|
KINH TẠNG
- PHẦN HAI
- KINH HIỀN NGU
- H. T.Thích
Trung Quán Dịch
- --o0o--
-
HÀNG PHỤC LỤC SƯ
-
-
Chính tôi
được nghe: Một thời đức Phật ở thành Vương Xá, tại vườn Trúc cùng với
một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ Khưu ở đó.
-
Vua Bình Sa
là người mến mộ Phật giáo, ông theo Phật nghe thuyết pháp đã lâu, và
thực hành tu tiến, nên bấy giờ ông đã chứng được sơ quả, bởi vậy, lòng
tin của ông lại càng kiên cố. Ông thường dâng thuốc thang, áo cà sa,
giường đệm, món ăn quí lên cúng Phật và chư Tăng; ông rất tôn trọng,
những người hay làm điều lành, và khi tới đâu, ông cũng khuyên người
tu theo Phật giáo.
-
Trong nước
ông có bọn Phú La Na Lục Sư, làm giáo chủ ngoại đạo, cũng thời đó,
nhưng ra đời trước Phật ít năm, họ đem tà thuyết để dối bịp dân, những
kẻ cuồng si không biết nhận xét chánh tà theo họ rất đông. Song em nhà
vua cũng theo học bọn chúng, làm một con tin thuần cẩn, trí óc ngâm
chìm dưới nguồn sau của bọn họ. Đem tiền của cung cấp đã lâu ngày, tài
sản bị khuynh vong, gia đình bại hoại, cũng như kẻ bị bùa mê, bánh
mến, không khác.
-
Đức Phật ra
đời như vầng thái dương, xuất hiện luồng quang minh, soi khắp không
gian muôn loài ấm áp, cây cỏ xinh tươi; ánh tuệ sáng đã tung tỏa khắp
muôn phương, biết bao người đắc quả thành công trên đường giải thoát.
Kẻ không biết theo một đạo giáo chân thật, khác gì loài rùa nằm dưới
đầm sâu, cóng rét chịu quanh năm, mà không biết có ánh mặt trời trên
đại địa, cũng như em vua Bình Sa, chịu buộc mình nơi tà giáo ngoại
đạo, không biết nhận xét chánh tà.
-
Vua Bình Sa
thương em mê muội, với tính cố chấp, hết sức thuyết đạo lý của Phật
giáo cho nghe, và giục em mời Phật; phải tôn kính Phật, phải bỏ tà
đạo, người em vẫn không chịu nhận lời và thưa rằng:
-
- Thưa anh!
Muôn triệu người trên vũ trụ bao la, mỗi người một ý nghĩ khác nhau,
không ai giống ai; mỗi người có sự nhận xét riêng, mỗi người có một sở
thích riêng, anh theo giáo lý đạo Phật, anh khen Phật hay, tôi theo
phái Lục Sư dĩ nhiên tôi hợp với lý trí của tôi là phải là đúng, là
cao, tôi mới theo, nhưng anh đã nói tôi sẽ mời thầy tôi và Phật đàm
luận về đạo lý hơn kém sẽ bày tỏ.
-
Nhà vua cười
nói: - Hay lắm! Nay mai chú mời luôn đi, nhưng chú phải cam đoan với
tôi. Nếu Phật hơn thì chú phải bỏ thầy chú theo Phật cùng tôi, nếu
Phật kém tôi sẽ bỏ Phật để theo cùng chú!
-
- Vâng! Dĩ
nhiên.
-
Ngày mai vua
Bình Sa lên bạch Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Muốn cho toàn quốc dân thoát khỏi vòng ác đạo, cùng được
hưởng sự an vui từ đời này cho đến kiếp khác, con nhận thấy ngoài sự
giáo hóa của Ngài ra thì không có đạo giáo nào hơn được, dân con có
bọn Lục Sư, cũng đường một tôn giáo, đem những tà thuyết mị dân, đưa
người vào hố sâu hang hiểm làm mồi cho hùm, beo, lang sói, chết đọa
tam ác đạo. Con có người em cũng theo bọn chúng, hết sức răn bảo mà
không chuyển lòng, con định bảy ngày nữa, mời Thế Tôn ra thí tràng,
sau đó cho tìm bọn Lục Sư tới, để Ngài hóa phục dẹp bỏ đạo tà, hiển
dương chánh đạo, một yếu điểm nhất là muốn cho quần chúng biết sức
thần biến và đạo lý của Ngài để họ tự bỏ rơi bọn Lục Sư, cúi xin từ bi
hoan hỷ cho chúng con được trượng thừa công đức!
-
Đừc Phật mỉm
cười nói:
-
- Việc ấy
cũng nên, làm Nhân Chúa có trách nhiệm mở mang trí óc khôn sáng cho
dân, làm gấp ta vui lòng!
-
Nhà vua hoan
hỷ lễ tạ lui ra, khi về hạ lệnh cho toàn quốc biết rằng:
-
- Quốc dân
nên biết! Trong bảy ngày nữa, đức Thế Tôn và Lụ Sư dẽ đàm luận về đạo
giáo, ai muốn biết, thì đến nơi thí tràng.
-
Em vua Bình
Sa sửa soạn bàn, ghế, tòa ngồi rất trang nghiêm, tới ngày thứ bảy Lục
Sư tới trước tiên, em vua trịnh trọng mời lên ngồi tòa cao đẹp, các
nhà văn hào dân chúng đến đông như kiến cỏ, nhưng không thấy Phật đến,
người em vua hỏi:
-
- Anh giục
tôi mời ông Cù Đàm (Phật) các thầy tôi và dân chúng tới đông sao không
thấy Ông ấy tới?
-
- Chú đã đi
mời Ngài chưa.
-
- Chưa!
-
- Chú sai
người đi mời Ngài hoặc chú đi, hôm trước tôi mời Ngài đã hứa.
-
Đương nói thì
Phật đến, vua Bình Sa ra đón Phật, khi vào tới nơi, những tòa cao đẹp
bọn Lục Sư đã ngồi hết cả, thấy thế nhà vua nóng lòng, nhưng không
biết nói sao, chỉ riêng trách em mình. Đức Phật và chư Tăng phải ngồi
tất cả những hàng ghế dưới.
-
Khi Phật ngồi
yên tĩnh chừng được ba phút, bỗng nhiên thấy Ngài và chư Tăng ngồi
trên ghế cao, bọn Lục Sư ngồi dưới chót, Lục Sư hổ thẹn đứng dậy, em
nhà vua lại vác ghế lên cao mời Lục Sư ngồi, ngồi xong chừng một phút
lại thấy ghế dưới chót, Phật ngồi trên cao, cứ như thế đến ba bốn lần,
nhưng vẫn bị ngồi hàng ghế cuối, tới đây họ biết không có năng lực gì
địch thủ, nên chịu ngồi ngượng ở đó.
-
Khi dâng
nước, họ cứ theo thứ tự, tòa trên dâng trước, tòa dưới dâng sau. Đầu
tiên dâng lên Phật.
-
Phật nói:
-
- Dâng Thầy
của các ngươi trước, dâng ta sau cũng được!
-
Theo lời Phật
phán bảo, họ đưa nước dâng Lục Sư, khi giơ bình rót, tắc không chảy,
sau dâng Phật, rót chảy, Phật rửa tay xúc miệng xong, làm phép chú
nguyện.
-
Xong việc trà
nước bắt đầu dâng cơm, họ dâng Phật trước, Phật nói:
-
- Hôm nay các
ngươi không phải vì ta mà thết bữa cơm nay, ta chỉ là khách, Thầy các
ngươi là mục đích hơn, ngươi hãy dâng Thầy ngươi trước để Thầy ngươi
chú nguyện cho.
-
Theo lời Phật
dạy, bắt buộc họ mời Lục Sư chú nguyện, lúc chưa mời không sao, sau
khi mời họ nhìn thấy Lục Sư hai hàm răng cắn chặt, không thấy nói năng
cầu nguyện gì, chỉ biết giơ tay làm hiệu, xua những người ấy đến chỗ
Phật, Phật làm phép chú nguyện xong.
-
Bắt đầu dâng
món ăn, Phật nói:
-
- Hãy dâng
Thầy các ngươi trước!
-
Họ phải theo
lời Phật dạy, khi dâng lên Lục Sư, các món ăn bay bổng lên hư không lơ
lửng trên đó và không rơi, làm cách nào cũng không thể lấy được, chờ
khi dâng món ăn lên Phật và Tăng Chúng xong, thì các món ăn ấy rơi
xuống trước mặt Lục Sư.
-
Khi dùng cơm
xong, Phật gọi em vua bảo rằng:
-
- Khanh mời
thầy khanh thuyết pháp trước đi.
-
Người em mời
thuyết pháp, Lục Sư im thít không nói năng gì, té ra hi hàm răng cắn
chặt lúc nào không biết, đồng thời bọn chúng giơ tay làm hiệu; ý nói
đến mời Phật thuyết pháp còn ta bị câm họng ráo trọi.
-
Bọn đồ đệ của
Lục Sư biết thầy mình thất thế và kém hẳn đã có ý chán nản phát ra tự
đáy lòng, bấy giờ em vua và dân chúng lại lễ Phật và mời Ngài thuyết
pháp.
-
Trước khi
Phật thuyết pháp quả đất động chuyển sáu lần, hào quang năm sắc chiếu
khắp đại thiên thế giới. Đức Phật như một đấng cha hiền thương đàn con
dại, như một bực đại Giáo Sư đối với kẻ sơ tâm mới học, với đại chúng
Ngài ra những lời hòa nhã dịu dàng, diễn thuyết các pháp, tính, tướng,
phân biệt nghĩa lý sâu huyền, thế gian, và xuất thế gian.
-
Đại chúng
nghe xong có rất nhiều người được giác ngộ, em vua Bình Sa chứng được
Pháp Nhãn Tịnh, ngoài ra còn có người sơ quả cho đến tam quả, còn
những vị xuất gia được lậu tận, có vị phát tâm vô thượng chứng quả bất
thoái. Toàn thể đại chúng dự hội hôm ấy ai ai cũng phân biệt được
chánh tà, họ phát tâm tin kính ngôi Tam Bảo, trở về quy y Phật, thờ
Phật làm Thầy và bỏ rơi bọn Lục Sư, không cúng dàng thừa sự chúng nữa.
-
Tới đây mọi
người đều đứng lên, ca tụng những công đức Ngài đã ban cho và phát
nguyên xin theo làm đệ tử, đảnh lễ lui ra.
-
Lục Sư vừa bị
nhục, vừa mất thể diện căm hờn tụ tập lại một nơi bàn kế để trả thù
đức Phật, họ ra nơi rừng vắng học tập các phép lạ, và nghiên cứu các
kỹ thuật.
-
Lúc ấy Thiên
ma Ba Tuần thấy đồ chúng của mình thua Phật, dân chúng chán ghét, tất
nhiên đạo của họ không truyền bá được, y liền bay xuống hóa làm hình
Lục Sư tới để biểu diễn các phép lạ, và truyền phép cho Lục Sư, xong
lại bay về Thiên Đàng.
-
Lục Sư sau
khi được phép của Ba Tuần truyền thụ vui mừng quá! Tự đắc chí cho là
cao diệu, là tối thắng, chúng tập hợp bàn nhau rằng:
-
- Hôm trước
bọn ta bị nhục, mọi người phải ly tán, giờ đây xem sự thần biến của
Thầy chúng ta truyền thụ, có dư để hàng phục ông Cô Đàm Sa Môn, bây
giờ yêu cầu vua lập một cuộc thi thần thông, để xem hơn thua thế nào,
bàn nhau xong họ lên tâu rằng:
-
- Tâu Bệ Hạ,
chúng tôi sẽ có đủ pháp lực tài năng thần biến, xin Bệ Hạ lập một cuộc
đấu phép với Phật, để cho quốc dân biết tài năng của chúng tôi.
-
Nha vua cười
nói:
-
- Lũ bây thực
là ngu si quá, Phật có đạo đức cao siêu phép thần túc vô ngại, các
ngươi muốn thi với Phật, chẳng khác lửa đom đóm muốn tranh ánh mặt
trời, nước vết chân trâu đem ví với biển cả, hoại Dã Can lại muốn thi
hùng với muôn sư tử, đống đất tổ kiến đem ví với lực cao núi Tu Di,
những hình lớn nhỏ coi thấy rõ ràng, thấp kém lại muốn nghển cao, các
ngươi sao lại ngu lỗ quá như vậy?
-
Lục Sư nói:
-
- Tâu Bệ Hạ!
Ngài chưa biết phép luật của chúng tôi, đó là Ngài thiên vị, tự cho
ông Cô Đàm (Phật) là người tuyệt đối không còn ai hơn, chúng tôi quyết
thử tài một phen hay dở Ngài sẽ rõ!
-
Vua nói:
-
- Tại sao bữa
trước các ngươi không đem tài ra đối phó, nay còn nói khéo nói khôn
làm chi?
-
- Tâu Bệ Hạ!
Hôm đó chúng tôi chưa đủ phép lực, bây giờ có đủ khả năng đối thủ!
-
- Không sao!
Muốn thì ta sẽ lên thưa với Phật, nhưng chỉ sợ các ngươi tự để nhục
cho hậu thế!
-
- Tâu Bệ Hạ!
Chúng tôi xin hẹn bảy ngày nữa, Bệ Hạ hãy cho dân chúng sửa sang nơi
thí tràng bằng phẳng.
-
Sau khi Lục
Sư ra về, nhà vua lên xe đi đến chốn Phật, lễ xong quỳ gối chắp tay
thưa rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư còn rắc rối quá; hôm qua chúng lên xin thi
thần lực với Thế Tôn, con đã lấy lý luận phân trần và la mắng nhưng
bọn chúng còn ra vẻ không chịu. Vậy kính xin Ngài ra sức thần biến để
hóa phục bọn tà ác trở về chánh đạo, nhân đấy con và dân chúng được
coi sự thần thông biến hóa của Ngài.
-
Phật nói:
-
- Hãy biết
thế, ta tự tri thời.
-
Vua Bình Sa
lễ tạ lui ra, về vương cung sắc lệnh cho quân dân sửa sang nơi thí
trường, đặt bàn ghế, kê tòa ngồi cao đẹp cúng Phật, chung quanh kết
hoa, treo phan phướn, các ngả đường kéo biểu ngữ để cổ động cho dân
chúng đến xem.
-
Tới ngày thứ
bảy Đức Phật và các vị đệ tử, từ thành Vướng Xá đi sang nước Tỳ Xá Ly,
nước ấy có bọn ông Luật Xương và nhân dân ra đón rước.
-
Buổi sáng ấy,
dân chúng thành Vương Xá xôn xao, không biết Phật đi đâu, hỏi thăm mãi
mới biết Ngài đi sang nước Tỳ Xa Ly.
-
Lục Sư hay
tin Phật đi, không ở lại đấu phép đắc chí nói:
-
Ông Cô Đàm
(Phật) trí tuệ và thần biến kém, biết sức không địch nổi nên tìm đường
tẩu thoát, thế mà mọi người còn do dự không tin.
-
Tâm ngã mạn
của Lục Sư lên cao quá, tự tuyên bố rằng:
-
- Chúng tôi
sẽ đuổi cho tới cùng.
-
Được tin Phật
sang nước Tỳ Xá Ly, vua Bình Sa lập tức sai sửa soạn lương thực năm
trăm con ngựa, năm trăm xe, tổng số quan quân mười bốn ức người, sang
nước Tỳ Xá Ly, Lục Sư cũng theo vua sang, chúng thưa với Luật Xương
rằng:
-
- Thưa Ngài!
Chúng tôi tới đây muốn để thi thần thông, và đàm luận về thực tính với
ông Cô Đàm, xin Ngài cho ông ấy rõ, và hẹn bảy ngày nữa sẽ bắt đầu!
-
- Vâng! Quí
Ngài muốn thế, tôi sẽ thưa với Phật giùm.
-
Luật Xương
tới lễ Phật thưa rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư si mê quá! Tự nói có đạo lực nên xin lên thi
thần biến. Vậy kính xin Thế Tôn hàng phục bọn gian ác ấy!
-
Phật nói: Hãy
biết thế, ta tự tri thời!
-
Luật Xương lễ
tạ lui ra, về sửa soạn nơi thí tràng, lương thực các đồ cúng dàng
trọng hậu, dân chúng nôn nao, chờ ngày để xem cuộc đấu thần thông.
-
Sáng ngày hôm
sau, Phật và Tăng chúng đi sang nước Châu Diệm Di, vua Ưu Điền đem
quan quân ra đón tiếp. Cũng buổi sáng ấy nhân dân nước Tỳ Xá Ly xôn
xao hỏi nhau rằng:
-
- Sáng nay
Đức Phật đi đâu?
-
Có người nói:
-
- Đức Phật và
chúng Tăng sang nước Câu Diệm Di buổi sáng sớm.
-
Lục Sư thấy
thế, tâm ngã mạn lại càng lên cao, và đắc chí lắm, bảo nhau phải theo
đuổi cho bằng cùng.
-
Được tin Phật
đi khỏi ông Luật Xương đem năm trăm cỗ xe chở lương lực và bảy ức
người cùng với vua Bình Sa sang nước Câu Diệm Di.
-
Lục Sư vào
yết kiến vua Ưu Điền rồi thưa rằng:
-
- Tâu Hoàng
Đế! Sa Môn Cồ Đàm, tự biết lực không địch nổi, nên thầy trò phải trốn
sang đây, xin Hoàng đế cho chúng tôi thi thần thông với ông ấy!
-
- Vâng! Quí
Ngài muốn thế tôi sẽ thưa với Phật giùm!
-
Ngày mai vua
Ưu Điền lên bạch Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn, Lục Sư ngày qua lên yêu cầu để thi thần thông, kính lạy
Ngài có nhận lời ấy không!
-
Phật nói:
-
- Hãy biết
thế, ta tự tri thời!
-
Vua Ưu Điền
lễ tạ ra về, sửa soạn nơi thí tràng chờ Phật định ngày đối thí. Sáng
hôm sau Phật và Tăng chúng đi sang nước Việt Kỳ, vua Chuân Chân Đà La
cùng với nhân dân ra nghinh tiếp đức Thế Tôn.
-
Hôm sau người
nước Câu Diệm Di không thấy Phật, xôn xao hỏi nhau thì có người nói:
-
- Phật và chư
Tăng sang nước Việt Kỳ sáng qua.
-
Hay tin Phật
đi khỏi, Lục Sư và vua Ưu Điền, vua Bình Sa và quan quân dân chúng,
cũng đi sang nước Việt Kỳ. Lục Sư vào yết kiến Chuân Chân Đà La và
trình bày ý kiến của mình, sau yêu cầu vua làm thế nào được đấu phép
với ông Cô Đàm.
-
Đáp:
-
- Vâng, quí
Ngài muốn đấu tôi sẽ thưa với Phật."
-
Vua Chuân
Chân Đà La lễ lên Phật xong, rồi quỳ thưa những ý định của Lục Sư.
-
Phật nói:
-
- Hãy biết
thế, ta tự tri thời!
-
Nhà vua lễ tạ
lui ra, về cung sắc lệnh cho quân sửa soạn và trưng bày nơi thí tràng,
sắp tới ngày thi Phật và chư Tăng lại sang nước Đặc Xoa Thi Lợi, vua
Nhân Đà Bà Di cùng với quan quân ra đón rước.
-
Hay tin Phật
đi khỏi, vua Chuân Chân Đà La với năm ức người, cùng với Lục Sư vua
Bình Sa và tất cả đều theo Phật sang nước Đặc Xoa Thi Lợi.
-
Lục Sư vào
yết kiến vua Nhân Đà Bà Di và khoe khoang những lời cao đại rồi nhờ
vua giới thiệu để thi thần thông với Phật. Nhà Vua nhận lời, lên bạch
Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn, hôm qua Vua các nước và quan quân đến đây đông lắm về
việc thi thần thông với Lục Sư, cúi xin Ngài Từ Bi ra phép thần hàng
phục kẻ tà đạo, để cho tất cả chúng sanh trong Châu Diêm Phù Đề theo
về chánh giáo.
-
Phật nói:
-
- Hãy biết
thế, ta tự tri thời!
-
Ngày thi gần
tới, đức Phật lại sang nước Ba La Nại, vua Phạm Ma Đạt hay tin Phật
tới, đem quan quân ra biên giới đón Phật về thành.
-
Buổi sớm mai
dân chúng nước Đặc Xoa Thi Lợi, mang các món ăn ra đường đón Phật và
Chư Tăng không thấy, hay tin Phật sang nước Ba La Nại, khi đó vua Nhân
Đà Bà Di, vua Bình Sa, Lục Sư và tất cả các ông vua đều theo Phật sang
nước Ba La Nại.
-
Lục Sư vào
yết kiến vua Phạm Ma Đạt và trình bày ý kiến của mình, lại yêu cầu vua
làm cách nào được thi thần thông vời Phật, nhà vua nhận lời.
-
Sáng hôm sau
vua Phạm Ma Đạt lên bạch Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn, Lục Sư hôm qua lên xin thi thần thông với Ngài, cúi lạy
Ngài ra phép thần biến tiêu diệt bọn ác quỉ hại dân vô ích.
-
Phật nói:
-
- Hãy biết
thế, ta tự tri thời!
-
Đêm ấy và
Tăng chúng đi sang Ca Tỳ La Vệ.
-
Hay tin Phật
tới, ông Thích Chủng Bối và đại chúng ra đón Phật về Kinh.
-
Sớm ngày mai,
dân chúng nước Ba La Nại mới biết đức Phật đi du hóa nơi khác.
-
Hay tin Phật
đi khỏi, vua Phạm Ma Đạt, vua Bình Sa, Lục Sư và tất cả quan quân các
nước, đi theo Phật, sang nước Ca Tỳ La Vệ.
-
Lục Sư vào
yết kiến ông Thích Chủng Bối và trình rằng: Đến đây mục đích để thi
thần thông với Phật, nhà vua nhận lời, và hứa sẽ thưa với Phật giừm.
-
Ngày mai ông
lên lễ Phật xong bạch rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn, Lục Sư cố tình theo Ngài đòi thi thần thông, cúi xin từ
bi hoan hỷ dẹp bỏ lũ ngoan cố mị dân, cho toàn cõi theo về một mối!
-
Phật nói:
-
- Hãy biết
thế, ta tự tri thời!
-
Ông Thích
Chủng Bối sắc lệnh sửa sang nơi thí tràng, và ấn định ngày thi, xong
sắp tới ngày thi, đức Phật và Tăng chúng sang nước Xá Vệ, vua Ba Tư
Nặc nghe tin Phật tới đem quan quân ra biên giới đón.
-
Ngày mai ông
Thích Chủng Bối mới hay tin Phật đi khỏi. Ông Thích Chủng Bối đem chín
ức người, vua Bình Xa, Lục Sư và Vua quan dân chúng các nước, đồng
thời kéo sang nước Xá Vệ.
-
Lục Sư vào
tâu vua Ba Tư Nặc rằng:
-
- Tâu Bệ Hạ!
Chúng tôi muốn thi thần thông với ông Sa Môn Cù Đàm đã qua bao nhiêu
nước, sắp kỳ thi ông tự biết không có lực địch nổi nên cùng đại chúng
lẩn trốn sang đây, mong Bệ Hạ cho chúng tôi được thi thần thông với
ông ấy!
-
Vua Ba Tư Nặc
mỉm cười nói:
-
- Đức Phật có
phép thần túc vô ngại, khi mới thành đạo, Thiên Ma Ba Tuần, thiên biến
vạn hóa còn phải phục đầu xưng tội, quy y làm đệ tử, lũ ngươi đã ra
gì, kẻ hèn mạt, thấp hèn, sao có thể đối với ngôi Đại Pháp Vương được.
-
Lục Sư nghe
nói, nổi giận khí sắc biến đổi, tỏ vẻ bực tức vô cùng nói:
-
Chẳng qua
Ngài quá ư thiên lệch nói thế, Ngài đã biết thần biến của chúng tôi
chưa?
-
Nói xong ra
về, tỏ vẻ bất mãn trước nhà vua.
-
Ngày mai vua
Ba Tư Nặc đến chốn Phật đầu mặt lễ sát đất quỳ thẳng chắp tay bạch
Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Bọn Lục Sư ân cần xin thi thần thông, cúi xin ngài ra sức
thần, tiêu diệt bọn con buôn không vốn, bịp bợm một cách giả đạo đức,
nếu để chúng thì dân tộc trên thế giới này bị đau khổ về vật chất lẫn
tinh thần, vì chúng đủ mưu mô mánh khóe lừa gạt lòng người. Xong những
người trí thức mới hiểu biết tâm thâm đọc của bọn chúng.
-
Phật nói:
-
- Hãy biết
thế, ta tự tri thời!
-
Lần này vua
Ba Tư Nặc quyết định mời Phật để đấu thần thông, ông sắc lệnh cho quan
quân sửa sang nơi thí tràng bằng phẳng, bàn ghế tòa ngồi trang nghiêm,
treo cờ phan phướn, lọng, kéo biểu ngữ, kết hoa treo đèn, mua rất
nhiều hương hoa trình bày rất đẹp đẽ, ông lên điện nơi đức Thế Tôn
ngự, ân cần tha thiết cầu thỉnh. Phật thấy ông nhiệt tâm thành khẩn,
nên Ngài nhận lời. Giữa ngày mồng một tháng mười hai Phật ra thí
tràng, Lục Sư với vua các nước, dân chúng đều đến đông đảo.
-
Ngày ấy vua
Ba Tư Nặc sửa soạn các món ăn ngon lành, buổi tinh sương dâng Phật một
cành dương. Phật dùng nạo răng, nạo xong Ngài vẩy bựa xuống đất, tự
nhiên sinh ra những cây cối xanh om, um tùm râm mát, cao đến năm trăm
do tuần, cành lá rườm rà, sinh ra những bông hoa to như vòng bánh xe,
kết thành những quả to, bằng cái bình đựng năm đấu lớn, cành cây gốc
rễ hoa quả thuần bằng thất bảo, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san
hô, hổ phách v.v…, màu sắc tươi đẹp, phát sinh ra những ánh sáng lấn
mặt trời, mặt trăng, người được nếm mùi vị quả ấy, thấy sung sướng
ngon lành một cách siêu nhiên, nghĩa là trên thế gian chưa từng có,
hương thơm tung tỏa, khắp không gian, qua mũi ai, họ thấy tính tình
vui vẻ, gió hương ấy thổi tới đâu, làm cho muôn vật hớn hở xinh tươi,
các cành lá đều phát ra những tiếng thuyết pháp, trong đại hội im phắc
không một tiếng động để đón nghe những âm thanh dịu dàng hòa nhã, nghe
vui không chán! Càng nghe càng cảm mến đạo mầu vô thượng, tất cả mọi
người trong đại hội thấy sự biến hóa của cây này, tâm sinh tin kính
ngôi Tam Bảo càng thêm khắng khít. Sau Phật giải đáp những nghĩa lý
sâu huyền cho hợp với lý trí mọi người nên tất cả đều được hiểu ngộ,
khi đó những người nhiệt tâm cầu Phật Pháp kết quả được sinh thiên,
một số rất đông.
-
Ngày thứ hai,
vua Ưu Điền thỉnh Phật cúng trai. Hôm ấy đức Phật hóa ra hai quả núi
báu đứng hai bên, núi này toàn bằng vàng bạc trân bảo hợp lại thành
năm sắc huy hoàng, coi rất đẹp đẽ, trên núi có những cây mọc thành
từng hàng, hoa quả tốt tươi, trong núi phát ra những mùi thơm ngào
ngạt, một trái núi trên đỉnh sinh ra thứ lúa tám cánh, lúa này là một
thứ lúa quý nhất trong các lúa, nếu đem nấu cơm thì mềm dẻo hương vị
thơm ngon; một trái, ở trên đỉnh có thứ cỏ mềm nhũn thơm tho, béo bổ,
những loài súc sinh tới ăn, ăn rồi khí lực sung túc có ánh sánh, phát
sinh trí tuệ, tâm tình hòa vui.
-
Tất cả mọi
người thấy phát hiện hai trái núi lạ thường, và họ được ăn quả thấy an
vui, thân thể cường tráng hết bệnh tật hết sầu não, nên họ một lòng
tín ngưỡng ngôi Tam Bảo, đức Phật tùy theo căn cơ để diễn thuyết nghĩa
lý cao diệu nhân quả luân hồi cho hợp với trình độ của họ, ai nấy trí
óc khai sáng thấu rõ đạo mầu, phát tâm cầu đạo Bồ đề, kết quả sinh
thiên một số rất đông.
-
Đến ngày thứ
ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh Phật cúng dàng, buổi sáng sớm ông dâng
Phật chén tịnh thủy, Ngài súc miệng rồi nhổ xuống đất, chốn đó tự
nhiên thành một cái ao mỗi bề dài hai mươi dặm, quanh bờ ao thuần bằng
ngọc thất bảo trộn lẫn nhau, các sắc phát ra chiếu sáng tưng bừng,
nước đủ tám công đức, dưới lòng ao thuần cát thất bảo, trong ao có tám
thứ hoa sen lớn như vành bánh xe, xanh, đỏ, trắng, hồng, tía, biếc đủ
các sắc, lan tràn bốn mặt, ánh sáng của hoa tùy theo các sắc phát
sinh, làm sáng choang trời đất.
-
Thấy thế tất
cả đại chúng đều vui mừng và ca ngợi Phật có đức vô lượng vô biên.
-
Phật quan sát
tâm niệm của từng cá nhân xong, Ngài tùy theo lý tưởng của mỗi người,
để thuyết pháp, sau cuộc thuyết pháp này được rất nhiều người phát tâm
cao thượng tăng phần phúc nghiệp, sinh thiên rất đông.
-
Đến ngày thứ
tư, vua Nhân Đà Bà Di thỉnh Phật cúng dàng, ngày hôm ấy đức Phật làm
cho nơi bảo địa đó, bốn mặt tự nhiên có tám dòng nước, sức chảy mạnh
và xoáy kêu thành tiếng, phát ra những âm thanh mầu nhiệm thuần nói
các pháp: "Ngũ Căn" "Ngũ Lực" "Lục Độ" "Thất Giác" "Bát Đạo" "Tam
Minh" "Lục Thông" "Tứ Đẳng" "Đại Từ, Đại Bi", mọi người nghe rồi đều
được giác ngộ và quán triệt đạo lý, tăng phần phúc tuệ, kết quả sinh
Thiên rất đông.
-
Ngày thứ năm,
vua Phạm Ma Đạt thỉnh Phật cúng dàng, hôm ấy nơi miệng đức Phật phóng
ra hào quang sắc vàng bao trùm khắp cõi đại thiên; hào quang ấy soi
phải chúng sinh nào, thì "ba độc", "năm ấm" của chúng sinh ấy tiêu
tan, thần tâm an lạc, cũng như các vị Tỷ Khưu nhập đệ tam thiền. Khi
đó mọi người đều vui vẻ tán thán kính mến đức Phật rất tha thiết. Sau
khi nghe thuyết pháp xong ai nấy đều khai tỏ lý trí, phát đạo tâm,
tiến tu phúc tuệ, một số khá nhiều.
-
Đến ngày thứ
sáu, ông Luật Xương thỉnh Phật, hôm đó đức Phật làm cho tất cả mọi
người trong đại hội tâm hiểu biết lẫn nhau, mỗi người đều có thể hiểu
ý nghĩ của từng người, họ đang nghĩ thiện hay nghĩ ác, chí hướng hay
hành nghiệp thế nào. Thấy thế ai cũng kính sợ Phật! Những sự mến mộ và
vui mừng lại càng nồng nhiệt. Sau khi được nghe lời giảng của đức
Phật, ai nấy sung sướng tâm trí mở mang, kết quả sinh Thiên cũng
nhiều.
-
Ngày thứ bảy,
ông Thích Chủng Bối thỉnh Phật. Hôm đó Phật dùng sức thần tức vô ngại,
khiến cho mọi người trong hội tự thấy mình làm vua Chuyển Luân, có đủ
cung điện, quan quân, ngọc nữ, thất bảo, lại thêm một ngàn người con,
vua các quan văn võ đều đến triều phục nơi mình. Thấy thế ai cũng kinh
hoảng ngơ ngác, không biết tại sao? Sau đó tự thấy như một giấc chiêm
bao, ai cũng chứng tỏ do sức thần của Đức Phật hóa hiện, nên lại càng
tăng phần tín hướng và phát tâm vô thượng Bồ Đề, kết quả sinh Thiên
rất đông.
-
Đến ngày thứ
tám, vua Đế Thích thỉnh Phật, ngày đó vua Đế Thích bày tòa sư tử trang
trí nơi Phật ngự, thuần bằng bảo vật trên thiên cung hương trời, nhạc
trời, các món ngon quý dâng Phật, một bầu không khí khác hẳn với trần
gian.
-
Đức Phật và
Tăng Chúng bước ra, theo sau có vua Đế Thích, vua Phạm Vương, các ông
Thiên Tử, tiếp đến quan quân, dân chúng. Tới nơi Phật thăng tòa ngồi
yên tĩnh, vua Đế Thích đứng hầu bên tả, vua Phạm Vương đứng hầu bên
hữu tất cả đại chúng yên lặng, chờ đón đức Thế Tôn thuyết pháp và hiện
thần biến cho xem, muôn ngàn triệu con mắt đều chiếu hướng đức Thế
Tôn.
-
Đức Phật dung
nhan như vầng nhật nguyệt, hào quang sáng chói tựa núi vàng, miệng
tươi như hoa nở, cất lời nói âm thanh vang xa khắp thế giới đại thiên,
muôn loại chúng sinh đều hiểu thấu.
-
Khi đó Ngài
cất cánh tay vàng, vịn xuống tòa ngồi, tự nhiên có tiếng gầm lớn, vang
động như sét đánh, mọi người đều giật mình run sợ! Ở dưới tòa sư tử
của Ngài nhảy ra năm vị Đại Thần Quỷ nhìn như mặt sắt da đồng gầm
tiếng như muôn sư tử thét, chạy xông lại kéo bọn Lục Sư xuống đất đạp
tòa ngồi gẫy tan nát, tiếp đến Kim Cương mật Tích, tay cầm chày Kim
Cương, trên đầu đầy lửa bốc lên vùn vụt, xông lại đánh bổ vào đầu Lục
Sư.
-
Lục Sư hoảng
hồn chạy tán loạn, vừa thẹn vừa nhục, bị thần Kim Cương đuổi, cùng
đường, nên chúng đâm đầu xuống sông chết cả. Còn chín ức đồ chúng trở
lại theo Phật cầu xin làm đệ tử. Thể theo lòng từ bi, Phật cũng dung
thứ và thâu nhận.
-
Phật nói:
-
- Thiện Lai
Tỷ Khưu.
-
Nói xong,
những người ấy rụng hết tóc, áo trên mình biến thành áo Cà Sa, biến
thành các vị Sa Môn theo Phật tu hành, không bao lâu hết lậu nghiệp
thành La Hán.
-
Ngày thứ
chín, vua Phạm Thiên thỉnh Phật. Ngài hóa thân cao lớn tới cõi trời
Phạm Thiên uy nghiêm hiển hách phóng hào quang sáng lớn, tưng bừng
khắp cõi Đại Thiên thế giới, khi đó đại chúng ai ai cũng nghe thấy
tiếng nói:
-
Phật vì tất
cả chúng sinh, diễn thuyết pháp yếu, khiến cho đại đa số người phát
tâm cầu Phật, kết quả sinh Thiên nhiều không kể xiết.
-
Ngày thứ
mười, Tứ Thiên Vương thỉnh Phật. Lúc ấy đức Phật dùng phép Tam Muội vô
ngại, khiến cho mọi người thân ấy đều phóng quang minh, và đương
thuyết pháp cho đại chúng nghe.
-
Trong đại hội
hiển nhiên tai nghe, mắt thấy những thần thông biến hóa vô ngại của
đức Thế Tôn, ai nấy đều tha thiết tôn kính Ngài như đấng Cha Lành. Sau
được nghe Ngài giải thích sự diệu dụng của tâm Chân Như vô ngại thể
tánh bất diệt vô sinh của mỗi chúng sinh đều có, nên nhiều người giác
ngộ dự vào hàng "Bất Thoái" còn những người đắc quả sinh Thiên rất
đông.
-
Ngày thứ mười
một, ông Tu Đạt thỉnh Phật. Hôm đó đức Phật đương ngồi trên tòa cao tự
ẩn hình đi phóng quang minh sáng lòa trời đất, phát ra những tiếng dịu
dàng, diễn thuyết phân minh các pháp yếu. Đại chúng nhiều người thấu
tỏ đạo mầu, phát tâm vô thượng chứng ngôi A Duy Việt Chí, đắc quả sinh
Thiên khá đông.
-
Ngày thứ mười
hai, ông Cư Sĩ Chất Đà La thỉnh Phật cúng dàng. Ngày đó Phật nhập phép
từ bi tam muội phóng quang minh sắc vàng, so khắp cõi đại thiên, hào
quang ấy soi vào chúng sinh nào, thì chúng sinh ấy hết tâm "Tam độc"
nảy tâm Từ bi, lại có con mắt "Bình đẳng"coi chúng sinh như cha như
mẹ, như anh, như em, lòng yêu không thêm bớt, sau khi thuyết pháp
nhiều người lên ngôi "Bất Thoái" và đắc quả sinh Thiên khá nhiều.
-
Ngày thứ mười
ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh Phật. Khi Phật thăng tòa ngồi yên tĩnh,
nơi rốn Ngài phóng ra hai tia hào quang tỏa ra hai bên, cách thân bảy
"nhận" (tức 56 thước) trên đầu hào quang đều có hoa sen, trên hoa có
đức Phật hóa hiện, hình tướng cũng như đức Phật Thích Ca, các đức Phật
ấy nơi rốn cũng phóng hào quang tẻ ra hai bên cách bảy nhật, trên
những tia hào quang đều có hoa sen, trên hoa sen có đức Phật hóa hiện,
cứ như thế chuyển biến lan tràn khắp cõi đại thiên, ai coi thấy cũng
ngạc nhiên, vừa sợ vừa mừng, trộn lẫn!
-
Lúc ấy đức
Phật theo trình độ của từng người mà thuyết pháp nên nhiều người đắc
quả sinh Thiên không kể xiết.
-
Ngày thứ mười
bốn, vua Ưu Điền thỉnh Phật. Hôm đó ông ra sắc lệnh cho các hàng hương
hoa phải đem các thứ hương tốt, hoa tươi, quý đẹp vào dâng.
-
Buổi sáng sớm
Hoàng Đế Ưu Điền, Hoàng hậu hoàng phi thể nữ quan quân, âm nhạc ra thí
tràng, nhìn thấy Phật ngồi tòa sư tử nghiễm nhiên như quả núi, hai mắt
chiếu tinh quang, trông rất tôn nghiêm, ông và toàn thể gia đình cúi
đầu lễ Phật rồi dâng hoa lên cúng dàng.
-
Phật nhiếp
phép thần túc biến những hoa ấy thành một ngàn hai trăm năm mươi bảy
cỗ xe quý đẹp cao tới cõi trời Phạm thiên sáng như mặt trăng đêm rằm
các bảo vật có ánh sáng phản chiếu nhau tưng bừng rực rỡ, như thần
châu, tràng anh lạc, trang nghiêm nơi xe ấy, vô cùng tráng lệ.
-
Trong các xe
đều có các đức Phật ngồi, phóng quang minh bao phủ ba ngàn cõi.
-
Đại chúng coi
thấy sức thần biến như thế, trong tâm vừa kính mến, vừa vui mừng pha
trộn lẫn nhau.
-
Đức Phật
thuyết pháp cũng như ông thầy thuốc tùy theo bệnh cho thuốc. Vì thế
sau cuộc thuyết pháp, có rất nhiều người phát tâm hướng đạo, cũng có
người được ngôi "Bất Thoái" kết quả sinh Thiên cũng nhiều.
-
Ngày thứ mười
lăm, vua Bình Sa thỉnh Phật cúng dàng. Hôm đó Phật phán cho ông sửa
soạn các món ăn. Theo lời Phật dạy nhà vua sai người bày rất nhiều
chén bát và các đồ để chứa món ăn trên bàn, khi bày xong tự nhiên các
chén bát đầy các món ăn ngon quý trên thiên cung, mùi cơm thơm ngào
ngạt. Tất cả những người trong đại hội ăn cơm xong thân tâm dũng mãnh
an vui.
-
Sau bữa ăn,
đức Thế Tôn chỉ ngón tay xuống đất, ai ai cũng được nhìn thấy mười tám
Địa Ngục, và thầy rất nhiều tội nhân, những tội nhân ấy, tự nói những
tội ác của mình đã tạo đời trước, nên nay họ phải chịu tội khổ.
-
Thấy thế ai
cũng thương hại và sợ hãi cho mình, nên thân thể đều run rẩy không
yên!
-
Để cho mọi
người chứng tỏ của sự ác báo, có cụ thể, rồi Ngài phân tách những tội
lỗi đó cũng do từ nơi thân miệng ý gây nên, và Ngài vạch vẽ những lối
thoát khổ, nên nhiều người phát tâm đại đạo, kết quả sinh Thiên rất
nhiều.
-
Những tội
nhân được thấy Phật và nghe thuyết pháp, họ tự phát sinh lòng tôn kính
quay đầu về nơi Phật, thì những tội nhân ấy được sinh Thiên hoặc sinh
làm người tất cả.
-
Tới đây vua
Bình Sa đến trước đức Thế Tôn, năm thể gieo xuống đất, lễ xuống ba
lần, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn, Ngài có ba mươi hai tướng tốt đẹp, chúng con chỉ được coi
thấy tướng ở thân Ngài, hoặc ở tay Ngài, nhưng chưa từng bao giờ được
nhìn thấy luân tướng ở gan bàn chân, vậy kính xin cho con và đại chúng
ở đây được chiêm ngưỡng.
-
Theo lời cầu
thỉnh của nhà vua, nên Phật ngửa hai bàn chân lên. Đại chúng nhìn thấy
trang nghiêm nước da sáng suốt, những đường chỉ thẳng thắn phân minh,
rành rẽ, càng xem càng mến! Nhà vua mừng bạch rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Chẳng hay đời quá khứ Ngài làm phước gì, được tướng đẹp
này, cúi xin chỉ giáo?
-
Phật dạy: -
Đại Vương nên biết, đời quá khứ ta tu thập thiện và đem thập thiện dạy
cho người ta cùng tu, cho nên được luân tướng như thế!
-
- Kính lạy
Ngài! Khi tu và dạy người nghe hãy như thế nào, cúi xin chỉ giáo cho
chúng con được biết.
-
Phật dạy:
-
- Đại Vương
muốn nghe hãy chú ý nghe kỹ: Cách đây vô số kiếp A Tăng Kỳ, cũng Châu
Diêm Phù Đề này có một ông vua nước lớn tên là Đà La Ni Di, thống trị
tám mươi tư ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ lạc, một vạn quan Đại thần,
hai vạn bà Phu nhân, nhưng không ai có con. Nhà vua lo tuyệt tự không
người kế vị, nên thường hay cầu đạo ở miền Thiên Vương, được ít lâu bà
Tu Lê Bà La là đệ nhất Phu nhân có thai, lòng nhân từ bác ái lại hay
khuyên người làm lành. Mãn tháng khai hoa, sinh được Thái Tử tướng mạo
khôi ngô tuấn tú, một vẻ trượng phu đầu phúc đức, những lỗ chân lông
đều có ánh sáng.
-
Khi bà sanh
được Thái Tử nhà vua vui vẻ khôn cùng! Triệu các thầy tướng đến coi.
Các thầy tướng đều khen ngợi và nói:
-
- Tâu Bệ Hạ!
Hoàng tử có đầy đủ phước đức oai nghi, sau này có thể trị an bốn bể,
thiên hạ phải tùng phục, muôn phương kính nể.
-
Nghe tướng Sư
nói, nhà vua rất hài lòng và nhờ đặt tên cho Thái tử.
-
Tướng Sư nói:
- Tâu Bệ Hạ, trong khi hoài thai có điềm tướng gì lạ không?
-
Đáp:
-
- Khi đó
Hoàng hậu có trí tuệ thông sáng và nhân từ, lại hay khuyên người tu
thiện, còn các điềm lành cũng rất nhiều, nhưng có hai điềm ấy lạ hơn.
-
Tướng sư nói:
-
- Tâu Bệ Hạ!
Cứ theo Hoàng hậu có trí tuệ, và Hoàng tử có ánh sáng nơi thân thể thì
xin đặt Na Bà La Mãn (Tàu dịch: "Tuệ Quang")
-
Quả nhiên
Thái tử lớn lên có trí tuệ siêu nhân, tất cả các môn học thuyết đều
thông hiểu, các danh nhân hiền triết trên thế giới đều bái phục, lực
thông minh của Thái tử. Năm ấy Thái tử chưa đến tuổi trưởng thành, thì
vua cha băng hà (chết).
-
Trong triều
các quan và nội cung hoàng tộc làm lễ an táng vua xong. Giữa lúc ấy có
đông đủ tám vạn bốn ngàn vua nước nhỏ và triều thần văn võ bản quốc
hội họp, bầu Thái tử lên kế vị đại Quốc vương. Thái tử nói:
-
- Kính thưa
các Quốc vương quý quốc và văn võ bá quan, bản triều tôi thực không có
năng lực đảm đương đại sự, xin suy tôn các vị có tài đức trị dân!
-
Các quan đều
thưa:
-
- Thưa Thái
tử, đại vương đã qua đời, chỉ sinh được mình Thái tử anh em không có
một ai, nếu Thái tử không chịu ra chấp chính bây giờ nhường ai? Ai là
người đương nổi?
-
Thái tử đáp:
-
- Tôi nhận
thấy trên đời lắm kẻ tàn ác, nếu ra lệnh hành phạt họ, thì tội ấy
không phải nhỏ, nếu các Ngài trị dân chúng dùng chánh pháp và bắt dân
tu theo pháp thập thiện thì tôi sẽ nhận chức bảo lãnh việc nước!
-
Các quan nói:
-
- Thưa Thái
Tử! Xin Thái tử thăng điện nhậm chức!
-
Theo lời nói,
Thái tử thăng điện nhậm chức.
-
Sau ngày Thái
Tử lên làm vua, sửa sang việc nước rất có chánh thể ích quốc lợi dân,
bãi bỏ hủ tục mê tín cờ bạc, mãi dâm, hút xách, rượu chè, và bắt dân
phải thực hành tu theo thập thiện. Thái tử có đức lớn, lòng từ bi cứu
thế cảm động trời đất nên muôn dân vui vẻ tuân theo tu thập thiện, cải
tà quy chính, đổi ác làm lành.
-
Khi đó Ma
Vương thấy nhà vua bắt dân tu thiện, lòng đố kỵ nổi giận dùng mưu phá
chánh sách tu thiện của muôn dân, chúng muốn cho dân làm nô lệ chết sa
vào tam ác đạo, thực là đại ác nham hiểm vô cùng. Chúng mật làm một
phong thơ báo cáo cho vua các nước để phá hoại sự giáo hóa tu thập
thiện của nhà vua. Thư nói:
-
"Trước đây
tôi có sắc lệnh cho nhân dân tu theo pháp thập thiện nhưng xét ra
không được lợi ích gì! Chỉ luống công đau khổ thôi! Thực là một việc
không có kết quả cho nhân sinh. Vậy từ nay trở đi cho muôn dân làm
mười điều ác, các ông không được cử phạt"
-
Vua các nước
tiếp được lá thơ ấy, lấy làm kỳ dị quá nói:
-
- Tờ chiếu
chỉ của đại quốc vương không biết tại duyên gì bắt dân bỏ điều lành
làm điều ác.
-
Sau các ông
vua đều cho sứ thần đến hỏi nguyên ủy của bức thơ.
-
Khi nhà vua
nghe thấy nói có tờ chiếu chỉ do chính mình hạ lệnh bắt dân bỏ thiện
làm ác, ngạc nhiên nói:
-
- Ta tuyệt
nhiên không có sắc lệnh như thế, tại sao có tờ chiếu chỉ này.
-
Lập tức nhà
vua và các quan đại thần bản triều lên xe đi các nước, quả nhiên đã
thấy nhân dân làm ác, đổi lệnh cũ, theo lệnh mới.
-
Ma Vương thấy
nhà vua đi trên đường lớn tự hóa làm người, đứng giữa đống lửa cháy ở
bên lề, kêu khóc thảm thiết, nhà vua đến tận nơi hỏi:
-
- Tại sao
ngươi khóc?
-
- Tâu Bệ Hạ!
Tôi lúc tiền sinh hay khuyên người tu thập thiện nên ngày nay bị quả
báo thống khổ như vậy!
-
Nhà vua nói:
-
- Sao lại có
chuyện người tu thiện, mình phải chịu đau khổ?
-
Nhà vua hỏi
tiếp:
-
- Thế! Anh
khuyên người tu thập thiện; mà anh phải đau khổ, thì những người được
anh khuyên tu kia có được phước lành gì không?
-
Đáp:
-
- Tâu Bệ Hạ,
những người đó được phước nhiều lắm! Chỉ vì dạy người tu thập thiện
nên riêng mình phải chịu quả báo đau khổ, lửa đốt suốt ngày đêm như
vầy.
-
Đây là Ma
Vương muốn làm thoái tâm khuyến tu thập thiện của nhà vua, trái lại
nhà vua nghe xong rất vui vẻ đáp rằng:
-
Vâng! Phải
lắm tốt lắm! Cốt sao cho chúng sinh hết đau khổ tội lỗi, được phước
báu nhiều, còn mình chịu khổ có hận chi!
-
Ma Vương thấy
nhà vua không thoái tâm, liền ẩn hình biến mất rồi đi khắp các nước để
tuyên truyền cho dân tu thập thiện. Từ đó nhân dân đều tu theo pháp
thập thiện giữ gìn thân, khẩu, ý, ba nghiệp hoàn toàn, chánh pháp lan
tràn khắp thiên hạ, tất cả nhân dân tòng phúc, nên đức của nhà vua mỗi
ngày một lớn, vì phúc lành ấy xe kim luân và thất bảo tự nhiên hiển
xuất, nhà vua bay đi giáo hóa khắp thiên hạ; Nhưng bao giờ nhà vua
cũng lấy pháp thập thiện làm đích để chỉ đạo.
-
Tôi đây Phật
nhắc lại cho vua biết rằng:
-
- Đai Vương!
Vua Thi Đà Ni Di thuở đó tức là Phụ vương của ta bây giờ (vua Tịnh
Phạn), bà Phu nhân sanh Thái tử lúc đó chính là thân mẫu của ta ngày
nay, vua Tuệ Quang dạy dân tu thập thiện là tiền thân của ta. Cũng do
đời ấy ta tự tu thập thiện và khuyên dân tu thiện nên nay được phước
báu nơi gan bàn chân có ánh quang minh, và ngàn hoa tươi thắm như vậy.
-
Khi đó vua
Bình Sa tới trước lễ Phật quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
-
Kính lạy đức
Thế Tôn! Bọn Lục Sư mê muội quá! Không biết lượng sức mình, vì lòng
tham danh trục lợi, đem tâm ghen ghét, đòi thi thần thông với Ngài,
chúng tự nói: Phật làm được một phần, chúng sẽ làm được hai. Sau khi
bị sức thần thông của Thế Tôn làm trấn át, chúng hết thế lực tẩu
thoát, cùng đường đâm đầu xuống sông tự tử, còn đồ đệ chạy tán loạn tự
chúng gây nên tai nạn muôn đời, con nghĩ lũ mê cuồng ấy không biết căn
duyên tại sao, xin Thế Tôn chỉ giáo?
-
Phật đáp:
-
- Đại Vương!
Nên biết bọn Lục Sư chẳng những ngày nay tranh lợi tranh danh với ta,
mất thân mạng thế đâu! Đời quá khứ chúng đã tranh với Ta một lần,
nhưng đều bị thất bại. Ta lại đoạt được cả đồ đảng của chúng nữa.
-
Vua Bình Sa
lại bạch Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Việc đó thế nào cúi xin chỉ giáo?
-
Phật dạy:
-
- Đại vương
hãy để ý nghe, trước đây đời quá khứ vô lượng vô số kiếp A Tăng Kỳ
cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua tên là Ma Ha Xa Cừu Lợi,
thống trị năm trăm nước nhỏ, vua có năm trăm phu nhân nhưng chưa bà
nào có con trai. Vua tự nghĩ rằng: "Tuổi ta đã cao lại không có con để
nối quốc vị, một sớm băng hà lấy ai để bảo tồn chính thể của quốc gia
biết giao phó cho ai? Tất nhiên trong nước có sự tranh giành tàn sát
lẫn nhau nhân dân sẽ bị nguy ngập.
-
Nghĩ thế rồi
chưa biết giải quyết ra sao? Nên lúc nào ông cũng buồn!
-
Vua Đế Thích
trên thiên cung biết ý nghĩ của nhà vua như thế, liền từ trên trời bay
xuống hóa làm một ông thầy thuốc đến vương cung xin vào yết kiến vua,
và hỏi ngay ý nghĩ lo buồn của nhà vua. Nhà vua cũng đem ý nghĩ của
mình như trên nói cho ông rõ.
-
Ông trả lời
rằng:
-
- Xin Bệ Hạ
chớ lo! Để tôi đi vào núi tuyết lấy các vị thuốc cho các phu nhân của
Bệ Hạ uống thì sẽ có thai.
-
Nhà vua nghe
nói tâm buồn đã nguôi nguôi, và bảo thầy thuốc rằng:
-
- Thưa Ngài
nếu được như thế thì còn gì hay hơn nữa.
-
Thầy thuốc từ
biệt lên đường vào núi, cách ít ngày lấy được rất nhiều dược thảo đem
về dâng vua, bạch rằng:
-
Nói rồi vái
chào ra về, vua hỏi:
-
- Thưa Ngài,
thuốc này sẽ lấy bao nhiêu tiền?
-
Đáp:
-
- Tâu Bệ Hạ,
đây tôi xin giúp Bệ Hạ chứ không lấy tiền.
-
Nói xong ẩn
hình biến mất, nhà vua thầm nghĩ: "Người này là thần nhân ủng hộ có lẽ
hay lắm, rất có kết qủa cho ta".
-
Sau khi Đế
Thích về, nhà vua sai người lấy sữa nấu lẫn với thuốc, dâng bà Đệ nhất
Phu nhân uống. Song bà chê bẩn và không tin, nên không chịu uống thuốc
đó, các bà Tiểu Phu nhân chia nhau uống hết quả nhiên được ít lâu các
bà ấy đều có thai, và đem sự kết quả uống thuốc nói cho bà lớn biết.
Bà lớn có ý hối hận hỏi:
-
- Thuộc ấy có
còn thừa chút nào không?
-
Các bà đáp:
-
- Thưa bà!
Hết cả!
-
- Vậy các
dược thảo có còn không?
-
Các bà đáp:
-
- Thưa bà hãy
còn một ít!
-
Bà Đại Phu
nhân sai người lấy sữa nấu thuốc dùng được ít lâu thấy có thai, bà vui
mừng thầm trong dạ và cũng không nói cho các bà biết.
-
Các bà Tiểu
Phu nhân đầy tháng đều sinh con trai, nhân tướng khôi ngô tuấn tú, nhà
rất sung sướng, vì các bà đã sinh được nhiều quý tử. Nhưng vua vẫn áy
náy trong lòng, là vì Đại Phu nhân chưa có con!
-
Một thời gian
sau trăng tròn nguyệt mãn, bà Đại Phu nhân sinh được cậu con trai,
nhưng rất buồn thay cho bà, cậu con trai của bà xấu quá, mặt mũi xù xì
hình như quỷ sứ. Buồn quá! Đặt lên là Đa La Hầu Đà (Tàu dịch "Chu
Ngột"), Hoàng hậu giao cho người vú nuôi nấng ở một nơi và không cho
ai biết.
-
Từ đấy trở đi
trong nước vẫn được thanh bình, nhân dân an lạc, sau khi các Thái Tử
nhà vua đều cưới vợ cho cả, duy Chu Ngột xấu quá nên nhà vua không để
ý tới.
-
Bấy giờ nước
bên cạnh có sự bất bình với vua Ma Ha Xa Cừu Lợi, mang binh tiến sang
để khởi chiến, năm trăm Vương Tử mang quân ra chống cự, song bị thất
bại chạy về.
-
Chu Ngột thấy
thế hỏi:
-
- Hôm nay các
anh ra chiến đấu thắng hay bại, coi có vẻ sợ hãi thế?
-
Đáp:
-
- Hôm nay
chiến đấu bất lợi, bị giặc đuổi lui!
-
Chu Ngột nói:
-
- Các anh chớ
lo, tôi sẽ đánh đuổi cho bằng hết, tổ tiên chúng ta trước làm Chuyển
Luân Thánh Vương còn để lại trong Thiên Tự một cái cung lớn và một cái
bối, tôi sẽ dùng hai bảo vật ấy đuổi giặc thành công. Chu Ngột vào
Thiên Tự lấy cung và bối đem ra giương thử, tiếng kêu như sấm, vang xa
bốn mươi dặm. Rồi một mình ra đi, khi tới chỗ giặc đóng quân, Chu Ngột
cầm bối thổi tiếng kêu như sét đánh, giặc nghe sợ kinh hồn chạy tán
loạn; như vậy không cần phải đánh cũng tan. Khi dẹp yên được địch quân
xong, trở về nhà, vua và quần thần văn võ bá quan ra đón chào về cung,
từ đó mới được sự yêu đãi của Vương phụ.
-
Sau cuộc ăn
mừng đuổi giặc nhà vua nghĩ đến sự kết hôn cho Thái Tử, nhưng cũng
khó, là vì Thái tử xấu quá.
-
Thời đó có
ông vua nước láng giềng tên là Luật Sư Bạt Ta, có người Công Chúa xinh
đẹp nhưng chưa lấy chồng.
-
Một hôm nhà
vua gọi quan đại thần vào nói rằng:
-
- Vua Luật Sư
Bạt Ta có một Công Chúa nghe biết chưa lấy chồng, ta muốn nhờ ngươi
sang xin đẹp duyên cùng Thái Tử Chu Ngột, nhà vua có hỏi đến tướng mạo
của Thái Tử thì người coi tướng anh của Thái Tử mà diễn tả bộ dạng cho
biết.
-
Đại thần vâng
lệnh ra đi, sang tới nơi lên tâu vua rằng:
-
- Tâu Bệ Hạ!
Tôi là sứ thần của vua Ma Ha Xa Cừu Lợi vâng lệnh sang đây, xin Bệ Hạ
cho Thái Tử Chu Ngột được làm Phò Mã của ngài.
-
Nhà vua hỏi:
- Thái tử bao nhiêu tuổi? Hình dáng ra sao? Học vấn thế nào?
-
Đáp:
-
- Thái tử năm
nay tuổi vừa đôi tám, tướng người đẹp đẽ, sức lực hùng mạnh, trí óc
thông minh.
-
Nhà vua gật
đầu nói:
-
- Nhà ngươi
về tâu vua: Ta đồng ý gả Công Chúa cho Thái Tử. Đại thần về tâu vua sự
thỏa thuận của Quốc Vương láng giềng hứa gả Công Chúa cho Thái Tử, vua
rất hoan hỷ! Sai người sửa soạn lễ vật đính lễ nghinh hôn, cuộc lễ này
cũng rất buồn cười: Là vì chú rể mượn!
-
Khi về đến
hoàng cung yến tiệc rất linh đình, mọi người vui vẻ ca hát mừng đôi
loan phượng. Nhưng có một điểm là Công Chúa khi về tới hoàng cung
không nhìn thấy mặt chồng.
-
Nhà vua dặn
Chu Ngột ban ngày chớ để vợ nhìn thấy mặt.
-
Theo lời
Vương Phụ dặn, cứ tối khuya im lặng. Chu Ngột mới đến để vui thú cùng
vợ…
-
Chu Ngột đến,
Công Chúa hỏi:
-
- Lúc ban
ngày anh đi đâu không thấy?
-
Đáp:
-
- Ban ngày
anh phải đem quân ra trấn các cửa ải, hồi này nước ngoài luôn luôn đem
binh sang xâm lược nước nhà, anh đều đẩy lui được bọn chúng, nên mới
có trọng thưởng của nhà vua.
-
Công Chúa
hỏi: - Anh được trọng thưởng những bảo vật gì?
-
- Trọng
thưởng thứ nhất là được em, ngoài ra thì không đáng kể.
-
Công Chúa
nghe nói rất hân hạnh vui dạ!
-
Một buổi nọ
vợ các vương tử hội họp với nhau, cô nào cũng khoe tài đức của chồng
mình có lực hùng mạnh, tươi đẹp, có công đuổi giặc dẹp nước yên dân,
có thiếu phụ khác lắc đầu lè lưỡi nói:
-
- Thôi cô
đừng nên nói nữa, chồng cô xấu lắm, người chẳng khác, phải quỷ thì
không, ban ngày nếu cô nhìn thấy, cô sẽ thất kinh hoảng hồn.
-
Vợ Chu Ngột
nghe nói khí sắc biến đổi, vừa nhục vừa thẹn. Nhưng cố nhẫn lẳng lặng
ghi lại tâm. Trở về tư thất giấu đi một cái nến để nơi kín, chờ tối
chồng đến an nghỉ xong, cô đưa nến soi xem mặt, quả nhiên thấy hình
tướng đáng sợ hãi thật, xấu thật, thực là trên đời chưa có một ai xấu
đến như vậy! Cô chờ chồng ngủ mệt, giữa đêm khuya thanh vắng ra xe trở
về nước nhà.
-
Trời vừa tảng
sáng, Chu Ngột thức giấc không thấy vợ; chạy trước nhìn sau tuyệt
nhiên không thấy ảnh bóng một ai, biết đích vợ mình đã bỏ đi; trong
lòng buồn tức, giận đâu nổi lên, ầm ầm vác cung cầm bối lên ngựa đuổi
theo không kịp. Khi tới nước kia nghi trọ tại một nhà ông quan bên đó.
-
Thời ấy có
sáu ông vua nước bên cạnh, biết vua Luật Sư Bạt Ta có người con gái
đẹp, hay tin cô đã trở về nước, nên sáu ông đồng thời tiến quân sang
biên thùy, đưa thư cho vua xin cầu hôn.
-
Vua Luật Sư
Bạt Ta rất phiền não, trong lòng bối rối, vì không biết giải quyết thế
nào? Nên nhà vua cho triệu tập tất cả các triều thần văn võ bá quan
lại thảo luận.
-
Luật Sư Bạt
Ta nói:
-
- Công Chúa
hiện đã về tới bản quốc, tôi vừa mới tiếp được sáu phong thư của sáu
quý quốc, xin đính hôn cùng Công Chúa, nếu cho một ông thì đối năm ông
kia làm thế nào cho khỏi gây lòng oán hận, giờ đây bá quan giải quyết
thế nào cho đẹp lòng cả thì hơn?
-
Có một ông
quan đứng lên thưa rằng:
-
- Tâu Bệ Hạ
đem phanh công chúa ra làm sáu phần, chia cho mỗi người một phần thì
việc đó sẽ yên.
-
Lại có một
ông đứng lên thưa rằng:
-
- Tâu Bệ Hạ
bây giờ hãy ra một tờ cáo thị như sau: Nếu ai có tài đánh đuổi được
quân giặc thì sẽ gả Công Chúavà chia nước cho một nữa, ngoài ra còn ân
thưởng rất nhiều.
-
Vua đồng ý
viết bảng cáo thị.
-
Đa La Hầu Đà
(Chu Ngột) nghe biết giật bảng cáo thị, mang cung cầm bối xuất trận,
thổi còi giương cung bắn, các quan quân của sáu ông vua đều kinh khủng
chạy tán loạn mất cả. Chu Ngột tiến vào hạ thủ sáu ông vua, thu bắt
rất nhiều binh nhung sĩ chúng.
-
Vua Luật Sư
Bạt Ta hay tin Chu Ngột đã chiến thắng, thân ngự ra ngoài thành đón
tiếp, và biết rằng: Chính Chu Ngột con vua Ma Ha Xa Cừu Lợi, anh hùng
đã nổi tiếng, hơn nữa lại là con rể của ngài, nhà vua rất hoan hỷ.
-
Sau khi về
hoàng thành xong cuộc yến tiệc ăn mừng thắng trận, nhà vua và bá quan
suy tôn Chu Ngột làm Đại Vương thống trị bảy nước.
-
Chu Ngột
thăng điện nhậm chức bảo lãnh chánh quyền, đặt lại các việc triều
chính, sửa đổi chính sách, mở mang văn hóa, đặt các lễ nghi theo chánh
giáo, dạy dân có đạo đức, phế bỏ hủ tục, và những tà thuyết mị dân,
xếp đặt các công việc xong xuôi rồi cùng vợ kép quân về nước.
-
Hay tin Thái
Tử Chu Ngột về nước, nhà vua và các quan quân thân ra ngoài biên cương
đón. Khi về tới hoàng cung, nhà vua biết Chu Ngột có đủ tài đức, nên
cất làm Đại Vương. Chu Ngột không chịu tâu rằng:
-
- Muôn tâu
Vương Phụ! Xin ở tại ngôi, việc ấy sẽ chưa nên.
-
Nhà vua cũng
phải chiều theo ý định của Thái Tử, xong cuộc vui mừng này, quan quân
đều giải tán đâu về đấy.
-
Chu Ngột Thái
Tử đưa vợ về cung an nghỉ, lúc đó trách vợ ăn ở bạc tình, có ý phàn
nàn không thật làm giao kết lương duyên, trăm năm trọn đạo!
-
Công Chúa
thưa rằng:
-
- Thưa Thái
Tử! Vì Thá Tử xấu quá, coi dữ dằn quá em rất kinh và hình như không
giống người nên em mạn phép ra đi.
-
Chu Ngột lấy
gương soi thấy mình quả nhiên xấu thật, sự thật không khác gì quỷ, tự
nghĩ rằng:
-
- Mình vị
thân hình xấu ác, không sống với vợ, để vợ sợ hãi cũng không nên.
-
Tự phát tâm
chán ghét không muốn có thân ấy nữa, ra nơi rừng xanh để tự sát, khi
sắp buộc dây treo lên cành cây, vua Đế Thích ở xa ngó thấy liền bay
đến tận nơi hỏi.
-
Chu Ngột đáp:
-
- Tôi bị thân
hình xấu quá nên muốn tự sát ở nơi đây.
-
Vua Đế Thích
khuyên can đem cho hạt ngọc minh châu dặn rằng:
-
- Xin dâng
tặng Ngài hạt ngọc minh châu này để trên đầu, sẽ được thân hình đoan
chính tươi đẹp như tôi.
-
Chu Ngột cảm
tạ nhận lấy bạt châu để trên đỉnh đầu, quả nhiên thân thể đổi xấu
thành đẹp.
-
Khi trở về
nhà, không bảo cho vợ hay, đi luôn vào bảo tàng lấy cung và bối. Công
Chúa thấy chàng thanh niên tươi trẻ tự do vào lấy cung và bối, ngạc
nhiên hỏi:
-
- Anh là
người nào dám tự tiện vào lấy cung của chồng tôi?
-
Chu Ngột mỉm
cười đáp:
-
- Anh là
chồng của em đây!
-
Công Chúa
nói:
-
- Anh này
điên dở, chồng ta lẽ ta không biết sao? Anh là kẻ nào dám vô lễ tự
xưng là chồng ta?
-
Chu Ngột cười
nấc cười nở đưa tay lên đầu lấy hạt minh châu xuống, hiện lại nguyên
hình xấu, thấy sự biến chuyển lạ, Công Chúa nửa mừng nửa lo hỏi tiếp:
-
- Tại sao có
sự lạ như vậy, xin nói cho tôi rõ?
-
Chu Ngột nói
rõ câu chuyện được hạt minh châu cho Công Chúa xem, Công Chúa vui mừng
tin thực.
-
Từ đó vợ
chồng yêu nhau không có sự ngang trái nữa, và bỏ tên Chu Ngột đổi là
Tu Đà La Phiến.
-
Sau một thời
gian Tu Đà La Phiến muốn xây cất một thành trì lớn, tìm nơi đất bằng
phẳng cao mát rộng rãi, sắc lệnh cho nhân dân kiến lập tại đó.
-
Khi đó bốn
ông Long Vương hóa hình làm người, lại tâu vua rằng:
-
- Tâu Bệ Hạ,
nghe biết Bệ Hạ muốn xây thành, vậy dùng vật gì để làm?
-
Nhà vua đáp:
-
- Tôi làm
bằng đất!
-
Long Vương
thưa:
-
- Sao ngài
không dùng thất bảo mà kiến thiết?
-
Đáp:
-
- Thất bảo là
thứ quý giá nhất, và ít ỏi nhất, thành lớn, quý ngài tính lấy đâu mà
được?
-
Long Vương
thưa:
-
- Tâu Bệ Hạ!
Để chúng tôi xin cung cấp đủ cho ngài làm!
-
Long Vương
nói xong, ngay bốn bên khu vực đất ấy, biến thành bốn cái suối lớn.
Long Vương chỉ vào bốn cái suối ấy thưa rằng:
-
- Bệ Hạ dùng
nước suối phương Đông xây cất, thì thành này hóa ra ngọc lưu ly; dùng
nước suối phương Nam xây cất, thì thành này hóa ra vàng; dùng nước
suối phương Tây xây cất, thì thành này hóa ra bạc; dùng nước suối
phương Bắc xây cất, thì thành này hóa ra pha lê.
-
Nhà vua nghe
nói, cảm tạ Long Vương. Bắt đầu xây cất, quả nhiên lời nói của Long
Vương là đúng.
-
Thành ấy quy
vuông bốn trăm dặm, trong thành làm các cung điện lầu các; mỗi cung
quy vuông bốn mươi dặm: Cung điện, đường đi, nhà lớn, nhà nhỏ, rừng
cây, ao tắm, trường thành, thuần bằng ngọc lưu ly, pha lê, vàng, bạc,
cực kỳ trang nghiêm đẹp đẽ, chẳng khác Thiên Cung. Ngày hoàn thành này
được bãy thứ báu ngọc tự nhiên đầy kho đụn. Tu Đà La Phiến ngự trị
thành này, từ đó bắt đầu dạy dân tu theo mười điều lành (Thập Thiện).
-
Nói tới đây,
Phật nhắc cho vua Bình Sa biết rằng:
-
Bình Sa! Ông
nên biết vua Ma Ha Xa Cừu Lợi thuở đó hiện nay là Vương Phụ của ta
(Tịnh Phạn Vương), bà mẹ sinh Chu Ngột thuở đó nay là Thân Mẫu của ta
(Ma Da Phu nhân). Vương Tử xấu (Chu Ngột) thuở đó chính là tiền thân
ta, vợ Vương Tử xấu lúc đó chính là Cù Di ngày nay; ông thân của vợ
Vương Tử lúc đó ngày nay là ông Ma Ha Ca Diếp. Sáu ông vua lúc ấy dùng
binh sĩ áp bức để lấy Công Chúa của vua Luật Sư Bạt Ta, chính là Lục
Sư bây giờ.
-
Thời ấy bọn
ông ấy đã tranh sắc thanh tài với ta, bị thất bại; ngày nay cũng do
lòng tham danh trục lợi, đòi đấu sức thần thông, không đủ lực chống
đỡ, cùng đường đâm đầu xuống sông tự sát, còn chín ức đồ chúng quay về
theo ta làm đệ tử.
-
Vua Bình Sa
lại bạch Phật:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Thái Tử Chu Ngột đời trước trồng nhân lành gì được sinh
làm con vua, có sức lực hùng mạnh và tại sao bị thân thể xấu, cúi xin
chỉ giáo cho chúng con được rõ.
-
Phật nói:
-
- Đó là một
nhân duyên từ đơi蠱uá
khứ, tới nay đã vô lượng kiếp không thể tính được, cũng Châu Diêm Phù
Đề có một nước lớn tên Ba La Nại, nước ấy có một ông tiên, tu trong
núi tên là Luật Sư. Trong núi ông tiên ấy có một vị Bích Chi Phật,
người bị chứng bệnh phong, một hôm ngài đến nhà hàng dầu, xin dầu muốn
để trị bịnh. Người chủ nhà hàng dầu phát lòng nóng giận lớn tiếng la
mắng nói:
-
- Đầu anh như
Chu Ngột (gốc cây cụt), như cục gỗ, tay chân phê tởm, khờ khờ khoạng
khoạng chỉ rình ròm xin người không đem tiền mua chỉ muốn lấy không?
-
Tuy nói thế
nhưng anh hàng dầu cũng cho một chút dầu cặn, song Ngài cũng không
buồn giận gì lời nói lỗ mãng ấy, vẫn thản nhiên lấy dầu. Khi ra khỏi
nhà gặp vợ ông hàng dầu về, bà ta bả lả hỏi han, một vẻ kính trọng
nói:
-
- Khoái Sĩ từ
đâu tới đây, dùng dầu cặn làm gì?
-
Đáp:
-
- Tôi dùng để
chữa bịnh phong.
-
- Thưa Ngài
xin trở lại để con xin dâng cúng thứ dầu tốt!
-
Ngài cũng
hoan hỷ đi. Tớn nhà, bà dâng một chén dầu trong trẻo, dâng rồi la
chồng rằng:
-
- Anh thật
không hiểu biết chi cả, tại sao anh lại cúng Ngài dầu cặn, anh phải
sám hối Ngài cho khỏi cái tội của miệng anh.
-
Ông hàng dầu
này cũng có thiện tâm, hối hận trong lòng ra xin lỗi, Ngài cũng hoan
hỷ. Khi đó hai vợ chồng đều thưa với Ngài rằng:
-
- Thưa Ngài:
Vợ chồng con xin nguyện chung thân cúng dàng, ngài muốn dùng gì xin cứ
lại đây chúng con dâng.
-
Từ đó vị Bích
Chi Phật hằng ngày lại lấy các món ăn dùng và dầu.
-
Trước khi vào
Niết Bàn, nhân cảm cái ơn ấy vị Bích Chi Phật hiện ra mười tám phép
thần túc cho vợ chồng hàng dầu biết.
-
Bay trên hư
không, trong mình phun ra nước, dưới mình hóa ra lửa, thân thể khi
phân khi hợp, hiện biến rất nhiều phép lạ.
-
Vợ chồng hàng
dầu thấy thế, biết rằng Ngài đã đắc đạo vui mừng khôn xiết, tự hận
mình có lỗi nên bảo vợ rằng:
-
- Em hoan hỷ
cúng dàng Ngài, tương lai sẽ được nhờ phúc báo thì cho tôi chung hưởng
và cùng làm vợ chồng như nay nhé!
-
Đáp:
-
- Anh đối với
Ngài tệ ác và cúng dầu cặn, sau này có sinh nơi nào, dĩ nhiên phải
chịu quả báo xấu, thì làm sao kết duyên cùng anh được?
-
Chồng nói:
-
- Tôi cũng
chịu sự cực khổ làm ăn, của là của chung, đâu có phải một mình em làm
ra được, mà nói: không cho chung và không cho làm vợ chồng. Nghĩa là
phúc là phúc chung, đâu phải một mình em hưởng được.
-
- Vâng! Nếu
kiếp sau tôi có phải làm vợ anh đi chăng nữa, nếu anh xấu đêm tôi sẽ
bỏ anh tôi đi!
-
- Nếu em đi
anh sẽ đuổi cho bằng được!
-
Hai vợ chồng
nói xong, rồi hứơng lên vị Bích Chi Phật thành tâm sám hối.
-
Khi đó Ngài
bảo rằng:
-
- Do sự cúng
dàng dầu của vợ chồn anh, nên ta được khỏi bịnh, muốn cầu nguyện gì ta
cho tùy ý.
-
Hai vợ chồng
hoan hỷ quỳ thẳng chắp tay phát nguyện rằng:
-
- Kính xin
Tôn giả, nguyện cho vợ chồng con trên trời hoặc nhân gian, sinh chốn
nào cũng được tôn sang phúc tuệ đầy đủ, muốn gì cũng được toại ý.
-
Tới đây, Phật
nhắc lại cho vua Bình Sa biết rằng:
-
Nhà vua nên
biết: Người hàng dầu thuở đó chính là Chu Ngột, vợ của hàng dầu chính
là vợ của Chu Ngột thời ấy, thuở đó ông hàng dầu mắng vị Bích Chi Phật
thân người xấu như Chu Ngột (gốc cây tre cụt) và tay như cái trục, lúc
cho dầu có sắc giận tức. Vì thế nên bị quả báo xấu, cũng theo đúng như
khi phát lời nói mắng vị Bích Chi Phật không khác, sau biết ăn năn sám
hối vui vẻ cúng dầu tốt, cho nên sinh xứ nào cũng được tốt đẹp; cũng
do sự cúng dầu nên được nhiều sức khỏe, ngàn muôn người không địch
nổi, hơn nữa lại còn được làm Chuyển Luân Vương, hưởng phúc bốn cõi,
năm món dục đầy đủ thụ dụng. Thiện nghiệp hay ác nghiệp, báo ứng không
sai thù, vì thế tất cả chúng sinh phải nên giữ đạo làm thiết yếu, cẩn
thận nơi thân miệng, ý chớ nên dùng nó mà tạo những điều xấu ác!
-
Phật nói xong
vua Bình Sa và tất cả vua, quan dân chúng các nước với bốn bộ đệ tử,
trời rồng, quỷ thần có người chứng quỉ thần, có người chứng quả Tu Đa
Hoàn, người được quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm; cho đến quả A La Hán,
cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm Bồ Đề cho
đến ngôi Bất Thoái, tất cả đều hoan hỷ lễ kính dưới chân Phật mà lui.
--o0o--
|
|