KINH SỢ HÃI VÀ KHIẾP ĐẢM
(Bhayabheravasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana
(Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Rồi Bà-la-môn
Janussoni đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, nói lên những lời chào
đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Janussoni bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, có những Thiện nam tử, vì lòng tin
Tôn giả Gotama, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Đối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị lãnh đạo. Đối với những
vị này, Tôn giả Gotama giúp ích rất nhiều. Đối với những vị này,
Tôn giả Gotama là vị khích lệ sách tấn. Các vị này chấp nhận tuân
theo quan điểm của Tôn giả Gotama.
– Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật
sự là vậy. Này Bà-la-môn, có những Thiện nam tử, vì lòng tin nơi
Ta, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta là vị
lãnh đạo của họ. Ta đã giúp ích rất nhiều cho họ. Ta là vị khích
lệ sách tấn cho họ. Và các vị này chấp nhận tuân theo quan điểm
của Ta.
– Tôn giả Gotama, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa
vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật
khó thưởng thức đời sống độc cư! Con nghĩ rằng rừng núi làm rối
loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chư hứng Thiền định.
– Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật
sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng
trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó
thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn
tâm trí vị Tỷ-kheo chư hứng Thiền định.
– Này Bà-la-môn, xưa kia khi T hư hứng ngộ chánh đẳng
giác, khi còn là Bồ-tát, Ta nghĩ như sau: "Thật khó kham nhẫn
những trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời
sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng
rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chư hứng Thiền định!" Này
Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, thân
nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không thanh
tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thân nghiệp không
thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu.
Thân nghiệp Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với
thân nghiệp thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát thân nghiệp hoàn toàn
thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi
sống trong rừng núi. Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy
nghĩ như sau: "Những Sa-môn, hay Bà-la-môn nào, có khẩu nghiệp
không thanh tịnh... (như trên)... có ý nghiệp không thanh tịnh...
(như trên)... có mạng sống không thanh tịnh sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước mạng
sống không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc
chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có
mạng sống không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu. Mạng sống Ta thanh tịnh. Ta là một trong những
bậc Thánh, với mạng sống thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát mạng sống
hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng
hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào tham dục, có ái dục cường
liệt, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do
nguyên nhân nhiễm trước tham dục, có ái dục cường liệt, những Tôn
giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm,
bất thiện khởi lên. Ta không có tham dục, ái dục cường liệt, sống
tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta không có tham
dục, Ta là một trong những bậc Thánh, không có tham dục, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự
quán sát Ta không có tham dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin
được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có tâm sân hận ác ý, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
trước, có tâm sân hận ác ý, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy
chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không
có tâm sân hận, ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi
hoang vu. T ó từ tâm. Ta là một trong những bậc Thánh có từ tâm,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này
Bà-la-môn, Ta tự quán sát T ó từ tâm như vậy, T ảm thấy lòng tự
tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị hôn trầm thụy miên chi
phối, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do
nguyên nhân nhiễm trước bị hôn trầm thụy miên chi phối, những Tôn
giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm,
bất thiện khởi lên. Ta không bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có hôn
trầm thụy miên. Ta là một trong những bậc Thánh không có hôn trầm
thụy miên, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu".
Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có hôn trầm thụy miên như
vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong
rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào dao động, tâm không an tịnh,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên
nhân nhiễm trước bị dao động, tâm không an tịnh, những Tôn giả
Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất
thiện khởi lên. Ta không có dao động, tâm không phải không an
tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta
không có dao động, tâm được an tịnh. Ta là một trong những bậc
Thánh không có dao động, tâm được an tịnh, sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm
Ta được an tịnh như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng
hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào nghi hoặc, do dự, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
trước nghi hoặc, do dự, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc
chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có
nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu. Ta diệt trừ được do dự. Ta là một trong những bậc Thánh
diệt trừ được nghi hoặc, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta diệt trừ được
nghi hoặc như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi
sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào khen mình, chê người sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
trước khen mình, chê người, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy
chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không
có khen mình, chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu. Ta không có khen mình, không có chê người, Ta là một
trong những bậc Thánh không có khen mình, không có chê người, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn,
Ta tự quán sát tâm Ta không có khen mình, không có chê người như
vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong
rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào run rẩy, sợ hãi sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước run rẩy,
sợ hãi, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có run rẩy, sợ hãi,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có
lông tóc dựng ngược, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có lông tóc dựng
ngược, Ta là một trong những bậc Thánh, không có lông tóc dựng
ngược như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi
sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào ham muốn lợi dưỡng, cung
kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang
vu, do nguyên nhân nhiễm trước ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh
vọng, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có ham muốn lợi
dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu. Ta là người ít dục. Ta là một trong những bậc
Thánh ít dục, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang
vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta là người ít dục như vậy, tự
cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào biếng nhác, kém tinh tấn,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên
nhân nhiễm trước biếng nhác, kém tinh tấn, những Tôn giả Sa-môn
hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện
khởi lên. Ta không có biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú
xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta siêng năng, tinh tấn. Ta
là một trong những bậc Thánh siêng năng, tinh tấn, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự
quán sát Ta siêng năng, tinh tấn như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin
được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thất niệm, không tỉnh giác,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên
nhân nhiễm trước thất niệm, không tỉnh giác, những Tôn giả Sa-môn
hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện
khởi lên. Ta không có thất niệm, không phải không tỉnh giác, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta an trú niệm.
Ta là một trong những bậc Thánh an trú niệm, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta quán sát Ta
an trú niệm như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn,
khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không định tĩnh, tâm bị tán
loạn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do
nguyên nhân nhiễm trước không định tĩnh, tâm bị tán loạn, những
Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp
đảm, bất thiện khởi lên. Ta được định tĩnh, tâm không bị tán loạn
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu
định tâm. Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu định tâm, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn,
Ta tự quán sát Ta thành tựu định tâm như vậy, từ cảm thấy lòng tự
tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào liệt tuệ, đần độn, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Do nguyên nhân nhiễm
trước liệt tuệ, đần độn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy
chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không
có liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu. Ta thành tựu trí tuệ. Ta là một trong những bậc Thánh
thành tựu trí tuệ, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu trí tuệ như
vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong
rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như
sau: "Trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn,
đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy,
Ta hãy đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược, như tự
miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các
cây cối, để T ó thể thấy sự sợ hãi khiếp đảm ấy". Này Bà-la-môn,
sau một thời gian, trong những đêm được biết đến, được xác định,
đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nữa tháng, trong
những đêm như vậy, Ta đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng
ngược như vậy, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng
núi, tự miếu tại các cây cối. Này Bà-la-môn, trong khi ta ở tại
các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công làm rơi một
cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi lên ý nghĩ:
"Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến!". Này Bà-la-môn, rồi Ta suy
nghĩ: "Sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự sợ hãi khiếp đảm chớ không
gì khác? Trong bất cứ hành vi cử chỉ nào của Ta mà sợ hãi khiếp
đảm ấy đến, trong hành vi cử chỉ ấy, Ta hãy trừ diệt sợ hãi khiếp
đảm ấy". Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sợ hãi
khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi,
Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta
đi kinh hành qua lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang đứng mà sự
sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không kinh hành qua
lại, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp
đảm ấy trong khi Ta đang đứng. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang
ngồi mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không nằm,
Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ
hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang ngồi. Này Bà-la-môn, trong khi
Ta đang nằm mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta
không ngồi, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta
trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang nằm.
Này Bà-la-môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng
ngày giống như đêm, nghĩ rằng đêm giống như ngày. Như vậy, Ta nói
rằng những Sa-môn, Bà-la-môn ấy sống trong si ám. Này Bà-la-môn,
Ta nghĩ rằng đêm là đêm, nghĩ rằng ngày là ngày. Này Bà-la-môn, ai
nói một cách chơn chánh sẽ nói như sau: "Vị hữu tình nào không có
si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho
muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc,
vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Vị ấy khi nói một cách chân
chánh về Ta sẽ nói như sau: "Là vị hữu tình không có si ám, sinh
ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
loài Trời và loài Người". Này Bà-la-môn, Ta tinh cần, tinh tấn,
không lười biếng. Ta an trú chánh niệm, không có loạn, thân được
khinh an, không có dao động, tâm được định tĩnh, chuyên nhất. Này
Bà-la-môn, Ta ly dục, ly các ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Diệt tầm,
diệt tứ, T hứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
xả niệm lạc trú, T hứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc và xả khổ,
diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, T hứng và an trú Thiền thứ tư, không
khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng trí. Ta nhớ đến các đời sống
quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời,
hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm
đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại
kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng:
"Tại chỗ kia, T ó tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp
như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi
thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra
tại chỗ này. Tại chỗ này, T ó tên như thế này, dòng họ như thế
này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như
thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ này,
Ta được sanh ra ở đây". Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ
cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Bà-la-môn, trong
đêm canh đầu T hứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh sanh;
bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến sanh tử trí về chúng sanh. Ta với thiên
nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết củ húng sanh.
Ta tuệ tri rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp
đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời
nói, ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các
nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng
chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những
chúng sanh nào thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những
thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ
báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh
kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên
các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy với thiên nhãn
thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống chết củ húng sanh. Ta tuệ
tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ
thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Bà-la-môn, trong đêm canh giữa, T hứng được minh thứ hai, vô
minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta
sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Ta thắng tri như thật: "Đây
là khổ", thắng tri như thật: "Đây là nguyên nhân của khổ", thắng
tri như thật: "Đây là khổ diệt", thắng tri như thật: "Đây là con
đường đưa đến khổ diệt", thắng tri như thật: "Đây là những lậu
hoặc", thắng tri như thật: "Đây là nguyên nhân các lậu hoặc",
thắng tri như thật: "Đây là các lậu hoặc diệt", thắng tri như
thật: "Đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt". Nhờ biết như
vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi
hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như
vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã giải thoát. Ta đã thắng tri:
"Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn
trở lui trạng thái này nữa". Này Bà-la-môn trong đêm canh ba, T
hứng được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh
sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật nhiệt tâm tinh cần.
Này Bà-la-môn, Ông có thể có tư tưởng như sau: "Nay
Sa-môn Gotam hưa diệt trừ tham, chưa diệt trừ sân, chưa diệt trừ
si, nên sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này
Bà-la-môn, chớ có hiểu như vậy. Do Ta quán sát hai mục đích mà Ta
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Tự thấy sự
hiện tại lạc trú và vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương
lai.
– Chúng sanh trong tương lai được Tôn giả Gotama
thương tưởng, vì Tôn giả là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật vi
diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!...
Như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những
gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào
trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải
thích. Con quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng.
Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng
chung, con trọn đời quy ngưỡng.