dạ Xoa) thấy vua có vẻ bình thản như vậy, liền hiện lại nguyên
hình, nói rằng: "Quí hóa nhà vua! Biết tôn trọng Chánh Pháp như vậy
không bao lâu Ngài sẽ được thành Phât". Nói xong, bỗng nhiên lại thấy
phu nhân và thái tử hãy còn toàn vẹn.
Kính thưa Ngài!
Vua Tu Lâu Bà thuở đó chính là ngài đẫy. Xưa kia Ngài đã hy sinh vì Pháp
như vậy, sao nay Ngài nỡ bỏ chúng sinh để vào Niết Bàn?
Kính lạy Ngài!
Lại một kiếp nữa, thuộc thời quá khứ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một
ông vua tên là Kiền Sá Ni Yết Lê, thống trị nhiều nước, tám vạn bốn ngàn
Tụ Lạc, hai muôn Phu Nhân và thể nữ, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua nhân
hiền, yêu thương tất cả, nhân dân sung sướng, cây cỏ xanh tươi. Dân coi
vua như một người cha lành.
Nhà Vua tự nghĩ
như vầy: "Ta được địa vị cao sang, tôn trọng quý giá! Là do trước kia ta
đã tạo nhân lành. Hiện nay nhân dân được an vui sung sướng! Tuy thế, chỉ
an vui về vật chất, song vật chất có ngày hoại diệt, không phải một sự
an vui lâu dài vĩnh viễn, muốn cho chính mình và tất cả chúng sanh, được
an vui vĩnh viễn, ta phải tìm đạo giải thoát do Phật dạy mới có kết
quả".
Nghĩ thế rồi
vua sai các quan viết bảng cáo thị, và truyền lệnh cho khắp trong nước
biết: "Nếu ai có Diệu Pháp, nói cho ta nghe, ý muốn gì ta sẽ cung cấp
cho đầy đủ".
Sau có người Bà
La Môn tên là Lao Độ Sai, đi tới nói rằng: - Tôi có Diệu Pháp, các ông
vào báo cho vua biết.
Quan Môn Giám
liền đem tin ấy vào tâu vua. Nhà vua nghe nói, ý rất vui mừng, mũ áo
trang nghiêm, tự ra lễ bái, hỏi han ân cần trịnh trọng rồi mời vào trong
chánh điện, bày giải một tòa cao đẹp, mời Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh.
Vua và hai bên tả hữu chắp tay thưa rằng:
- Kính thưa Đại
sư, được hạnh phúc cho chúng tôi nhiều lắm! Hôm nay Đại sư có lòng
thương đến chúng tôi mà tới đây. Vậy kính xin thể lòng từ bi cao cả,
thuyết Diệu Pháp cho chúng tôi được thừa thụ.
Lao Độ Sai đáp:
- Ta có trí tuệ cũng phải mất bao công khó nhọc, tìm mãi ở phương xa,
dầy công học tập, không phải là một việc dể dàng quá như vậy.
Nhà vua thưa: -
Kính thưa Đại sư, ý Đại sư thế nào xin dạy bảo cho chúng tôi được rõ?
Lao Độ Sai nói:
- Nhà vua muốn được nghe Pháp, thì phải khoét trên mình ra một ngàn lỗ,
đổ dầu cho bấc, đốt lửa cúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết cho nghe.
Nghe nói, nhà
vua vui vẻ nhận lời xin khoét, và khất lại bảy ngày để báo cáo cho dân
chúng biết, lời báo cáo như sau:
"Tất cả quốc
dân nên biết: Vua Kiền Sà Ni Yết Lê sau bảy ngày nữa vì sự cầu đạo, sẽ
khoét trên mình ra ngàn lỗ, đốt đèn cúng dàng Pháp Sư, ai muốn nghe, và
xem sự hy sinh cúng dàng của nhà vua thì đến".
Bấy giờ các ông
vua nước nhỏ và nhân dân các nước, hay tin ai cũng buồn rầu, cùng nhau
đến yết kiến và tâu rằng:
- Kính thưa Đại
Vương! Tất cả muôn dân nhờ phúc đức của Đại Vương được an lạc thái bình,
như kẻ mù được nhờ cây gậy, con dại ngóng mẹ hiền, nếu Đại Vương khoét
mình đốt đèn, tất nhiên tuyệt mạng, thì muôn dân trông cậy vào ai? Xin
không nên vì một người mà nỡ bỏ chúng sinh trong thiên hạ.
Sau đó hai muôn
bà phu nhân, và năm trăm thái tử, một vạn Quan Đại Thần, tất cả đều can
vua việc đó.
Nhà vua liền
lớn tiếng nói:
- Các ông không
nên cản trở tôi, tôi hy sinh thân này để nghe một câu đạo, sau này tôi
thành Phật, tôi sẽ độ cho lũ các ông trước.
Họ thấy nhà vua
khẳng khái như vậy, ai nấy đều tha thiết kêu van! Nhưng vua cũng quyết
định không thay đổi ý kiến.
Hết hạn bảy
ngày nhà vua tới trước Pháp sư làm lễ và thưa rằng:
- Kính thưa Đại
sư, chúng tôi xin dốc lòng thành kính, theo lời chỉ giáo của Đại sư! Để
bắt đầu khoét mình đốt đèn cúng dàng, xin Đại sư hoan hỷ!
Nói xong nhà
vua sai khoét, nhưng không ai dám khoét. Sau đó có người Chiên Đà La đến
khoét hộ cho vua, anh này khoét xong, vất dao xuống đất chạy mất, khi đổ
dầu bỏ bấc xong mọi người coi thấy ai cũng rùng mình run sợ!
Nhà vua thưa
rằng:
- Kính xin Đại
sư thuyết pháp trước, sau sẽ đốt lửa, sợ mạng tôi tuyệt thì không nghe
pháp.
Lao Độ Sai đọc
bài thơ rằng:
Thường giả giai
tận.
Cao giả tất
trụy?
Hợp hội hữu ly
Sinh giả hữu
tử.
Nghĩa là:
Thường rồi có
hết,
Cao thì phải
rơi,
Hợp rồi có tan,
Sinh thì có tử.
Đọc xong vua
sai đốt lửa, trong khi lửa cháy dữ dội, vẻ mặt nhà vua vẫn nghiễm nhiên
tươi tỉnh, không hề biến sắc. Ngài tự phát thệ rằng:
- Tôi chịu đau
khổ để cầu nghe đạo giải thoát, nguyện đem công đức này hướng về Phật
qủa, sau khi được thành, tôi sẽ lấy trí tuệ quang minh, phá ngu si hắc
ám cho tất cả chúng sinh.
Nói dứt lời,
thì trời đất tự nhiên chuyển động, tới cõi trời Tịnh Cư. Khi đó các
người cõ Trời ngó xuống xem, thấy một vị Bồ Tát đốt mình làm đèn cúng
dường Pháp Sư để nghe pháp, một cách rùng rợn! Họ bay xuống đứng kín cả
hư không, ví sự cảm động quá! Nên nhiều người sa nước mắt roi xuống
thành mưa, đồng thời họ lại tung hoa xuống để cúng dàng. Vua Đế Thích
đến tận nơi, tới trước khen và hỏi rằng:
- Nhà vua đau
khổ như vậy thì có hối hận gì không?
Nhà vua đáp: -
Thưa không!
Đế Thích nói: -
Tôi thấy nhà vua run rẩy không yên như vầy, tự nói không hối, lấy gì
chúng cớ biết rõ được?
Đế Thích nói
dứt lời, thì Ngài tự thề rằng:
- Nếu tâm tôi
thủy chung như một, không hối hận gì, thì xin lỗ trên mình tôi, lại được
bình phục như cũ.
Vì lòng chân
thực cầu đạo pháp tha thiết, cảm động mười phương, nên những lỗ trên
mình tự nhiên lại được bình phục như cũ, thân thể lại tốt lành hơn xưa.
Kính lạy Ngài!
Ông vua khoét mình đốt đèn để cầu đạo thuở đó, chính là Ngài đấy. Ngài
đã cực khổ cầu Pháp như vậy, tới nay đã đầy đủ, tại sao không thuyết
Pháp? Vào Niết Bàn làm chi, để chúng sanh mất con mắt quang minh trí
tuệ?
Kính lạy ngài!
Lại một đời quá khứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua, tên
là Tỳ Lăng Yết Lê thống trị được nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc,
hai muôn bà Phu Nhân và thể nữ, năm trăm Thái Tử, một vạn quan Đại Thần.
Nhà vua có đức nhân, coi dân như con đẻ, lại ham nghe chánh pháp, nên
sai quan Đại Thần tuyên lệnh cho toàn quốc biết như sau:
- Thông cáo cho
toàn quốc biết: Hoàng Thượng muốn được nghe Phật Pháp, ai biết đến nói
cho ngài nghe, Ngài sẽ trọng thưởng tùy ý muốn.
Cách thời gian
lâu, có một người dòng Bà La Môn, tên là Lao Độ Sai tới cung môn nói: -
Tôi là người đã từng nghiên cứu và tu tập giáo lý của Phật đã lâu, xin
ông hãy vào tâu Hoàng Thượng cho.
Theo lời yêu
cầu của Lao Độ Sai, quan Môn Giám vào tâu vua.
Nhà vua được
tin rất vui vẻ, đội mũ mặc áo trang nghiêm, thân ra cổng thành, trịnh
trọng chào hỏi, rồi mời vào trong chánh điện, thiết đãi trọng hậu. Sớm
ngày mai vua sai bày một tòa cao đẹp, thỉnh Pháp sư thăng tòa ngồi yên
tĩnh.
Nhà vua và bá
quan, nghiêm chỉnh thân tâm, tới trước Pháp Sư cúi đầu lễ lạy, rồi qùy
xuống thưa rằng: - Kính thưa Đại Sư phát tâm từ bi, thuyết pháp cho
chúng tôi được thừa ân công đức!
Lao Độ Sai đáp:
- Sự hiểu biết của ta đây, là do ta chịu khổ đã lâu năm, đi tìm học ở
bốn phương xa mới được; nhà vua coi sự học một cách dễ dàng quá!
Nhà vua toát mồ
hôi, một lòng kính cẩn thưa rằng:
- Kính thưa Đại
sư! Việc nghe đạo phải đúng quy tắc thế nào? Chúng tôi là kẻ trần tục
phàm phu, không biết sự lễ Pháp bao giờ, xin Đại sư chỉ dạy cho?
Đáp: - Nhà vua
có thể đóng lên mình một ngàn cái đinh sắt, được như vậy ta sẽ thuyết
pháp cho nghe.
Nhà vua thưa: -
Dạ! Xin tuân lời dạy bảo của Đại sư, và xin ngài cho lui lại bảy ngày,
để báo cáo cho dân biết.
Nói xong lễ tạ
lui ra, lời báo cáo như sau:
- Tất cả toàn
quốc nên biết, tôi là Nhân Chúa Tỳ Lăng Yết Lê, vì muốn được đạo giải
thoát cho chính tôi, và toàn thể, nên tôi đóng đinh trên mình một ngàn
cái, cúng dàng Pháp sư, quốc dân ai muốn biết sự thực hành của tôi, sau
bảy ngày nữa xin mời đến.
Dân chúng được
tin nhà vua đóng đinh trên mình, để cầu nghe giảng đạo. Họ nô nức kéo
nhau đến kinh thành rất đông, sau đó một số đại biểu của dân chúng lên
tâu vua rằng:
- Kính tâu
Hoàng Thượng! Lũ chúng tôi thay mặt cho toàn thể quốc dân, đến đây kính
mừng Thánh thượng, thọ lạc thiên thu, hưởng phúc lâu dài chúng tôi tự
biết, nhờ ơn đức Hoàng Thượng nên được thái bình an lạc, cúi xin thương
đến toàn thể quốc dân, miễn bỏ sự đóng đinh trên mình.
Sau đó, tiếp
đến Phu nhân, thể nữ, thái tử, quan đại thần cũng đồng thanh tâu vua xin
miễn bỏ việc đó.
Nhà vua đáp: -
Tôi nhận thấy đã bao kiếp tới nay, bị sống thác trong vòng sinh tử luân
hồi, thân mạng đã mất đi vô số; những thân mạng ấy cũng chỉ đeo những
tấm lòng tham dục, giận tức, ngu si, nhìn lại số xương thịt trong những
kiếp sinh tử ấy, có thể chất cao hơn núi Tu Di, đầu rơi máu chảy ra
nhiều hơn nước sông lớn; nước mắt khóc người thân nhiều hơn nước bốn bể;
những thân mạng sống chết đó, chẳng qua cũng chỉ uổng mà thôi, chưa từng
bao giờ vì đạo pháp má hiến thân. Tôi đóng đinh cúng Pháp Sư để cầu
thành Phật, sau khi thành Phật, tôi sẽ lấy trí sáng suốt để trừ diệt
bệnh kết sử của lũ các người, và đưa dắt các người lên đường giác ngộ
giải thoát thành Phật, một việc ích lợi chung cho toàn thể chúng sinh,
can tôi làm chi?
Theo lời nhà
vua tuyên bố, mọi người ai nấy đều im lặng, không dám nói năng gì hết.
Tới giờ phút
này nhà vua đến trước Pháp sư thưa rằng:
- Kính xin Đại
Sư ra ân, thuyết pháp trước đóng đinh, nếu đóng trước, thì tôi sẽ chết
không được nghe.
Đại Sư đọc bài
thơ rằng:
Nhất thiết giai
vô thường,
Sinh giả giai
hữu khổ!
Chư pháp không
vô chủ.
Thực phi ngã sở
hữu
Nghĩa là:
Tất cả đều vô
thường
Sinh ấy đều có
khổ!
Các pháp không
có chủ.
Thực chẳng phải
ta có.
Pháp Sư đọc
xong, nhà vua vui mừng, sai người viết lấy bài thơ ban bố cho quốc dân,
bắt ai cũng phải tụng đọc.
Giờ phút bắt
đầu, nhà vua sai người đóng đinh, thì tất cả các ông vua nước nhỏ, và
quân thần, dân chúng trong đại hội, đều gieo mình xuống đất than thở.
Trời đất chấn động sáu lần, các ông thiên tử trên trời bay xuống, thấy
ngài hy sinh cầu đạo như vậy, ai nấy đều cảm động, rơi lệ chứa chan, một
lòng tôn kính tung hoa xuống cúng dàng. Vua Đế Thích xuống tận nơi hỏi
rằng:
- Nhà vua quyết
liệt tâm chí, cầu đạo không tiếc mạng sống như vậy, để nguyện đời mai
sau làm gì? Làm Đế Thích ư, làm Chuyển Luân Vương ư, làm Ma Vương, Phạm
Vương ư?
Đáp: - Thưa
Ngài! Tôi quên mình để cầu đạo giải thoát của Phật, để cầu làm Phật, và
tế độ cho chúng sinh cũng được giải thoát, chứ tôi không cầu phúc báo ở
ba cõi sinh tử, như Đế Thích, Chuyển Luân Vương, Ma Vương hoặc Phạm
Vương.
Đế Thích hỏi: -
Tôi coi nhà vua đau đớn như thế, thì tâm có hối hận gì không?
Đáp: - Không!
Đế Thích hỏi: -
Ngài nói không thì lấy gì chứng tỏ?
Nhà vua liền
lập thệ thư sau:
- Nam mô tận hư
không biến pháp giới quá, hiện, vị lai chư Phật, tôn Pháp, Bồ Tát Hiền
Thánh Tăng tác đại chứng minh, con chí thành cầu Bồ đề, nếu tâm không
hối hận, thì thân thể lại được bình phục như củ.
Phát thệ dứt
lời, thì những cái đinh bật hết ra ngoài, thân thể quả nhiên lại được
bình phục như cũ.
Khi đó tất cả
trời, người và quan quân, dân chúng chứng tỏ tâm của Ngài thành thật cảm
ứng như vậy, ai nấy đều vỗ tay vui mừng không tả xiết!
- Kính lạy
Ngài! Ông vua đóng đinh trên mình thuở đó, chính là Ngài đấy! Tâm Ngài
lớn như biển cả, rộng như hư không, đã phá tan những tập kiến chúng
sinh, chúng đương ngoai ngáp trong chốn bùn lầy, nghẹt thở nơi hang tối.
Kính lạy Ngài chớ bỏ đàn con đau khổ mà vào Niết bàn.
- Kính lạy
Ngài! Lại một kiếp nữa, thuộc thời qúa khứ đã quá lâu, cũng Châu Diêm
Phù Đề này, có một ông vua tên là Phạm Thiên, sinh được một thái tử tên
là Đàm Ma La Kiềm.
Thái tử có trí
tuệ khôn sáng, ưa ở nơi thanh vắng, ít sự xa hoa dục vọng, có tính tìm
tòi chân lý, ham nghe chánh pháp, nên thường sai người đi khắp đông tây,
kiếm thầy học đạo, đã nhiều lần, nhưng không gặp được một ai là người có
chánh pháp giải thoát. Trong thời gian tìm thầy chưa được, Thái tử thấy
luôn luôn khổ não, làm cho không lúc ngớt ý nghĩ nói trên.
Bấy giờ vua Đế
Thích biết Thái tử lòng thành như vậy, liền hóa thân làm người dòng Bà
La Môn, đi đến kinh thành, tới chỗ đông người nói rằng:
- Các bạn nên
biết, tôi là người hiểu biết Phật Pháp, nếu bạn nào muốn nghe, tôi sẽ
giảng giải cho.
Họ liền đến
mách bảo Thái tử, ngoài thành có người tự xưng hiểu giáo lý đạo Phật.
Thái tử được
tin thấy lòng vui sướng vô cùng, vào phòng đội mũ tề chỉnh, và đem một
số người theo hầu, ra tiếp đón Pháp sư, lễ bái, hỏi han rồi mời vào
trong cung nơi biệt thự, thết đãi trịnh trọng.
Sớm ngày mai
trà nước xong xuôi, vầng thái dương mới nhôn khỏi núi ánh bình minh vừa
tỏa khắp cõi không gian, bầu trời yên lặng, thanh khí ôn hòa! Thái tử
sai người bày tòa giảng thuyết, Pháp Sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Thái tử
tới trước lễ bái, quỳ gối chắp tay thưa rằng:
- Kính thưa Đại
Sư, chúng tôi bị những bức thành mờ tối vô minh dục vọng đã bao kiếp, là
do không được gặp chánh pháp của Như Lai, chúng tôi thành kính trước
ngài, ngửa mong từ bi giảng thuyết, để cho hết thảy được ân triêm đức
hóa?
Đại sư nghiêm
nét mặt đáp:
- Học đạo không
phải một việc dễ, ta đã biết bao công trình tìm thấy tu học, mới được
hiểu biết. Người chưa chút khó nhọc, nay muốn được nghe ngay, thực là
coi sự học đạo dễ dàng quá.
Thái tử thưa
rằng: - "Kính thưa Đại Sư! Từ thân tôi cho đến vợ con tôi, vàng bạc châu
báu, Đại Sư dạy bảo thế nào, chúng tôi xin tuân mệnh không dám trái ý".
- Đại sư đáp:
"Muốn nghe pháp, Thái tử hãy đào một hố lớn, sâu chừng mười trượng, ở
dưới đốt than cho thật đỏ hồng, rồi Thái tử nhảy vào hố lửa ấy, cúng
dàng ta, thì ta sẽ thuyết pháp.
Thái tử nói: -
Dạ xin tuân lời dạy của Đại Sư.
Sau khi Thái tử
sai người đào hố thì nhà vua biết tin. Từ vua cho đến tất cả mọi người
trong Hoàng cung ai ai cũng lo phiền, và khuyên can, nhưng Thái Tử quên
mình vì sự cầu đạo giải thoát, nên không nghe theo những lời khuyên can
ấy.
Sau nhà vua và
các quan đều thưa với Đại Sư rằng:
- Kính thưa Đại
Sư! Thương đến lũ tôi, để miễn bỏ việc Thái tử nhảy xuống hố lửa, ngoài
ra Đại Sư muốn dùng gì chúng tôi xin dâng.
Đại Sư đáp: -
Việc đó tùy ý Thái tử, ta không bó buộc, đúng thế thì ta thuyết pháp,
bằng không thì thôi!
Nhà vua thấy
tâm địa của Đại Sư khẳng khái quá, nên ngài cũng vái chào rồi trở ra về,
không nói năng gì nữa.
Trở về nhà vua
sai người đi thông báo cho quốc dân biết rằng:
Lời thông báo
như sau: - Tất cả quốc dân nên biết, sau bảy ngày nữa Thái tử vì sự nghe
đạo, nên xả thân, nhảy xuống hố lửa, ai muốn thấy việc đó, thì lại sớm
nơi đây.
Nhân dân được
tin Thái tử nhảy xuống hố lửa, họ nô nức kéo nhau đi đến kinh thành đông
như hội, sau đó một số Đại biểu của nhân dân, tới thưa với Thái tử rằng:
- Kính thưa
Thái tử: Lũ chúng tôi hay tin Ngài vì sự nghe đạo nhảy xuống hố lửa, lợi
ích chưa thấy đã thấy sự tang thương cho quốc dân! Vậy kính mong Ngài
miễn bỏ việc đó, để cho quốc gia được an lạc.
Thái tử đáp: -
Các ông lẳng lặng để nghe tôi nói, thiệt hại hay lợi ích. Nhận thấy con
người sống thác từ đời vô thủy cho tới ngày nay, không số tính, chết cõi
này sinh cõi kia luân chuyển như bánh xe quay không mối. Trong loài
người vì lòng tham dục, nên giết hại lẫn nhau; trên cõi trời khi hết
tuổi thọ, thì lo về mất sự dục lạc; nơi địa ngục lửa đốt suốt ngày đêm,
nào nước sôi, búa chém, dao đâm, núi dao, rừng kiếm, hành phạt con người
vô cùng thảm khốc, trong một ngày chết đi sống lại biết bao lần, sự hình
ngục không thể giải bày cho xiết. Cái khổ trăm thứ tên độc xiên dùi vào
mình loài ngạ quỉ. Cái khổ kéo cày chở nặng loài súc sinh, sau lại dâng
thân cho người ăn thịt, những nỗi khổ như thế, khó nói hết trong những
kiếp đã chịu đoạ đày, xét lại những thân mạng ấy chỉ uống mà thôi, có
làm được một việc gì về vấn đề giải thoát cho chính mình và chúng sinh
trong pháp giới, ai đã biết đem thân ấy chết về việc nghe đạo bao giờ.
Ta đem dâng thân này, cúng dàng để nghe đạo giải thoát, sau thành Phật,
ta sẽ đem lại cho lũ các ông năm phận pháp thân, can chi phải ngăn cản
công việc ta đã quyết định làm.
Mọi người nghe
Thái tử nói xong, ai nấy đều nín thinh, không dám trả lời sao hết.
Khi sắp nhảy
xuống hố lửa Thái tử nói:
- Kính thưa Đại
Sư! Xin thuyết pháp trước khi tôi nhảy xuống hố.
Đại Sư đọc bài
thơ như sau:
Thường hành ư
từ tâm,
Trừ khứ khuế,
hại tưởng.
Đại bi mẫn
chúng sinh!
Căng thương vị
vũ lệ!
Tu hành đại hỷ
tâm,
Đồng kỷ sở đắc
pháp.
Cứu hộ dĩ đạo ý
Nãi ưng Bồ Tát
hạnh.
Nghĩa là:
Thường làm theo
tâm từ
Trừ bỏ tưởng,
giận hại.
Đại bi thương
chúng sinh!
Quặn lòng rơi
nước mắt!
Tu làm tâm đại
hỉ,
Với mình cùng
đắc pháp,
Cứu giúp bằng
đạo lý,
A
là hạnh
Bồ Tát.
Khi sắp gieo
đầu xuống hố lửa thì vua Đế Thích và vua Phạm Vương chạy lại cầm tay hỏi
gạn rằng:
- Thái tử hãy
khoan, để tôi nói chuyện đã: Một ông vua có đức nhân, thì muôn dân được
an lạc! Chúng tôi nhận thấy Thái tử là người đức tầy bốn biển, Phụ Hoàng
yên lòng có người nối trị nuôi dân, hà tất vì một câu đạo mà bỏ tất cả
chúng sinh trong thiên hạ, theo ý chúng tôi thì không nên quá ư thiên
chấp như vậy.
Thái tử đáp lời
rằng:
- Thưa quý
Ngài! Tôi nhận thấy phần nhiều người, chỉ biết lúc an vui, chớ không lo
một ngày gặp tai nạn! Chỉ biết cái sống hôm nay mà không sợ cái chết của
ngày mai. Sở dĩ tôi làm một việc có thể an vui mãi mãi, cho chúng tôi và
tất cả chúng sinh, chứ không phải tôi không biết thương chúng sinh! Quý
Ngài không nên cản trở đạo tâm cao cả của tôi làm gì.
Nói xong Thái
tử nhảy xuống hố lửa! Tự nhiên trời đất chuyển biến làm cảm động cả
thiên cung. Khi đó mọi người đều sa nước mắt, cũng có người lên tiếng
khóc thương! Giờ phút đương làm cho mọi người khủng hoảng, thì hố lửa ấy
tự nhiên biến thành một ao sen, mùi hương thơm ngào ngạt, những làn gió
thổi mát, thấu đến tâm phủ của mọi người, họ nhìn vào thấy Thái tử ngồi
trên đài sen, ai nấy đều vui mừng không tả xiết. Lúc đó hoa trên trời
bay xuống như mưa. Vua Đế Thích, vua Phạm Thiên cũng phải cất tiếng khen
rằng:
- Quý hóa! Cầu
đạo như vậy, sau này quyết định thành Phật.
Kính lạy Ngài!
Nhà vua thuở đó nay là thân phụ Ngài (Tịnh Phạn Vương), bà Hoàng hậu
thuở đó nay là thân mẫu Ngài (Ma Gia), Thái tử nhảy xuống hố lửa chính
nay là Ngài, cũng vì thương chúnh sinh, cầu pháp như ngài đó, nay đã
thành công, cúi xin Ngài từ bi thuyết pháp, tế độ quần sinh qua nơi biển
khổ!
Kính lạy Ngài!
Lại một đời quá khứ nữa, tới nay vô lượng kiếp, cũng Châu Diêm Phù này
có một nước tên là Ba La Nại, nước ấy có năm trăm vị Tiên sĩ tu trong
núi, ông Uất Đà La làm thầy các vị Tiên này, tuy ông tu theo Tiên đạo,
nhưng ông hằng mong được gặp chánh pháp của Như Lai (Phật), ông đã từng
đi khắp bốn phương trời, và thông báo cho thiên hạ biết rằng:
- Tôi Đại Tiên
sĩ rất muốn được nghe chánh pháp của đức Như Lai, ai biết nói cho tôi
nghe, nếu muốn dùng gì tôi xin dâng biếu.
Khi đó có một
người dòng Bà La Môn tới chỗ ông nói rằng:
- Nghe biết
Tiên sĩ muốn tìm hiểu chánh pháp của Như Lai, chính tôi là người hiểu
biết giáo pháp của Như Lai, nếu Ngài muốn hocỏi,
tôi sẽ thành thực giảng thuyết, nhưng nghe là một việc rất khó.
Đại Tiên thưa:
- Kính thưa Đại sư việc nghe pháp phải thế nào xin Ngài dạy bảo cho?
Đáp: - Ngài có
thể lột da của Ngài để làm giấy; chẻ xương của Ngài dùng làm bút; lấy
máu của Ngài để làm mực viết lấy giáo pháp của Như Lai, thì tôi sẽ
thuyết cho Ngài nghe.
- Dạ, rất đa tạ
Đại Sư, chúng tôi xin tuân lời của Đại Sư dạy.
Nói dứt lời ông
sai người lấy dao lột da, chẻ xương, lấy máu thực sự, làm xong ông ngửa
mặt thưa rằng:
- Dạ, kính xin
Đại Sư đọc để chúng tôi tiện viết ạ!
Đại sư đọc bài
thơ rằng:
Thường đương
nhiếp tâm hành
Nhi bất sát,
đạo, dâm;
Bất lưỡng thiệt
ác, khẩu,
Vọng ngôn, cập
ỷ ngữ.
Tâm bất tham
chư dục;
Vô sân, khuể,
độc tưởng;
Xả ly chư tà
kiến.
Thị vi Bồ tát
hạnh.
Nghĩa là:
Thường phải
nhiếp tâm hành.
Mà không sát,
trộm, dâm,
Không hai lưỡi,
nói ác;
Nói dối, nói
đơm đặt,
Tâm không tham
mọi dục;
Không sân giận,
độc tưởng;
Xa lìa mọi tà
kiến:
AṠlà
hạnh Bồ tát.
Đại Sư thuyết
xong thì Ngài viết cũng vừa xong. Từ đó Ngài dùng bài thơ này đi khắp
nhân gian để dạy bảo cho mọi người biết lối tu hành. Những người được
hàm ơn Ngài giáo hóa, khi mạng chung được thoát khỏi ba đường ác sinh
lên cõi Trời, cõi Người, hương phúc vô cùng vô tận.
- Kính lạy
Ngài! Ông Tiên ngày đó chính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh cầu học
đạo một cách khổ cực đến như vậy, tại sao lại bỏ để vào Niết Bàn mà
không thuyết pháp?
- Kính lạy
Ngài! Lại một thời quá khứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông
vua tên là Thi Tỳ, ở thành Đế Bà Bạt Đề, dân nước lúc đó giàu thịnh vô
cùng. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông,
tám ngàn ức dân ấp. Nhà vua có hai muôn bà phu nhân và thể nữ, năm trăm
Thái tử, một vạn quan Đại thần. Vua có hạnh từ bi, thương dân như con
đỏ.
Trên Trời lúc
ấy, Vua Đế Thích gặp lúc năm đức ly thân, sắp tới ngày tận số (chết) khí
sắc ông lúc nào cũng âu sầu, ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế, bèn hỏi rằng:
- Tâu Bệ hạ!
Hồi này Hạ thần coi khí sắc của Bệ hạ kém xưa nhiều lắm, chẳng hay có
chuyện chi, xin nói cho Hạ thần được rõ.
Đế Thích đáp: -
Khanh không biết hay sao? Hoa trên đầu ta đã héo, tử chứng đã xuất hiện,
mạng sống chẳng còn được là bao, hiện nay ở thế gian không có giáo pháp
của Như Lai, ta không biết qui hướng về đâu nên ta buồn!
Ông Tỳ Thủ Yết
Ma thưa rằng: - Tâu Bệ hạ hiện nay ở thế gian thuộc Châu Diêm Phù có một
ông vua tu theo hạnh Bồ tát, tên là Thi Tỳ, tâm ý bền vững và tinh tiến
lắm, sau này quyết định thành Phật, xin Bệ hạ tới đó quy y, thì lai sinh
sẽ được đầy ý nguyện, đầy vẻ tôn vinh trên cõi nhân, thiên, hoặc xuất
thế gian".
Vua Đế Thích
nói: - Nếu như qủa như lời của khanh nói, thì may cho ta lắm, nhưng phải
thử xem hư thực thế nào. Vậy khanh hóa làm con chim Bồ Câu, ta hóa làm
chim Cắt, khanh bay trước ta bay sau, khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà
vua, và yêu cầu vua cứu, còn ta đến sau ta sẽ đòi trả để ăn thịt, xem
nhà vua giải quyết thế nào.
Tỳ Thủ Yết Ma
nói: - Tâu Bệ hạ! Bồ tát là người từ bi phúc đức, chúng ta nên cúng
dàng, và ủng hộ là phải, chứ không nên làm những sự đau khổ đến Bồ Tát.
Vua Đế Thích
liền đọc bài thơ đáp rằng:
Ngã diệc phi ác
tâm,
Như trân bảo
ưng thí.
Dí thử thí Bồ
tát,
Tri vi chí
thành phủ?
Nghĩa là:
Ta cũng chẳng ác tâm.
Nếu thực vàng
nên thử.
Để thử Bồ tát
xem,
Có thực chí
thành không?
Vua Đế Thích
đọc xong, bắt đầu Tỳ Thủ Yết Ma hóa làm chim Bồ Câu bay trước, Vua Đế
Thích hóa làm chim Cắt bay sau. Khi tới cung thành, chim Bồ Câu bay
thẳng vào lòng nhà Vua tỏ vẻ sợ hãi, rồi kêu Vua cứu. Chim Cắt bay tới
sau, đứng ở trên điện nói:
- Tâu Bệ hạ!
Xin Ngài trả lại cho tôi con chim Bồ Câu ấy?
Đáp: - Trả cho
ngươi để làm chi?
Tâu Bệ hạ! Nó là món ăn của tôi, tôi đương đói trả để tôi ăn.
Đáp: - Ta có
nguyện cứu tế cho muôn loài, nó đã lại đây với ta thì ta không trả đâu.
- Tâu Bệ hạ!
Ngài tự nói cứu tế cho muôn loài, mà cướp món ăn của tôi, thì tôi phải
chết đói, đối với tôi không phải là một trong muôn loài hay sao!
Đáp: - Ngươi
đói thì có thể dùng thứ thịt khác được không?
- Tâu Bệ hạ!
Vâng! Cũng được nhưng phải cho tôi thứ thịt hãy còn tươi, máu hãy còn
nóng, thì tôi dùng.
Nhà Vua thầm
nghĩa: - Nếu thế thì phải giết một con vật khác; nhưng nếu giết một con,
cứu một con cũng vô ích, chi bằng ta cắt thịt của ta thay thế cho nó là
hơn.
Nghĩ xong lấy
dao cắt một miếng thịt đùi ra trao cho chim Cắt và nói rằng:
- Đây! Ngươi
dùng miếng thịt của ta để thay chết cho Bồ Câu.
Chim Cắt ra
cách không hài lòng nói:
- Tâu Bệ hạ!
Ngài đã mang danh là vị Đại Thí chủ, đã dùng con mắt bình đẳng đối với
tất cả, tôi đây tuy là một con chim nhỏ thực, nhưng nếu theo sự công
bình, thì Ngài phải bắt cân để chim một bên thịt một bên; thịt và chim
bằng nhau thì tôi sẽ nhận.
Theo lời chim
nói có lý phải, nên nhà vua sai người bắt cân, để chim một bên để thịt
nhà vua một bên, bắt đầu để một miếng hãy còn nhẹ, lại cắt thêm miếng
nữa, vẫn thấy còn nhẹ, dĩ chí nhà vua cắt hết một vế đùi, nhưng vẫn nhẹ
như thường, sau cắt hết hai vế đùi, cho đến hai cánh tay, hai bạng mỡ,
song vẫn còn nhẹ sau róc hết các thớ thịt ra để lên cũng vẫn còn thấy
nhẹ, chim vẫn nặng hơn, nhà vua liền đứng dậy để bước lên bàn cân, thì
đau quá, khí lực đã hết nên Ngài ngã lăn đùng xuống đất, mê mệt không
biết gì, giờ lâu tỉnh lại, thầm nghĩ rằng:
- Ta từ bao
kiếp đến nay, cũng chỉ vì có thân này, mà làm cho ta khốn khổ, nổi chìm
trong ba cõi, trôi dạt trong sáu thú, cũng do tham thân sống, tiếc thân
sống, nuôi nó bảo thủ nó, gìn giữ nó, yêu quí nó, vì nó mà làm hại biết
bao sinh mạng khác, nhưng trái lại rồi một ngày gần đây nó lại tan
không, hòa đồng với đất, nước, cây cỏ, chưa bao giờ vất nó đi, để hy
sinh mà cứu chúng sinh, vậy ta phải tiến lên để đập tan những bức thành
ngã chấp từ bao kiếp tới nay, để đạt tới pháp thân bất diệt.
Nghĩ xong liền
ngồi dậy cố gắng đứng lên bàn cân nhìn vẻ mặt vẫn vui tươi!
Bấy giờ trời
đất tự nhiên chuyển động sáu lần, thiên cung nghiêng ngả, có rất nhiều
người ở các cõi trời bay xuống xem, họ nhận thấy một ông vua, quên mình
để cứu một con vật, tất cả nhân gian thiên thượng, chưa từng ai làm nổi,
họ đều cảm động rơi lệ chứa chan, và tung các thứ hoa xuống cúng dàng.
Đối với lòng
đại bi cứu sinh một cách dũng mãnh như vậy, vua Đế Thích cũng phải cảm
phục và hiện lại nguyên hình rồi nói rằng:
- Kính thưa
Ngài! Tôi thấy Ngài làm hạnh Bồ tát, nên tôi tới đây để thử Ngài đấy
thôi, chính tôi đây là Đế Thích Vương là chúa cõi trời Đao Lợi. Nhưng
xin hỏi Ngài: Ngài làm những việc mà người đời không làm nổi như vậy, để
cầu làm gì? Làm Đế Thích hay làm Chuyển Luân Thánh Vương?
Nhà vua đáp: -
Thưa Ngài tôi nguyện đem lòng từ bi cứu hộ chúng sinh để cầu thành Phật,
chứ không có ý cầu làm Đế Thích hay Chuyển Luân Thánh Vương mong hưởng
những thú vui trong ba cõi.
Vua Đế Thích
nói: - Nhà vua cắt thịt đau đớn như vậy, thì tâm có phàn nàn gì không?
Đáp: - Thưa
không!
Vua Đế Thích
nói: - Nhà vua nói không, việc đó thì ai biết? Tôi coi thân thể nhà vua
run rẩy như vậy, khí sắc đã gần tuyệt, tự nói không thì lấy gì làm bằng?
Đáp: - Trước
mặt Ngài tôi xin có một cụ thể để chứng tỏ lòng thành của tôi, nói xong
Ngài lập thệ rằng:
- Kính lạy thập
phương Đại Giác tam thế Hùng Sư! Nếu con chí thành cầu đạo! Xin cho con
lại được bình phục như cũ.
Thệ dứt lời,
nhà vua lại được lành mạnh như cũ, những vết thương tiêu tan, da dẻ lại
tươi sáng hơn xưa.
Bấy giờ tất cả
trời người phàm thánh ai nấy đều tắc lưỡi bái phục tâm chí thành của nhà
vua, và coi như một việc chưa từng có, thảy đều kinh sợ vui mừng!
- Kính lạy
Ngài! Vua Thi Tỳ thuở đó chính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh chịu
cực khổ như vậy! Giờ phút này chúng sinh đương bị chìm đắm trong bể sinh
tử luân hồi; phơi thây trong rừng tà kiến, dục vọng! Ngóc đầu lên không
ai vớt, gào kêu không kẻ chỉ đường. Kính xin Ngài từ bi cứu tế thuyết
pháp độ sinh, khiến cho khắp nhân thiên, phàm thánh được mong ân đức
hóa.
Vua Phạm Vương
đứng trước đức Phật tán dương công đức, và tha thiết cầu thỉnh Ngài
thuyết pháp độ sinh một cách thành thực, nên đức Phật hứa lời ông thỉnh.
Đầu tiên Ngài
đến nước Ba La Nại thuyết pháp ở vườn Lộc Uyển độ cho nhóm ông Kiều Trần
Như năm người. Ngôi Tam Bảo từ đấy mới xuất hiện ở thế gian.
--o0o--
|
|