Kinh Trung Bộ
H. T. Thích Minh Châu Dịch
KINH AN TRÚ TẦM
(Vitakkasanthanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana
(Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Tại đây, Thế Tôn
gọi các Tỷ-kheo: "Chư Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn", các
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn thực tu tăng thượng tâm
cần phải thường thường tác ý năm tướng. Thế nào là năm? Ở đây,
Tỷ-kheo y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên
hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến
thiện không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến
thiện, không phải tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục,
liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong.
Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm,
định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người thợ mộc thiện xảo hay đệ
tử một người thợ mộc, dùng một cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh tung
ra, đánh văng ra một cái nêm khác; chư Tỷ-kheo, cũng vậy, khi một
Tỷ-kheo y cứ một tướng nào, tác ý một tướng nào, các ác bất thiện
tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi,
thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác
liên hệ đến thiện, không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác
liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác bất thiện tầm liên
hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến
diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh,
nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy khi tác ý một tướng khác
với tướng kia, liên hệ đến thiện, các ác bất thiện tầm liên hệ đến
dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải quán sát các nguy hiểm của những tầm
ấy: "Đây là những tầm bất thiện, đây là những tầm có tội, đây là
những tầm có khổ báo". Nhờ quán sát các nguy hiểm của những tầm
ấy, các bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng,
nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví
như một người đàn bà hay người đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh
xuân, tánh ưa trang sức nếu một xác rắn, hay xác chó, hay xác
người được quàng vào cổ, người ấy phải lo âu, xấu hổ, ghê tởm. Chư
Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy nhờ quán sát... nội tâm được an
trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi quán sát các
nguy hiểm của những tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục,
liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải không ức niệm, không tác ý những tầm
ấy. Nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác bất thiện
tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ
diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an
trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người
có mắt, không muốn thấy các sắc pháp nằm trong tầm mắt của mình,
người ấy nhắm mắt lại hay ngó qua một bên. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy,
nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi không ức niệm, không tác ý... được an
trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi không ức niệm,
không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục,
liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên. Chư Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các
tầm ấy. Nhờ tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy,
các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục... được an trú, an tịnh,
nhất tâm, định tĩnh. Ví như một người đang đi mau, suy nghĩ: "Tại
sao ta-lại đi mau? Ta hãy đi chậm lại". Trong khi đi chậm, người
ấy suy nghĩ: "Tại sao ta-lại đi chậm? Ta hãy dừng lại". Trong khi
dừng lại, người ấy suy nghĩ: "Tại sao Ta lại dừng lại? Ta hãy ngồi
xuống". Trong khi ngồi, người ấy suy nghĩ: "Tại sao ta-lại ngồi?
Ta hãy nằm xuống". Chư Tỷ-kheo, như vậy người ấy bỏ dần các cử chỉ
thô cứng nhất và làm theo các cử chỉ tế nhị nhất. Chư Tỷ-kheo,
cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy tác ý đến... (như trên)... được an tịnh,
nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý đến hành
tướng các tầm và sự an trú các tâm, các ác, bất thiện tầm liên
hệ... đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải
nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm,
nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên
nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các
ác bất thiện tầm liên hệ đến dục... liên hệ đến si được trừ diệt,
đi đến diệt vong... được an trú, an tịnh nhất tâm, định tĩnh. Ví
như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu, hay nắm lấy
vai, có thể chế ngự, nhiếp phục, và đánh bại. Chư Tỷ-kheo, cũng
vậy, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý hành tướng các tầm và sự an
trú các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến
sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy
phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm,
nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên
nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các
ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si
được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ trừ diệt chúng, nội tâm
được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, trong khi y cứ tướng nào,
tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến
sân, liên hệ đến si sanh khởi. Tỷ-kheo ấy tác ý một tướng khác,
liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác, bất thiện tầm liên
hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được diệt trừ, đi đến
diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh,
nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy, nhờ quán sát sự nguy hiểm các tầm ấy, các
ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si
được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm
được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy, nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy,
các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng,
nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy tác ý hành tướng các tầm và an trú các tầm,
các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng,
nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng,
lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác, bất
thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được
trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được
an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã an trú trong
đọa tầm pháp môn. Vị ấy có thể tác ý đến tầm nào vị ấy muốn, có
thể không tác ý đến tầm nào vị ấy không muốn; vị ấy đã đoạn trừ
khát ái, đã giải thoát các kiết sử, khéo chinh phục kiêu mạn, đã
chấm dứt khổ đau.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ,
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- --o0o--
|