|
KINH TẠNG
- PHẦN BỐN
- KINH HIỀN NGU
- H. T. Thích
Trung Quán Dịch
- --o0o--
-
Phẩm Thứ Ba Mươi Tám
-
CÁI SỰ
-
-
Chính tôi
được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại tinh xá vườn
Trúc. Lúc ấy tôi đương tọa thiền trong rừng tự nghĩ rằng:
-
- Đức
Phật xuất thế thực là một điềm lạ lùng, độ người nhiều như vậy. Sự
ăn uống đầy đủ, hơn nữa lại được hết khổ, tất cả vua, quan, dân
chúng được lợi ích vô cùng tận. Vì sao? Vì Ngài vạch đường chỉ
lối, cho thoát khỏi tam đồ ác đạo, đời vị lai được hưởng phúc báu
trên cõi nhân thiên, hơn nữa lại được đạo Niết Bàn. Nghĩ thế rồi
tôi đứng dậy về tinh xá. Khi đó đức Thế Tôn đương thuyết pháp cho
đại chúng nghe. Tôi mặc áo chễ vai bên hữu, tới trước quỳ gối bên
hữu xuống đất, chắp tay, chiêm ngưỡng rồi đem ý nghĩ trên bạch
Phật.
-
Phật dạy:
-
- A Nan!
Ông nghĩ như thế phải đấy, Như Lai ra đời cũng rất lạ, vì tất cả
chúng sinh được lợi ích lớn, và cũng không cứ gì ngày nay thế đâu,
đời quá khứ ta cũng đã làm lợi ích cho nhiều.
-
- Kính
lạy Ngài! Đời quá khứ Ngài làm lợi cho chúng sinh thế nào, cúi xin
nói lại cho chúng con được biết?
-
- A Nan!
Đời quá khứ tính số kiếp A Tăng Kỳ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù
Đề này, có bốn con sông, và hai ông vua nước lớn. Một ông tên là
Ba La Đề Bà (Tàu dịch Phạm Thiên), ông này chiếm cứ ba con sông,
nhân dân giàu thịnh, nhưng quân sự kém.
-
Một ông
tên là Phạt Sà Kiện Đề (Tàu dịch: Kim Cương Tụ), ông này có một
con sông, dân chúng ít, nhưng quân sự giỏi.
-
Vua Kim
Cương Tụ thầm nghĩ như vầy:
-
- Quân ta
hùng mạnh, có một con sông ít nước, vua Phạm Thiên quân lực kém,
chiếm giữ ba con sông, phải sai người sang đòi lại một con sông,
nếu trả thì ta chơi thân với, có của gì tốt ta sẽ biếu, nếu gặp sự
nguy biến ta sẽ đem quân sang cứu; nếu không, ta sẽ mang quân đánh
lấy lại!
-
Nghĩ thế
rồi triệu các quan Đại Thần vào bàn việc nước. Sau cuộc hội nghị,
nhà vua sai sứ mang thư sang cho vua Phạm Thiên, như trên đã định.
-
Vua Phạm
Thiên xem thư xong, thần nghĩ như vầy:
-
- Giang
sơn đất nước là của cha ta để lại, chớ không phải ta cướp đoạt của
hắn mà hắn đòi.
-
Nghĩ xong
bảo Sứ giả rằng:
-
- Giang
sơn đất nước không phải tự ta mà có, đây là của cha ta truyền lại,
vô cớ đem trả cho chúa nhà ngươi, cả một sự vô lý. Nếu chúa nhà
ngươi dùng quân lực chiến đấu, thì ta đây cũng không hẹp gì!
-
Sứ giả về
nước tâu vua như lời nói trên. Vua Kim Cương Tụ đem đại hùng binh
sang đánh một trận. Quân vua Phạm Thiên thất trận chạy tán loạn!
Thừa cơ, quân Kim Cương Tụ đuổi tới kinh thành, vây bốn mặt.
-
Quân vua
Phạm Thiên sợ không dám ra chiến đấu, các quan thấy sự nguy ngập
nên tâu rằng:
-
- Tâu Bệ
Hạ! Quân họ mạnh, quân ta yếu. Bệ Hạ tiếc chi một con sông mà để
di hại cho muôn dân, không chừng còn mất nước là đàng khác, cúi
xin Bệ Hạ trả lại cho họ còn có tình nghĩa hơn.
-
Nhà vua
đồng ý, sai người ra thưa với vua Kim Cương Tụ rằng:
-
- Tâu Bệ
Hạ! Chúa công tôi xin chấp thuận lời yêu cầu trước của Bệ Hạ, để
trả lại một con sông, và dâng vua thêm một người con gái. Từ đây
trở đi nếu nước nào có vật gì quý thì tặng lẫn cho nhau, gặp lúc
nguy hiểm thì sẽ bênh vực nhau!
-
Vua Kim
Cương Tụ đồng ý rút quân, rồi đem người con gái ấy về làm vợ.
-
Qua một
thời gian cô có thai, và luôn có một chiếc tán thất bảo che trên
đầu, đi, đứng, nằm, ngồi thường như vậy. Mãn kỳ sinh được cậu con
trai, thân sắc vàng, tóc xanh mướt, có bóng sáng lóng lánh nơi
thân thể. Từ khi sinh cậu ra, thì cái tán ấy lại che trên đầu cậu.
-
Nhà vua
với các thầy tướng vào xem, các thầy đều khen! Và tâu vua rằng:
-
- Tâu Bệ
Hạ! Quý hóa lắm. Thái tử nhân tướng đầy đủ, đức lực viên mãn, trên
đời có một không hai!
-
Nghe
tướng sư nói, nhà Vua và Hoàng hậu rất vui mừng! Lại nhờ đặt tên
cho Thái Tử.
-
Theo cổ
truyền, đặt tên phải căn cứ vào hai việc:
-
1- Điềm
lành.
-
2- Tinh
tú.
-
Tướng sư
tâu vua rằng:
-
- Tâu Bệ
Hạ! Khi hoài thai có điềm gì lạ không?
-
- Trong
khi hoài thai, có tán bằng thất bảo che trên đầu.
-
- Tâu Bệ
Hạ! Cứ theo điềm này xin đặt là: Sái La Già Lợi (Tàu dịch: Cái
Sự).
-
Thái tử
đến tuổi trưởng thành thì vua chết, an táng cho vua xong, Thái tử
lên nối ngôi, chấp chính được vài năm, thường đi chơi các miền quê
để quan sát dân sự làm ăn.
-
Trời nắng
như đốt, những người nông phu cởi trần trùng trục, với con trâu
kéo cày, tiếng kêu "cót két", dưới bãi đất lầy một cách lao khổ,
đọa đày thể xác.
-
Nhà vua
hỏi tả hữu rằng: - Những người này làm gì khó nhọc thế?
-
- Tâu Bệ
Hạ! Nước lấy dân làm gốc, dân lấy thóc làm mạng sống, nếu không
làm lụng khó nhọc, thì không lấy gì bảo tồn được mạng sống của
dân; dân nếu nghèo thì nước phải nguy vong!
-
Nhà vua
nói:
-
- Nếu
phúc đức của tôi được làm vua, thì nhân dân không phải cấy cày,
thóc lúa tự nhiên có đủ ăn dùng.
-
Nhà vua
nguyện xong, thì tất cả trong nước nhà ai cũng có lúa thóc, tuỳ
lòng ước muốn thứ lúa nào, thì có thứ lúa ấy, từ đó nhân dân không
phải cày cấy, thức ăn tự nhiên có sẵn.
-
Thời gian
sau, nhà vua đi ra lần thứ hai, thấy những người dân, đẵn củi,
gánh nước, giã gạo mồ hôi nhễ nhại, coi rất khó nhọc. Nhà vua hỏi
các quan rằng:
-
- Những
người này làm gì mà lao khổ như thế?
-
- Tâu Bệ
Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, được lúa thóc tự nhiên, không phải cày
cấy. Nhưng phải xay giã, kiếm củi nấu chín mới ăn được; vì thế họ
còn phải khó nhọc!
-
Nhà vua
nói:
-
- Nếu
phúc đức tôi được làm vua, thì xin cho dân nước tôi, khi muốn thì
các món ăn tự nhiên hiện ra trước mặt.
-
Nhà vua
nói sao được vậy. Từ đó nhân dân đều được các món ăn tự nhiên chứ
không phải làm.
-
Qua thời
gian ấy vua lại đi chơi, thấy người kéo bông, se chỉ, dệt vải may
áo, vua hỏi rằng:
-
- Những
người này làm gì, coi vẻ khó nhọc như thế?
-
- Tâu Bệ
Hạ! Nhân dân nhờ ơn đức hóa của Bệ Hạ, được món ăn tự nhiên, giờ
đây họ dệt vải để may áo mặc.
-
Nhà vua
nói:
-
- Nếu
phúc đức của tôi được làm vua, thì khiến cho những cây cối trong
nước sinh ra các thứ áo!
-
Nói xong,
tất cả cây cối trên mặt đất đều sinh ra các thứ áo xanh, vàng, đỏ,
trắng, tuỳ theo ý muốn của từng người ưa thích.
-
Qua thời
gian ấy vua lại đi chơi, thấy các người dân đua nhau làm các thứ
âm nhạc, hỏi rằng:
-
- Những
người này họ làm cái gì như vậy?
-
- Tâu Bệ
Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, ăn mặc được đầy đủ, giờ đây họ làm các
thứ âm nhạc, để ca hát vui chơi cho khoái chí!
-
Nhà vua
nói:
-
- Nếu
phúc đức của tôi được làm vua, thì khiến cho các cây cối trên mặt
đất, sinh ra các đồ âm nhạc, theo ý muốn của từng người ưa thích.
-
Nói xong,
thì tất cả các cây trên mặt đất đều sinh ra các thứ nhạc khí.
-
Qua thời
gian sau, các quan bản triều đến bái tạ! Nơi điện tiền nhà vua,
khi tới bữa ăn, vua lưu lại dùng cơm. Hôm ấy các quân được thưởng
thức các món ăn của nhà vua, nhận thấy ngon lành quá, nghĩa là
chưa từng được ăn bao giờ, ăn vào thân thể khỏe mạnh sung sướng,
họ đều tâu vua rằng:
-
- Tâu Bệ
Hạ! Nhà Hạ Thần không bao giờ có các món ăn này, vừa ngon lành lại
vừa khỏe mạnh, ăn vào thấy thân tâm an lạc.
-
- Nhà vua
nói:
-
- Các ông
muốn thường được thức ăn như hôm nay, cứ theo đúng giờ ăn của tôi
mà ăn, thì sẽ được các món ăn ngon lành.
-
Sau nhà
vua sắc lệnh cho toàn quốc, khi tới giờ vua ăn, phải đánh trống
báo cho nhân dân biết. Từ đó nhân dân hễ nghe tiếng trống báo, thì
họ nghĩ đến việc ăn, cho nên toàn thể dân chúng trong nước, ai ai
cũng được thức ăn ngon như nhà vua.
-
Khi đó
vua Phạm Vương sai sứ sang nói với vua Cái Sự rằng:
-
- Tại
thời cha ngươi, ta cho một con sông, bây giờ cha ngươi chết rồi
thì trả lại cho ta!
-
Cái Sự
bảo Sứ rằng:
-
- Bờ cõi
giang sơn đây, cũng không phải ta áp bức của nhà ngươi mà lấy.
Song ta làm vua không để mệt sức cho dân, nhưng đó là một việc
nhỏ, hãy hoãn lại, sau đây ta với chúa của nhà ngươi được gặp
nhau, để nói cái việc thiết yếu của giữa hai nước.
-
Sứ giả về
tâu vua như lời nói trên. Phạm Vương đồng ý, định ngày để gặp.
-
Ngày hẹn
đã tới, hai ông đều đem quân ra bờ sông giáp ranh giới, lên thuyền
ra giữa sông để tương kiến.
-
Vua Phạm
Thiên thấy vua Cái Sự thân sáng rực như núi vàng, tóc mượt như lưu
ly, mắt sáng tợ sao ngôi, mồm tươi như hoa nở, mũi thẳng, mặt
vuông, tai chùng, oai phong lẫm liệt, tự phát sinh lòng kính
trọng, cho rằng: - Một ông Trời Đại Phạm, hai người gặp nhau bàn
luận về việc đời nước sông!
-
Cái Sự
nói:
-
- Nhân
dân nước tôi sự ăn dùng tự nhiên có, không phải tạo tác mệt nhọc,
và cũng không phải thâu thuế phạt tiền, tôi không bao giờ bắt dân
công làm việc cho nhà vua.
-
Đương đàm
luận thì tới giờ ăn, quân gia của vua Cái Sự đánh trống. Vua Phạm
Thiên run sợ! Cho rằng họ bắt mình để giết, liền đứng dậy tạ lỗi,
chân tay lẩy bẩy.
-
Vua Cái
Sự đứng lên đỡ ông ngồi xuống và nói rằng:
-
- Nhà vua
làm sao sợ hãi như vậy? Đó là tới giờ ăn, quân đội của tôi đánh
trống báo! Vì theo đúng giờ ăn của tôi, thì dân chúng sẽ được
nhiều thức ăn ngon!
-
Vua Phạm
Thiên chắp tay thưa rằng:
-
- Muôn
xin Đại Vương thương đên quốc dân chúng tôi, cũng được các món ăn
tự nhiên và từ nay chúng tôi xin hàng phục.
-
Từ đó vua
Cái Sự cai trị tất cả nhân dân các nước Châu Diêm Phù Đề.
-
Sau ngày
đăng vị ngồi trên bảo điện, quần liêu bách Quan đứng hầu túc trực
suốt ngày đêm.
-
Buổi sớm
ấy, khi mặt trời mới mọc, có xe Kim Luân bảo, bay từ phương Đông
tới, vua Cái Sự từ trên tòa bước xuống, quỳ thẳng chắp tay hướng
lên, lấy tay với, xe ấy dừng lại ngay, đẹp đẽ có quang minh chiếu
ra bốn mặt.
-
Nhà vua
nói rằng:
-
- Nếu tôi
được làm Chuyển Luân Vương, thì xin xe này ở lại đây!
-
Nói xong,
xe Kim Luân ấy đứng trên hư không trước điện nhà Vua, cách đất bảy
cây Đa La, rồi đó tượng bảo, thần châu, ngọc nữ, điển binh, điện
tạng, lần lượt bay tới.
-
Vua Cái
Sự từ đó được làm Chuyển Luân Vương, thất bảo đầy đủ, cai trị bốn
thiên hạ, tất cả chúng sinh nhờ đức hóa an vui sung sướng. Theo
chính sách của nhà Vua nhân dân tu theo mười điều lành:
-
1- Không
sát sinh
-
2- Không
trộm cướp
-
3
-
Không tà dâm
-
4
-
Không nói dối
-
5
-
Không nói lưỡi đôi chiều
-
6
-
Không nói ác
-
7- Không
nói đơm đặt
-
8- Không
tham lam
-
9
-
Không giận tức
-
10.
-
Không si mê.
-
Sau khi
mạng chung được sinh lên cõi Trời tất cả.
-
Nói tới
đây, Phật nhắc lại rằng:
-
- A Nan!
Ông nên biết: vua Cái Sự thuở đó, há phải là ai đâu, chính là tiền
thân của ta đấy; vua Kim Cương Tụ là thân phụ ta ngày nay (vua
Tịnh Phạn), và sinh ra vua Cái Sự, nay là mẫu thân ta (Ma Gia).
-
Bởi ta có
từ tâm thương chúng sinh, thường cho của cải, cho đạo pháp, để dắt
dẫn họ, vì nhân duyên ấy đến nay thành Phật, đặc tôn trong ba cõi,
không ai sánh kịp. Cũng vì thế chúng sinh biết tu tập lòng từ bi
rộng lớn, lợi ích vô biên.
-
Tôi lại
thưa rằng:
-
- Kính
lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, vua Cái Sự làm Chuyện Luân
Vương, tại nhân duyên gì mà được? Và khi nhập thai đã có tán thất
bảo che theo, kính xin nói cho chúng con được rõ?
-
Phật dạy:
-
- A Nan!
Đời quá khứ cách nay đã lâu lắm, tính số kiếp A Tăng Kỳ có đến vô
lượng, cũng Châu Diêm Phù Đề này, trong quả núi Tiên có vị Bích
Chi Phật, mắc chứng bệnh phong, thầy thuốc nói phải dùng sữa bò
mới khỏi.
-
Bấy giờ
người lái buôn tên là A Lợi Gia Mật La (Tàu dịch: Thánh Hữu). Ngài
Bích Chi Phật nói bệnh cho ông nghe và để ông cúng dàng sữa.
-
Ông lài
buôn Thánh Hữu hoan hỷ cúng dàng. Ngài dùng được ba tháng thì khỏi
bệnh. Cảm ơn ấy muốn cho thí chủ được ích lợi lớn nên Ngài bay lên
hư không đi, đứng, nằm, ngồi, thân phun ra nước lửa, lúc hiện thân
lớn đầy hư không, rồi thu nhỏ lại như chiếc lông mùa Thu; cứ như
thế biến hiện ra mười tám lần.
-
Ông Thấnh
Hữu thấy thế rất vui mừng! Và từ trên hư không hạ xuống để nạp thụ
sự cúng dàng. Qua một thời gian ngài nhập Niết Bàn.
-
Ông Thánh
Hữu thương nhớ, làm lễ hỏa thiêu cúng dàng, thu lấy Xá Lợi đựng
vào bình vàng, và xây một bảo tháp, để bình vàng Xá Lợi vào trong,
lại làm một cái tán che trên, hàng ngày đem hương hoa âm nhạc cúng
dàng, suốt đời thờ phụng.
-
Nói tới
đây Phật nhắc lại rằng:
-
- A Nan!
Ông nên biết: ông Thánh Hữu do công đức cúng dàng vị Bích Chi
Phật, nên được phúc báo vô lượng kiếp, sinhl lên cõi Trời hoặc cõi
nhân gian, đều được tôn vinh sung sướng, khi ở thai có tán báu che
trên. Ông nên biết: Thánh Hữu thuở đó chính là tiền thân ta đấy.
Vậy tất cả chúng sinh bất luận xuất gia hay tại gia cũng nên tu
phúc làm sự nhiệp, đời đời kiếp kiếp sẽ được lợi ích vô lượng vô
biên như thế đó.
-
Bấy giờ
tôi và mọi người trong cuộc thuyết pháp này, ai nấy đều vui sướng
phát tâm tu phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra.
--o0o--
|
|