- ĐẠI
KINH PHƯƠNG QUẢNG
-
(Mahavedallasuttam)
-
- Như vầy tôi nghe.
- Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại
Jetavana, tịnh xá ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Mahakotthita (Đại Câu-hy-la), vào buổi chiều, khi thiền định
xong, đứng dậy, đi đến chỗ Tôn giả Sariputta ở, sau khi đến nói
lên với Tôn giả Sariputta những lời chào đón, hỏi thăm xã giao
rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả
Mahakotthita nói với Tôn giả Sariputta:
- – Này Hiền giả, liệt tuệ, liệt tuệ
(Suppanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được
gọi là liệt tuệ?
- – Này Hiền giả, vì không tuệ tri,
không tuệ tri (Nappajanati), này Hiền giả nên được gọi là liệt
tuệ. Không tuệ tri gì? Không tuệ tri: đây là Khổ, không tuệ tri:
đây là Khổ tập, không tuệ tri: đây là Khổ diệt, không tuệ tri:
đây là con đường đưa đến Khổ diệt. Vì không tuệ tri, không tuệ
tri, này Hiền giả, nên được gọi là liệt tuệ.
- – Lành thay, Hiền giả!
- Tôn giả Mahakotthita hoan hỷ, tín
thọ lời Tôn giả Sariputta nói, rồi hỏi Tôn giả Sariputta một câu
hỏi nữa:
- – Này Hiền giả, trí tuệ, trí tuệ
được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào là được gọi là
trí tuệ?
- – Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này
Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ. Có tuệ trí gì? Có tuệ tri:
đây là Khổ, có tuệ tri: đây là Khổ tập, có tuệ tri: đây là Khổ
diệt, có tuệ tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt. Vì có tuệ
tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ.
- – Thức, thức, này Hiền giả, được
gọi là như vậy, Này Hiền giả, như thế nào được gọi là thức?
- – Này Hiền giả, vì thức tri, thức
tri, này Hiền giả nên được gọi là có thức. Thức tri gì? Thức tri
lạc, thức tri khổ, thức tri bất khổ bất lạc. Vì thức tri, thức
tri, này Hiền giả, nên được gọi là có thức.
- – Nầy Hiền giả, trí tuệ như vậy,
thức như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết
hợp? Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau
khi phân tích chúng nhiều lần?
- – Này Hiền giả, trí tuệ như vậy,
thức như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết
hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau
khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì tuệ tri
được là thức tri được, điều gì thức tri được là tuệ tri được. Do
vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp, và
không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi
phân tích chúng nhiều lần.
- – Này Hiền giả, trí tuệ như vậy,
thức như vậy, thế nào là sự sai khác giữa những pháp được kết
hợp, không phải không kết hợp này?
- – Này Hiền giả, Trí tuệ như vậy,
thức như vậy, giữa những pháp được kết hợp, không phải không
được kết hợp này, trí tuệ cần phải được tu tập (Bhavetabba), còn
thức cần phải được liễu tri (Parinneyyam) như vậy là sự sai khác
giữa những pháp này.
- – Cảm thọ, cảm thọ, này Hiền giả,
được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là cảm
thọ?
- – Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ
(Vedeti), nên được gọi là cảm thọ. Và cảm thọ gì? Cảm thọ lạc,
cảm thọ khổ, cảm thọ bất khổ bất lạc thọ. Này Hiền giả, cảm thọ,
cảm thọ, nên được gọi là cảm thọ.
- – Này Hiền giả, tưởng, tưởng
(Sanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi
là tưởng?
- – Tưởng tri, tưởng tri
(Sanjanati), này Hiền giả, nên được gọi là tưởng, Và tưởng tri
gì? Tưởng tri màu xanh, tưởng tri màu vàng, tưởng tri màu đỏ,
tưởng tri màu trắng. Tưởng tri, tưởng tri, này Hiền giả, nên
được gọi là tưởng.
- – Này Hiền giả, thọ như vậy, tưởng
như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có
thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân
tích chúng nhiều lần?
- – Này Hiền giả, cảm thọ như vậy,
tưởng như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không
được kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp
này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì
cảm thọ được là tưởng tri được, điều gì tưởng tri được là cảm
thọ được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không
được kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những
pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.
- – Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh,
không liên hệ đến năm căn có thể đưa đến gì?
- – Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh,
không liên hệ đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ;
hư không là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; thức là vô
biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật gì.
- – Này Hiền giả, pháp gì đưa đến
nhờ gì có thể tuệ tri được?
- – Này Hiền giả, nhờ tuệ nhãn, pháp
được đưa đến có thể tuệ tri.
- – Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa
gì?
- – Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa
là thắng tri (Abhinnattha), có nghĩa là liễu tri (Parinnattha),
có nghĩa là đoạn tận (Pahanattha).
- – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên
khiến chánh tri kiến sanh khởi?
- – Này Hiền giả, có hai duyên khiến
chánh tri kiến sanh khởi: Tiếng của người khác và như lý tác ý.
Này Hiền giả, do hai duyên này, chánh tri kiến sanh khởi.
- – Này Hiền giả, chánh tri kiến
phải được hỗ trợ bởi bao nhiêu chi phần để có tâm giải thoát
quả, tâm giải thoát quả công đức, và tuệ giải thoát quả, tuệ
giải thoát quả công đức?
- – Này Hiền giả, chánh tri kiến
phải được hỗ trợ bởi năm chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm
giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát
quả công đức. Ở đây, này Hiền giả, chánh tri kiến có giới hỗ
trợ, có văn (Suta) hỗ trợ, có thảo luận hỗ trợ, có chỉ (Samatha)
hỗ trợ, có quán (Samadhi) hỗ trợ. Này Hiền giả, chánh tri kiến
được hỗ trợ bởi năm chi phần này để có tâm giải thoát quả, tâm
giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát
quả công đức.
- – Này Hiền giả, có bao nhiêu hữu
(Bhava)?
- – Này Hiền giả có ba hữu: dục hữu,
sắc hữu, vô sắc hữu.
- – Này Hiền giả, như thế nào sự tái
sanh trong tương lai được xảy ra?
- – Này Hiền giả, bị vô minh ngăn
che, bị tham ái trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này
chỗ kia, như vậy, sự tái sinh trong tương lai được xảy ra.
- – Này Hiền giả, như thế nào sự tái
sanh trong tương lai không xảy ra?
- – Này Hiền giả, vô minh được xả
ly, minh khởi, tham ái được đoạn diệt, như vậy sự tái sanh trong
tương lai không xảy ra.
- – Này Hiền giả, thế nào là Thiền
thứ nhất?
- – Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo
ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, này
Hiền giả, gọi là Thiền thứ nhất.
- – Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có
bao nhiêu chi phần?
- – Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có
năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ
nhất, có tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, Thiền thứ
nhất có năm chi phần như vậy.
- – Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ
bỏ bao nhiêu chi phần và thành tựu bao nhiêu chi phần?
- – Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ
bỏ năm chi phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả,
vị Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân,
từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu
tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, như vậy Thiền thứ
nhất từ bỏ năm chi phần, và thành tựu năm chi phần.
- – Này Hiền giả, năm căn này, có
cảnh giới khác nhau, có hành giới khác nhau, không có lẫn lộn
cảnh giới, hành giới với nhau. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành
giới sai khác, không có thọ lãnh cảnh giới, hành giới lẫn nhau,
cái gì làm sở y cho chúng, cái gì lãnh thọ cảnh giới, hành giới
củ húng?
- – Nầy Hiền giả, năm căn này, có
cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có lãnh thọ
cảnh giới, hành giới lẫn nhau, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành
giới sai khác, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau, ý
làm sở y cho chúng, và ý lãnh thọ cảnh giới và hành giới củ
húng.
- – Này Hiền giả, năm căn này là
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên
gì mà chúng an trú?
- – Này Hiền giả, năm căn này là
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên
tuổi thọ (Ayu) mà chúng an trú.
- – Này Hiền giả, tuổi thọ do duyên
gì mà an trú?
- – Tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an
trú.
- – Này Hiền giả, hơi nóng do duyên
gì mà an trú?
- – Hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an
trú.
- – Này Hiền giả, nay chúng tôi được
biết từ lời nói của Tôn giả Sariputta-là tuổi thọ do duyên hơi
nóng mà an trú. Nay chúng tôi lại được biết từ lời nói của Tôn
giả Sariputta-là hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. Này Hiền
giả, như thế nào, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này?
- – Này Hiền giả, tôi sẽ cho một ví
dụ. Nhờ ví dụ, ở đây, một số người có trí sẽ hiểu ý nghĩa lời
nói. Này Hiền giả, ví như khi một cây đèn dầu được thắp sáng,
duyên tim đèn, ánh sáng được hiện ra, do duyên ánh sáng, tim đèn
được thấy. Cũng vậy này Hiền giả, tuổi thọ do duyên hơi nóng mà
an trú, và hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.
- – Này Hiền giả, những pháp thọ
hành (Ayusankhara) này là những pháp được cảm thọ (Vedaniya)
này, hay những pháp thọ hành này khác với những pháp được cảm
thọ này?
- – Này Hiền giả, những pháp thọ
hành này không phải là những pháp được cảm thọ này. Này Hiền
giả, nếu những pháp thọ hành này là những pháp được cảm thọ này
thì không thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu
Diệt thọ tưởng định. Này Hiền giả, vì rằng những pháp thọ hành
khác, những pháp được cảm thọ khác nên có thể nêu rõ sự xuất
khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định.
- – Này Hiền giả, đối với thân này,
khi nào có bao nhiêu pháp được từ bỏ, thì thân này được nằm
xuống, quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri?
- – Này Hiền giả, đối với thân này,
khi nào ba pháp được từ bỏ: Tuổi thọ, hơi nóng và thức, thì thân
này nằm xuống, được quăng đi, vất bỏ như một khúc gỗ vô tri.
- – Này Hiền giả, có sự sai khác gì
giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ
tưởng định?
- – Này Hiền giả, vật chết, mạng
chung này, thân hành của nó chấm dứt, dừng lại, khẩu hành chấm
dứt, dừng lại, tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi thọ diệt tận,
hơi nóng tiêu diệt, các căn bị bại hoại. Còn vị Tỷ-kheo thành
tựu Diệt thọ tưởng định, thì thân hành của vị này được chấm dứt,
được dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại, tâm hành
được chấm dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không diệt tận, hơi
nóng không tiêu diệt, các căn được sáng suốt. Này Hiền giả, như
vậy là sự sai khác giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo
thành tựu Diệt thọ tưởng định.
- – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên
để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc?
- – Này Hiền giả, có bốn duyên để
chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc. Ở đây, này Hiền giả,
vị Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này
Hiền giả, do bốn duyên này mà chứng nhập tâm giải thoát bất khổ
bất lạc.
- – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên
để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát?
- – Này Hiền giả, có hai duyên để
chứng nhập vô tướng tâm giải thoát: không có tác ý nhất thiết
tướng và tác ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà
chứng nhập vô tướng tâm giải thoát.
- – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên
để an trú vô tướng tâm giải thoát?
- – Này Hiền giả, có ba duyên để an
trú vô tướng tâm giải thoát: không tác ý nhất thiết tướng, tác ý
vô tướng giới, và một sự sửa soạn trước. Này Hiền giả, do ba
duyên này mà an trú vô tướng tâm giải thoát.
- – Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên
để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát?
- – Này Hiền giả, có hai duyên để
xuất khởi vô tướng tâm giải thoát: tác ý nhất thiết tướng và
không tác ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà
xuất khởi vô tướng tâm giải thoát.
- – Này Hiền giả, vô lượng tâm giải
thoát này, vô sở hữu tâm giải thoát này, không tâm giải thoát
này và vô tướng tâm giải thoát này, những pháp này nghĩa sai
biệt và danh sai biệt, hay nghĩa đồng nhất và danh sai biệt.
- – Này Hiền giả, vô lượng tâm giải
thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô
tướng tâm giải thoát này, có một pháp môn, này Hiền giả, do pháp
môn này, các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này
Hiền giả, lại có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có
nghĩa đồng nhất và danh sai biệt. Này Hiền giả, thế nào là có
pháp môn, do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa sai khác và có
danh sai khác? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo an trú biến mãn
một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng
vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô
biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi...
với tâm câu hữu với hỷ... an trú biến mãn một phương với tâm câu
hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba,
cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới,
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an
trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không
hận, không sân. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô lượng tâm giải
thoát. Và này Hiền giả, thế nào là vô sở hữu tâm giải thoát? Ở
đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ
rằng: "Không có vật gì" chứng và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy, này
Hiền giả, gọi là Vô sở hữu tâm giải thoát. Và này Hiền giả, thế
nào là không tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi
đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống và
suy nghĩ như sau: "Đây trống không, không có tự ngã hay không có
ngã sở". Như vậy, này Hiền giả, gọi là không tâm giải thoát. Và
này Hiền giả, thế nào là vô tướng tâm giải thoát? Ở đây, này
Hiền giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết tướng, đạt và an
trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô tướng
tâm giải thoát. Như vậy là có pháp môn và do pháp môn này những
pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền giả, thế
nào là có pháp môn và do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa đồng
nhất nhưng danh sai biệt. Tham, này Hiền giả, là nguyên nhân của
hạn lượng; sân là nguyên nhân của hạn lượng; si là nguyên nhân
của hạn lượng. Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc và
tham, sân, si này đã được chặt tận gốc như thân cây tala được
chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai.
Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô lượng, thì bất
động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải
thoát ấy, và bất động tâm giải thoát không có tham, không có
sân, không có si. Tham, này Hiền giả, là một vật gì (chướng
ngại), sân là một vật gì (chướng ngại), si là một vật gì (chướng
ngại). Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham,
sân, si này đã được chặt tận gốc, như thân cây tala được chặt
tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này
Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô sở hữu, thì bất động
tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát
ấy, và bất động tâm giải thoát ấy không có tham, không có sân,
không có si. Tham, này Hiền giả, là nhân tạo ra tướng, sân là
nhân tạo ra tướng, si là nhân tạo ra tướng. Đối với vị Tỷ-kheo
đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân, si này được chặt tận
gốc, như thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể
tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải
thoát là vô tướng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối
thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát
này không có tham, không có sân, không có si. Như vậy, này Hiền
giả, là pháp môn này, những pháp ấy là đồng nghĩa nhưng danh sai
biệt.
- Tôn giả Sariputta thuyết giảng như
vậy. Tôn giả Mahakotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta
dạy.
- --o0o--