|
KINH TẠNG
- PHẦN BA
- KINH HIỀN NGU
- H. T.Thích
Trung Quán Dịch
- --o0o--
-
Phẩm Thứ Hai Mươi Sáu
-
BỐ THÍ ĐẦU
-
-
Chính tôi
được nghe: Một thời đức Phật ở một nước Tỳ Xá Ly, trong vườn cây A La.
Khi đó đức Thế Tôn hỏi tôi (A Nan) rằng:
-
- Những người
được phép tứ thần túc thì thọ được một kiếp, như ta được tứ thần túc
còn phải tu tập. Vậy có biết Như Lai thọ được bao nhiêu không? Ngài
hỏi luôn ba lần như thế.
-
Lúc đó tôi bị
ma yếm chăng? Nên cứ lặng yên không trả lời. Phật lại bảo:
-
- A Nan! Ông
hãy đi đến chỗ tĩnh mịch mà suy xét.
-
Tôi vâng lời
đứng dậy đi vào trong rừng.
-
Vừa đi khỏi,
thì ma Ba Tuần đến bạch Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Ngài ở đời giáo hóa đã lâu, tế độ nhân gian được thoát
sinh tử, nhiều như số cát sông Hằng, nay tuổi đã già yếu, Ngài nên vào
Niết Bàn đi!
-
Phật lấy chút
đất để trên móng tay hỏi Ba Tuần rằng:
-
- Đất trên
móng tay ta nhiều hay đất quả địa cầu nhiều?
-
- Kính lạy
Ngài, đất quả địa cầu nhiều.
-
Ta độ chúng
sinh cũng ít như đất trên móng tay vậy, còn những chúng sinh chưa được
độ cũng nhiều như đất quả địa cầu, cách ba tháng nữa, ta sẽ vào Niết
Bàn.
-
Ba Tuần nghe
Phật nói xong vui mừng bái tạ lui ra!
-
Tôi ngồi
trong rừng, chợt ngủ mê thấy một cây to lớn che khắp cả hư không, cành
lá um tùm hoa quả tốt tươi, cống đức của cây này vi diệu vô cùng,
không thể tả xiết. Bỗng nhiên có một trận cuồng phong làm cho cành lá
tan nát tơi bời! Tôi lo sợ quá! Giật mình tỉnh dậy lồng ngực hãy còn
đập liền hồi, tôi thầm nghĩ như vầy: Ta mộng thấy cây này là một cây
mà tất cả thiên hạ đuợc nhờ, tự nhiên lại bị trận gió làm tan nát như
thế, Đức Thế Tôn của ta tế độ cho khắp nhân Thiên, Phàm Thánh, muôn
loài hàm sinh đều lợi ích. Cũng như cây này che chở cho khắp thiên hạ,
mộng này có lẽ đức Thế Tôn vào Niết Bàn, tôi đứng lên vào Tinh Xá cúi
đầu làm lễ bạch Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Vừa đây con mộng thấy, một cây to lớn che chở cho muôn
loài bỗng gặp cơn gió lớn, đập gẩy tan tành, con dự đoán hay Thế Tôn
sắp vào Niết Bàn, lạy Ngày có phải, cúi xin chỉ giáo?
-
Phật dạy
rằng:
-
- Thực thế
đấy! Sau ba tháng nữa ta vào Niết Bàn, cũng như lời ta vừa nói đây,
những người được phép tứ thần túc thì thọ một kiếp, như ta được tứ
thần túc còn phải tu tập. Vậy Như Lai thọ được bao nhiêu ư? Ta hỏi
luôn ba lần như thế mà ngươi không đáp, ngươi đi khỏi ma Ba Tuần lại
mời ta vào Niết Bàn và ta đã hứa.
-
Tôi nghe xong
như sét đánh bên tai, lo sợ quá! Buồn khổ quá! Giờ đây Ngài vào Niết
Bàn, chúng sinh biết nương tựa vào đâu?
-
Sau đó các đệ
tử ai ai cũng âu sầu buồn bã, xúm xít thăm hỏi Ngài.
-
Phật dạy
rằng:
-
- Tất cả thế
gian đều bị luật vô thường chuyển biến luôn luôn, nay còn mai mất,
không có nhất định, từ loài người, loài vật cho đến núi sông vũ trụ
bao la, không có một vật gì được tồn tại mãi mãi đâu. Ta vì chúng sinh
trong pháp giới, việc nên làm ta đã làm xong, những việc phải nói, ta
đã nói hết, các ông nên chăm chỉ tu hành, lo buồn làm chi vô ích.
-
Ngài Xá Lợi
Phất than rằng:
-
- Than ôi!
Con mắt sáng của thế gian đến ngày diệt, đức Như Lai vào Niết Bàn,
chúng sinh hết chỗ trông nhờ!
-
Ông nói xong
quỳ bạch rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn, con không nỡ nào nhìn thấy Ngài nhập Niết Bàn, con xin
nhập Niết Bàn trước, cúi xin Ngài hoan hỷ cho con được thỏa nguyện.
-
Ông thưa luôn
ba lần như vậy.
-
- Phật nói:
Nếu tới thời ông nên biết các Hiền Thánh cũng nên tịch diệt.
-
Nghe Phật nói
xong, ông quỳ thẳng đi bằng hai gối, nhiễu Phật một trăm vòng, rồi đỡ
lấy chân Phật để lên đầu ba lần, bạch rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Hôm nay là lần cuối cùng con từ biệt Ngài! Nói rồi cúi
đầu khoanh tay nghiêm kính đi ra, Ngài trở về nước La Duyệt Kỳ là nơi
sinh quán, ông Sa Di Quân Đề đưa tin cho vua quan và các nhà thân tín
hay, để họ đến thăm viếng.
-
Vua A Xà Thế
biết tin Ngài vào Niết Bàn, tự nói rằng:
-
- Tôn giả Xá
Lợi Phất là một vị đại tướng trong Phật Pháp, than ôi! Ngài nhập Niết
Bàn chi sớm thế? Biết lấy ai để trấn tĩnh lũ tà gian.
-
Khi vua quan
dân chúng đến đông đủ, họ thưa rằng:
-
- Kính lạy
đức Tôn Giả! Được tin Ngài sắp vào Niết Bàn, chúng tôi đây như con mất
cha, như gà mất mẹ, không chốn nương thân, không bề trông cậy.
-
Ngài đáp
rằng: Các Phật tử chớ buồn chi! Tất cả muôn vật trên thế gian này đều
thuộc hai chữ "Vô Thường", đã có sinh tất nhiên phải có tử, ba
cõi đều khổ, ai là người được an vui, các vị đời trước trồng nhân lành
sinh gặp Phật tại thế, kinh pháp khó được nghe, thân người khó được,
phải chăm tu phúc nghiệp, để cầu thoát khỏi sinh tử luân hồi là cốt
yếu.
-
Cứ như thế,
Ngài tùy theo tâm chúng sinh mà giảng giải rất khéo léo, cũng như thầy
thuốc tùy theo bệnh mà cắt thuốc, để khiến cho họ được phần lợi ích.
-
Khi giảng
xong, cũng có người đắc sơ quả cho đến tứ quả, cũng có người phát tâm
cầu đạo vô thượng, ai nấy tâm ý an hòa tạ lễ lui ra.
-
Khi giảng
xong, cũng có người đắc sơ quả cho đến tứ quả, cũng có người phát tâm
cầu đạo vô thượng, ai nấy tâm ý an hòa tạ lễ lui ra.
-
Giờ này đã
quá nửa đêm, Ngài nghiêm tĩnh tâm ý để tại trước mặt, vào cõi sơ
thiền, từ sơ thiền vào cõi nhị thiền, từ cõi nhị thiền vào cõi tam
thiền, từ cõi tam thiền vào cõi tứ thiền, từ cõi tứ thiền vào cõi
không xứ, từ cõi không xứ vào cõi thức xứ, từ cõi thức xứ vào cõi bất
dụng xứ, từ cõi bất dụng xứ vào cõi phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, lại
từ cõi phi hữu tưởng phi vô tưởng vào định diệt tận, từ định diệt tận
nhập Niết Bàn.
-
Ông Thiên Đế
Thích biết thế, đem họ hàng một trăm ngàn người mang hương hoa xuống
cúng dàng rồi than rằng:
-
- Tôn giả trí
tuệ rộng sâu, như trời cao, như biển lớn, biện luận ứng cơ, mau hư
chớp loáng, âm thanh như nước chảy, giới, định, tuệ hoàn toàn, là một
đại tướng trong Phật Pháp, thay đức Như Lai chuyển Pháp luân. Ôi! Ngài
nhập Niết Bàn, mất con mắt sáng cõi nhân thiên.
-
Từ thành thị
cho đến thôn quê, người đông như kiến cỏ, mang hương hoa đến cúng
dàng, ai nấy đều sa nước mắt.
-
Ông Thiên Đế
Thích và ông Tỳ Thủ Yết Ma đem xe cõi trời xuống rước: Ngài đi trước,
đi sau có bộ Thiên, bộ Long, quỷ thần, vua quan, dân dung, đến một nơi
bình thản cao sạch. Vua Đế Thích sai các quỷ Dạ Xoa ra bờ biển lấy
gỗ chiên đàn, gỗ ngưu đầu về chất thành một đống, đổ dầu Tô phóng hỏa
thiêu thi hài Tôn Giả.
-
Đốt xong mọi
người bái tạ ra về. Chờ cho lửa tắt, ông Sa Di Quân Đề thu Xá Lợi của
thầy và tấm áo Cà Sa đem về chốn Phật, bạch Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Thầy con là Xá Lợi Phất đã nhập Niết Bàn, đây là Xá Lợi
và áo bát, xin Thế Tôn chứng minh.
-
Thấy ông Quân
Đề bạch xong cảm động quá! Tôi quỳ xuống bạch Phật rằng:
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất với Phật Pháp là một đại tướng, vào Niết
Bàn sớm quá, sau khi Ngài nhập diệt chúng con biết nương cậy vào đâu?
-
Phật dạy
rằng: Tuy ông Xá Lợi Phất nhập Niết Bàn, song pháp thân và giới, định,
huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của ông đâu có nhập Niết Bàn, vì
ông không nỡ nhìn thấy ta nhập Niết Bàn, nên ông nhập trước ta đấy
thôi. Chẳng những đời nay như thế, đời quá khứ, ông cũng không đành
lòng nhìn ta chết, ông còn tự chết trước ta.
-
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Đời quá khứ Tôn giả Xá Lợ Phất chết trước Ngài, việc đó
thế nào, cúi xin nói cho chúng con và chúng sinh đời sau được rõ.
-
- A Nan ông
nên biết! Đời quá khứ đã lâu lắm, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một
ông vua tên là Chiên Đà Bà La Tỳ (Tàu dịch là Nguyệt Quang) thống lãnh
tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám muôn ức tụ lạc, ông
có hai muôn phu nhân và thể nữ, bà thứ nhứt tên là Tu Ma Đàn (Tàu dịch
là Hoa Thị), một vạn quan đại thần, ông quan lớn nhất tên là Ma Chiên
Đà (Tàu dịch là Đại Nguyệt), năm trăm Thái tử, người thứ nhất tên là
Thi La Bạt Đà (Tàu dịch là Hiền Thọ).
-
Thành ấy
ngang dọc bốn trăm do tuần, làm thuần bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê,
bốn mặt có bốn trăm hai mươi cửa, đường sá thành phố trang nghiêm.
Trong nước ấy có bốn hàng cây bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, cành
vàng lá bạc, hoặc pha lê lá lưu ly. Những hồ ao bằng bốn thứ trân bảo,
cát dưới lòng ao bằng bốn thứ bảo nói trên. Trong cung nhà vua chu vi
bốn mươi dặm, làm thuần bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê. Thời đó nước
giàu dân mạnh, an vui sung sướng!
-
Một hôm vua
ngồi trên bảo điện thốt nhiên nghĩ như vầy: Người ta ở trên đời tôn
vinh hay phú quý, thiên hạ kính nể muốn gì được nấy cũng do quả báo
tích đức tu thiện đời trước đem lại. Cũng ví như kẻ nôn phu, mùa Xuân
mất công cày bừa gieo mạ cấy lúa, tới mùa Hạ, mùa Thu gặt hái được
thóc gạo đem về ăn uống. Nếu mùa Xuân họ không mất công cày cấy, dĩ
nhiên mùa Hạ, mùa Thu không gặt hái thu hoạch được.
-
Ta cũng thế,
đời trước tu phúc lành, đời nay hưởng quả tốt, nếu bây giờ ta không
tiếp tục tu theo, đời sau lấy gì an hưởng?
-
Nghĩ rồi bảo
các quan đem tiền của ở trong kho ra bố thí, và sắc lệnh cho tám vạn
bốn ngàn ông vua, cũng phải mở kho bố thí cho dân.
-
Khi đó các
ông vua phải tuân theo mệnh lệnh, thông cáo cho toàn cõi biết.
-
Ngày phát
chẩn nhân dân kéo nhau đến Kinh thành đông như kiến cỏ, kẻ mạnh cõng
người yếu, kẻ sáng dắt người mù, ai nấy đều được nhà vua phân cấp tiền
gạo, áo quần đầy đủ, từ đó muôn dân được an vui sung sướng. Danh đức
lừng lẫy, tiếng khen đồn khắp bốn phương.
-
Thuở đó có
một ông vua nước nhỏ ở bên cạnh, tên là Tỳ Ma Tư Na, thấy nhân dân ca
tụng và cảm phục vua Nguyệt Quang, đem lòng ghen ghét, ngày quên ăn,
đêm quên ngủ, ông thầm nghĩ như vầy:
-
- Nếu ta
không dùng mưu tiêu diệt được Nguyệt Quang, có lẽ danh tiếng của ta
không bao giờ hiển đạt! Nghĩ xong ông triệu tập các thầy Bà La Môn
trong nước đến, cúng dàng ba tháng rất trịnh trọng, xong ba tháng ông
nói với các vị rằng:
-
- Thưa quý
giáo sĩ! Tôi có một việc đáng lo! Đến nỗi ngày quên ăn, đêm mất ngủ,
quý Ngài có phương tiện gì giải quyết hộ?
-
Thầy Bà La
Môn hỏi:
-
- Tâu Bệ Hạ!
Có việc chi xin nói cho chúng tôi rõ, nếu giúp được chúng tôi xin hết
sức.
-
- Thưa quý
Ngài! Hiện nay vua Nguyệt Quang muôn phương mến phục, phúc đức lớn
lao! Dĩ nhiên có sự lo lớn cho tôi sau này! Quý Ngài có thần phép gì
tiêu diệt ông đó hộ?
-
- Tâu Bệ Hạ!
Vua Nguyệt Quang là người có đức lớn, thương dân như con, dân coi vua
như cha mẹ, chúng tôi nỡ đem tâm gì để mưu hại, thà chịu chết chứ
không nỡ hại người hiền.
-
Nói xong mấy
ông đều xin cáo thoái.
-
Vua Tỳ Ma Tư
Na rất bực mình, liền hạ chiếu cho toàn quốc biết:
-
- Nếu ai lấy
được đầu vua Nguyệt Quang tôi sẽ gả con gái, và phân nước cho một nửa
để cai trị!
-
Khi đó có một
người dòng Bà La Môn tên là Lao Độ Sai, ở núi Hiếp, đến xin đi lấy đầu
vua Nguyệt Quang, nhà vua vui vẻ nói:
-
- Nếu khanh
làm được việc này, ta sẽ giữ lời hứa và định đến hôm nào đi, xin cho
biết.
-
Lao Độ Sai
nói:
-
- Xin khất Bệ
Hạ bảy ngày nữa.
-
Nói xong từ
tạ ra về, về nhà nhập thất bảy ngày, trì chú hộ thân.
-
Qua bảy ngày,
đến cung vua, nhà vua cung cấp lương thực tiền lộ phí, khi bước ra đi
cương quyết nói:
-
- Xin Bệ Hạ
chớ lo! Tôi thề rằng: Nếu không lấy được đầu vua Nguyệt Quang, quyết
không về, cam đoan thế nào cũng lấy cho bằng được!
-
Khi đó trong
nước vua Nguyệt Quang có những điềm bất tường xuất hiện:
-
1- Động đất.
-
2- Chớp giật,
tinh rơi, sấm động.
-
3- Ban ngày
sương khói kéo mờ mịt.
-
4- Sao chổi
mọc.
-
5
- Mưa
đá, sét đánh tứ tung.
-
6
- Các
loài chim kêu rất thảm thiết ở hư không, và nó tự nhổ lông cánh rơi
đầy mặt đất.
-
7- Hổ, Báo,
Sài, Lang, tự đâm mình xuống hố, hoặc kêu gào thảm khốc.
-
8- Tám vạn
bốn ngàn ông vua nước nhỏ đều mộng thấy cành phướn vàng của nhà vua,
bị gẫy, trống vàng vị thủng.
-
9- Ông vua
Đại Nguyệt mơ thấy quỷ lại cướp mũ vàng của vua mang đi.
-
Thấy điềm bất
tường biến hiện, bá quan văn võ đều lo.
-
Khi đó ông
thần coi thành biết Lao Độ Sai đến xin đầu vua. Ông hóa phép làm cho
mơ màng không biết lối vào, cứ đi lẩn quẩn bên ngoài thành.
-
Ông trời Tịnh
Cư thấy thế báo động cho nhà vua hay rằng:
-
- Bệ Hạ làm
hạnh bố thí, hiện có người đến xin, đương ở bên ngoài thành mà không
được vào.
-
Nhà vua thức
dậy ngạc nhiên rồi gọi ông Đại Nguyệt vào:
-
- Ông ra
ngoài cổng thành, cấm không được ai ngăn giữ người nào vào xin.
-
Đại Nguyệt ra
cổng thành, nhìn ngơ ngác không thấy ai là người ngăn cấm cả. Khi đó
ông thần coi thành hiện lên nói rằng:
-
- Thưa Đại
Thần! Hiện có một người dòng Bà La Môn, ở nước khác đến xin đầu vua,
vì thế nên tôi không cho vào.
-
- Nếu quả như
vậy, là một tai hại lớn, xong vua đã ra lệnh chúng ta không được trái
ý.
-
Theo lời ông
Đại Nguyệt nói, nên ông thần tha cho Lao Độ Sai.
-
Đại Nguyệt
thầm nghĩ rằng:
-
- Nếu kẻ này
xin đầu vua, thì ta dự lấy năm trăm đầu bằng thất bảo, về đặt thợ làm.
-
Lao Độ Sai
như người tỉnh giấc mơ, bước vào cung vua lớn tiếng nói:
-
- Tôi ở nơi
xa nghe biết nhà vua làm hạnh bốt thí, ai muốn xin gì cũng cho, tôi
tới đây xin một việc rất khó.
-
Nhà vua thấy
người có vẻ ngỗ nghịch, ăn nói thô lỗ biết rằng kẻ này thử thách ta
mừng thầm! Tự đứng dậy ra đón chào, và hỏi thăm từ đâu tới, và đi
đường có đỡ mỏi mệt không, rồi hỏi:
-
- Ngài muốn
dùng gì xin cứ nói, dầu khó khăn đến đâu, nếu có thể tôi xin biếu
Ngài!
-
Lao Độ Sai
nói: Ngài bố thí tiền, của, thức ăn, cho đến mọi vật, tuy có phúc báu
nhưng chưa lớn bằng phúc bố thí vật trong thân mình. Vậy tôi chỉ xin
cái đầu của nhà vua, có thể được xin cho biết?
-
Nhà vua nói:
-
- Dạ! Xin vui
lòng biếu Ngài một cách thành thực.
-
- Ngài cho
tôi bây giờ, hay ngày nào?
-
- Dạ! Xin
khất Đại Đức bảy ngày nữa.
-
Vừa lúc đó
ông Đại Nguyệt đem năm trăm cái đầu thất bảo đến, đấm tay vào ngực nói
với Lao Độ Sai rằng:
-
- Đầu vua
bằng xương thịt, huyết máu hợp thành, hôi thối và là vật bất tịnh nhơ
bẩn, bác xin làm chi? Bác lấy đầu thất bảo này mang về có thể sung
sướng suốt đời.
-
- Thưa Ngài
đầu thất bảo tôi cũng không thiếu, chỉ thiếu đầu vua mới đến đây.
-
Thấy Lao Độ
Sai ương ngạnh quá, nói không vào, ông dịu giọng năn nỉ thì dỗ rất
ngọt ngào. Song Lao Độ Sai quyết định không nghe.
-
Ông phẫn uất
quá, quả tim nổ thành bảy miếng, chết liền trước mặt nhà vua.
-
Khi đó nhà
vua và triều thần văn võ thương ông quá! Mọi người đều sa nước mắt! Và
thu xếp làm lễ an táng cho ông.
-
Xong việc an
táng cho ông Đại Nguyệt, nhà vua sai các quan cỡi voi đi tám ngàn dặm
báo cáo cho trong nước biết rằng:
-
- Quốc dân
nên biết, vua Nguyệt Quang thực hành bố thí, trước đây phân cấp cho
nhân dân các món ăn dùng, bây giờ có tên Lao Độ Sai ở nước khác đến
xin đầu, Ngài quyết định bố thí cho thành đại nguyện, vậy để quốc dân
được rõ.
-
Được tin như
vậy, ai cũng buồn, tám vạn bốn ngàn vua nước nhỏ, khi tới đủ đều tâu
với vua rằng:
-
- Tâu Bệ Hạ!
Tất cả Châu Diêm Phù Đề nhờ đức độ của Ngài được mưa hòa gió thuận,
thái bình thịnh trị, cây cỏ xinh tươi, mùa màng lúa tốt, no nê sung
sướng, thóc gạo ngon thơm, muôn dân an lạc. Tại sao Ngài vì một người
mà không thường tất cả muôn phương?
-
Một vạn quan
Đại thần đồng thanh nói:
-
- Xin Bệ Hạ
miễn bỏ việc bố thí đầu, chưa từng thấy có sự quái lạ như vậy! Bây giờ
Ngài nghe một kẻ khốn nạn, dở hơi để lũ chúng tôi buồn bực!
-
Hai muôn bà
phu nhân và năm trăm Thái Tử, gieo mình xuống đất khóc lóc! Xin vua
miễn bỏ việc bố thí đầu, nhưng nhà vua vẫn khoan hòa nét mặt an ủi
nói:
-
- Xin các
vương hầu khanh tướng, hãy bình tĩnh nghe tôi nói, con người vì kết
buộc tình ân ái từ kiếp vô thủy, nên chịu ách sinh tử lâu dài, chưa
thấy ai đã thực hành bỏ được, nhất là yêu tiếc bản thân. Xét rằng từ
vô biên kiếp đến nay, sống chết đã bao đời không tả xiết, lúc ở trong
địa ngục, một ngày bỏ thân vô số, chết trong nước sông phân, nằm sắt,
ôm cột đồng, ngâm mình trong nước phân sôi, khi ngồi trên xe lửa, khi
nằm dưới hố than. Còn nhiều địa ngục không kể, bị đau khổ vô cùng
không nói hết, thì những thân ấy đã bỏ đi nhiều vô hạn lượng lại không
có phúc báu gì.
-
Khi làm loài
súc sinh bị loại người chém giết, thịt nát xương tan, thì những thân
ấy toàn là vô phúc đọa lạc.
-
Khi làm loài
quỷ đói, lửa trong mình phát ra, hoặc vòng dao lửa bay tới chém thân
chặt đầu, chết đi sống lại vô số, những thân ấy đều không có phúc báu,
nên bị đọa đày.
-
Khi ở nhân
gian vì lòng tham giận tàn sát lẫn nhau, cũng do tài sắc kết buộc,
những thân ấy bị chết rất nhiều, hoàn toàn không làm được một chút chi
cho bản giác.
-
Hiện tại thân
tôi đây toàn thị nhơ bẩn, rồi một ngày kia cũng bị tiêu không, tôi bỏ
cái đầu nhơ uế xấu xa này, để đổi lấy pháp thân thường, lạc, ngã,
tịnh, an vui vô cùng kiếp! Hơn nữa tôi còn có thể đem lợi ích cho toàn
thể đời vị lại, phải nhìn xa, phải trông rộng, không cục hạn mặt cái
thân hèn mọn bé nhỏ này, có lợi ích lớn như thế, can tôi làm chi. Tôi
bố thí cái đầu này để cầu thành Phật, sau khi thành tôi sẽ độ thoát
cho lũ các ông qua khỏi nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, được an vui
giải thoát đời đời, ngăn cản đạo tâm vô thượng của tôi làm chi?
-
Tất cả mọi
người nghe nhà vua giảng thuyết vừa xong ai nấy đều phải nín thinh,
không dám trả lời sao hết.
-
Nhà vua thấy
quần chúng đã an tâm, ngoảnh bảo Lao Độ Sai rằng:
-
- Bây giờ ta
cho nhà ngươi được tự do lấy đầu.
-
Lao Độ Sai
đáp:
-
- Tâu Bệ Hạ,
hiện tôi có một mình, lực yếu thế cô, chung quanh vua quan dân chúng
nhiều, nếu nhà vua có cho, xin ra hậu viên, nơi vắng, chỉ riêng một
mình tôi với nhà vua mà thôi, thì mới dám chặt đầu.
-
Nhà vua tuyên
bốt với đại chúng rằng:
-
- Tất cả các
ông có yêu tôi! Kính tôi, xin chớ làm hại Lao Độ Sai.
-
Nói xong cùng
Lao Độ Sai ra hậu viên.
-
Lao Độ Sai
nói:
-
- Sức vua
hùng tráng khỏa mạnh, cắt đầu đau đớn, lúc đó lại hối tiếc thì sao?
Vậy nhà vua hãy lấy dây buộc cổ treo lên cành cây để tôi cắt cho dễ.
-
Nhà vua ngồi
dưới gốc cây to lớn, lấy tóc buộc và thân cây nói rằng:
-
- Ông cắt đầu
xong để lên trên bàn tay tôi, tôi dâng biếu ông.
-
Chắp tay kính
cẩn nguyện rằng:
-
- Kính lạy
thập phương tam thế Hùng Sư, nguyện công đức này không cầu làm Phạm
Vương, Ma Vương, Đế Thích, Chuyển Luân Thánh Vương để vui sướng ở ba
cõi, con xin cầu thành Phật, độ chúng sinh, đưa dắt muôn loài đến cõi
Niết Bàn an lạc.
-
Lao Độ Sai
vừa giơ dao lên chém, trên cây có ông Thụ Thần, chỉ ngón tay vào đầu
làm cho Lao Độ Sai rời rụng chân tay vất dao xuống đất, mê mệt ngã
quay lơ.
-
Nhà vua ngửa
mặt bảo Thụ Thần rằng:
-
- Thụ Thần
ông nên biết, từ đời quá khứ tới nay, dưới gốc cây này, tôi đã bố thí
chín trăm chín mươi chín cái đầu, hôm nay bố thí cái nữa, là đủ ngàn.
Đối với nguyện bố thí của tôi đã sắp được hoàn toàn, ông đừng làm rắc
rối nữa, cản trở đạo tâm bố thí của tôi làm chi!
-
Ông Thụ Thần
nghe vua nói xong, liền buông thả Lao Độ Sai được bình phục như cũ.
-
Thoát ách ông
Thụ Thần làm ám ảnh, Lao Độ Sai đứng dậy múa dao chém ngang cổ vua một
nhát rất mạnh, đầu rơi vào tay, nhà vua kính cẩn dâng lên biếu Lao Độ
Sai.
-
Ngay giờ phút
này, trời đất đều chấn động, các cung điện trên thiên cung nghiêng
ngã, các ông thiên tử không biết điềm tướng gì, ngó cõi nhân gian,
thấy một vị Bồ Tát vì chúng sinh bố thí đầu, đều bay xuống xem, cảm
động quá! Rơi lệ như mưa, lại khen rằng:
-
- Bồ Tát,
Ngài làm hạnh xuất tục siêu phàm, chưa từng ai dám cả gan làm hạnh bố
thí được như Ngài, vô cùng tận chúng sinh đều phải thán phục, sự thực
hành vô ngã tướng này.
-
Vua Tỳ Ma Tư
Na sau khi hay tin Lao Độ Sai đã lấy được đầu trở về nước vui mừng
quá! Vì sức vui lên cực độ nổ tim chết.
-
Lao Độ Sai
xách đầu ra về, vua quan dân chúng, phu nhân Thái tử nhìn thấy đều lăn
đùng ra đất, gảo khóc! Có người cảm thương quá thổ quyết chết! Có
người đứng ngay đơ không biết gì, các bà dứt tóc ra từng mảnh, người
xé quần xé áo, người cào mặt be bét, máu chảy đầm địa, lăn lộn trên
mặt đất!
-
Lao Độ Sai
đem đầu đi được mấy hôm, thấy hôi thối ghê tởm, vất xuống đạp lên trên
mà đi, nhân dân thấy, họ la mắng dữ dội. Anh là kẻ bất lương, ác độc,
không dùng xin làm chi, đi tới đâu họ cũng nguyền rủa chửi mắng, họ
lại ngăn cấm không được ai cho ăn, nên anh chịu nhịn đói, nửa đường
gặp người quen, anh hỏi thăm vua Tỳ Ma Tư Na họ đáp rằng: "Nhà vua
mừng quá nổ tim chết".
-
Lao Độ Sai
buồn quá, vỡ tim chết liền. Hai người đều phải vào địa ngục A Tỳ Nê
Lộ, còn những người vì thương vua mà chết, nên được sinh thiên.
-
Nói tới đây
Phật nhắc lại rằng:
-
- A Nan! Ông
nên biết vua Nguyệt Quang thuở đó chính là tiền thân của ta, vua Tỳ Ma
Tư Na nay là Ma Ba Tuần, Lao Độ Sai nay là ông Điều Đạt, ông Thụ Thần
nay là ông Mục Kiền Liên, ông quan Đại Nguyệt nay là ông Xá Lợi Phất.
Thời bấy giờ ông không nỡ thấy ta chết, mà ông tự chết trước, cho đến
ngày nay ông cũng không nỡ nhìn thấy ta vào Niết Bàn mà ông nhập trước
đấy thôi.
-
Tôi cùng tất
cả đại chúng nghe Ngài nói xong, vừa thương Phật vừa cảm tấm lòng
nhiệt thành của ông Xá Lợi Phất, có thủy chung với Phật, đồng thanh
tán thán công đức rất nhiều, ai nấy đều phát tâm hiếu kính, nên có
người đắc sơ quả, đến tứ quả, có người phát tâm vô thượng, tạ lễ mà
lui.
--o0o--
|
|