KINH TRẠM XE
(Rathavivutasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá) tại Veluvana
(Trúc Lâm), Kalandakanivapa. Lúc ấy một số đông Tỷ-kheo người
địa phương, sau khi an cư mùa mưa tại địa phương xong, liền đến
chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi một bên:
– Này các Tỷ-kheo, ai ở tại địa phương được các
Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: "Tự
mình thiểu dục và giảng về thiểu dục cho các Tỷ-kheo; tự mình
tri túc và giảng về tri túc cho các Tỷ-kheo; tự mình độc cư và
giảng về độc cư cho các Tỷ-kheo; tự mình không ô nhiễm và giảng
về không ô nhiễm cho các Tỷ-kheo; tự mình tinh cần, tinh tấn và
giảng về tinh cần, tinh tấn cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu
giới hạnh và giảng về thành tựu giới hạnh cho các Tỷ-kheo; tự
mình thành tựu Thiền định và giảng về thành tựu Thiền định cho
các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu trí tuệ và nói về thành tựu trí
tuệ cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải thoát và nói về
thành tựu giải thoát cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải
thoát tri kiến và nói về thành tựu giải thoát tri kiến cho các
Tỷ-kheo; vị giáo giới, vị khai thị, vị trình bày, vị khích lệ,
vị làm cho phấn khởi, vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ".
– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Punna Mantaniputta-là
Tỷ-kheo địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa
phương tán thán như sau: "Tự mình thiểu dục và nói về thiểu dục
cho các Tỷ-kheo... (như trên)... vị làm cho các vị đồng phạm
hạnh hoan hỷ.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta ngồi cách Thế Tôn
không xa. Tôn giả Sariputta suy nghĩ như sau: "Hạnh phúc thay
Tôn giả Punna Mantaniputta! Chơn hạnh phúc thay Tôn giả Punna
Mantaniputta! Tôn giả đã được các vị đồng phạm hạnh có trí tán
thán từng điểm một trước mặt bậc Đạo Sư, và được bậc Đạo Sư chấp
nhận; có thể chúng ta sẽ gặp Tôn giả Punna Mantaniputta, tại một
chỗ nào, trong một thời gian nào, có thể sẽ có một cuộc đàm luận
với Tôn giả.
Thế Tôn trú tại Rajagaha (Vương Xá) lâu cho đến khi
vừa ý, rồi khởi hành đi Savatthi; Ngài tuần tự đi và đến
Savatthi. Ở đây, Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông
Anathapindika. Tôn giả Punna Mantaniputta được nghe: "Thế Tôn đã
đến Savatthi, trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông
Anathapindika". Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta thâu dọn lại sàng
tọa, cầm y bát, khởi hành đi Savatthi. Tôn giả tuần tự đi đến
Savatthi, Jetavana, vườn ông Anathapindika, đến chỗ Thế Tôn ở,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn
thuyết pháp cho Tôn giả Punna Mantaniputta đang ngồi một bên,
khích lệ, làm cho hoan hỷ. Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi
được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ đi Andhavana
để nghỉ trưa.
Rồi một Tỷ-kheo khác đến chỗ Tôn giả Sariputta ở,
sau khi đến, thưa với Tôn giả Sariputta: "Hiền giả Sariputta,
Hiền giả luôn luôn tán dương Tỷ-kheo Punna Mantaniputta; vị này
được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, từ tạ đi đến
Andhavana để nghỉ trưa". Rồi Tôn giả Sariputta vội vã đem theo
tọ ụ, đi theo sau lưng Tôn giả Punna Mantaniputta, đầu hướng về
trước mặt (để theo dõi). Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta đi sâu
vào rừng Andhavana, và ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Tôn giả
Sariputta, sau khi đi sâu vào rừng Andhavana, ngồi nghỉ trưa
dưới một gốc cây. Rồi vào buổi chiều, Tôn giả Sariputta từ Thiền
định độc cư đứng dậy, đến tại chỗ Tôn giả Punna Mantaniputta,
sau khi đến nói lên với Tôn giả Punna Mantaniputta những lời
chào đón, hỏi thăm, xã giao rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Sariputta thưa với Tôn giả Punna Mantaniputta:
– Hiền giả, có phải chúng ta sống phạm hạnh dưới sự
chỉ dạy của Thế Tôn?
– Thật như vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là mục đích kiến thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích đạo tri kiến thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích kiến thanh tịnh... (như trên).".
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy
của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
Và Hiền giả trả lời:
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, vậy với mục đích gì, sống phạm hạnh dưới
sự chỉ dạy của Thế Tôn?
– Hiền giả, với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn,
nên sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn.
– Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước
Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô thủ trước
Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải kiến thanh tịnh là vô thủ trước
Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đoạn nghi thanh tịnh là vô thủ
trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh
là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đạo tri kiến thanh tịnh là vô
thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ
trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải cái gì ngoài các pháp này là vô
thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước
Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô thủ trước
Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Có phải kiến thanh tịnh... (như trên)...
– Có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước
Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước
Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, vậy ý nghĩa lời nói này cần phải được
hiểu như thế nào?
– Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố giới thanh tịnh là
vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước
Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền
giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tâm thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế
Tôn tuyên bố kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố
đoạn nghi thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo phi
đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo
tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến
thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố
vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước
Bát-niết-bàn. Hiền giả, và nếu Thế Tôn tuyên bo ái gì ngoài các
pháp ấy là vô thủ trước Bát-niết-bàn, thì kẻ phàm phu có thể
Bát-niết-bàn, vì này Hiền giả, phàm phu là ngoài các pháp ấy.
Hiền giả, tôi sẽ cho Hiền giả một ví dụ, ở đây, một số kẻ có
trí, nhờ ví dụ để hiểu ý nghĩ ủa lời nói. Hiền giả, như vua
Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Savatthi, có công việc khẩn
cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho vua giữa
Savatthi và Saketa. Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ Kosala, từ cửa
nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ
trạm thứ nhất đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất,
leo lên trạm xe thứ hai, nhờ trạm xe thứ hai đến được trạm xe
thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ
trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ
tư, leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm xe thứ năm đến được trạm
xe thứ sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ
trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ
sáu, leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến được
Saketa, tại cửa nội thành. Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ
trưởng cận thần, các thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:
– Tâu Đại vương có phải với trạm xe này, Bệ hạ đi từ
Savatthi đến Saketa tại cửa nội thành?"
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như
thế nào mới gọi là trả lời đúng đắn?
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như
thế này mới trả lời đúng đắn:
– Ở đây, trong khi ta ở Savatthi, có công việc khẩn
cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho ta, giữa
Savatthi và Saketa. Ta từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo
lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất, ta đến được trạm
xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ hai;
và nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm
xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba...
đến được trạm xe thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư... đến được trạm
xe thứ sáu; từ bỏ trạm xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ
trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ
sáu... leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến được
Saketa, tại cửa nội thành".
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala trả lời như vậy
mới trả lời một cách đúng đắn.
Cũng vậy, này Hiền giả, giới thanh tịnh chỉ có mục
đích (đạt cho được) tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh chỉ có mục
đích (đạt cho được) kiến thanh tịnh; kiến thanh tịnh chỉ có mục
đích (đạt cho được) đoạn nghi thanh tịnh; đoạn nghi thanh tịnh
chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh;
đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được)
đạo tri kiến thanh tịnh; đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích
(đạt cho được) tri kiến thanh tịnh; tri kiến thanh tịnh chỉ có
mục đích (đạt cho được)vô thủ trước Bát-niết-bàn. Này Hiền giả,
sống phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn là với mục đích vô
thủ trước Bát-niết-bàn.
Khi được nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả
Punna Mantaniputta:
– Tôn giả tên là gì? Và các vị đồng phạm hạnh biết
Tôn giả như thế nào?
– Hiền giả, tên tôi là Punna và các vị đồng phạm
hạnh biết tôi là Mantaniputta.
– Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay,
Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm một
bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Đạo Sư, và
vị đệ tử ấy là Tôn giả Punna Mantaniputta. Thật hạnh phúc thay
cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị
đồng phạm hạnh được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna
Mantaniputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Punna
Mantaniputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm
viếng, để được thân cận, thì thật là hạnh phúc cho các vị ấy,
thật là chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng
tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được
thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta!
Khi được nói vậy, Tôn giả Punna Mantaniputta nói với
Tôn giả Sariputta:
– Tôn giả tên là gì, và các vị đồng phạm hạnh biết
Tôn giả như thế nào?
– Hiền giả, tôi tên là Upatissa, và các vị đồng phạm
hạnh biết tôi là Sariputta.
– Tôi đang luận bàn với bậc đệ tử được xem là ngang
hàng với bậc Đạo Sư mà không được biết là Tôn giả Sariputta. Nếu
chúng tôi được biết là Tôn giả Sariputta, thì chúng tôi đã không
nói nhiều như vậy. Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu
thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm
một, bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Đạo
Sư. Và vị đệ tử ấy là Tôn giả Sariputta. Thật hạnh phúc thay cho
các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng
phạm hạnh... được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta!
Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sariputta trên đầu với một
cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, được thân cận, thì thật
hạnh phúc cho các vị ấy, thật chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật
hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được
thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta!
Như vậy, hai bậc cao đức ấy cùng nhau thiện thuyết,
cùng nhau tùy hỷ.