|
Kinh Trung Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
- KINH CATUMA
-
(Catumasuttam)
-
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Catuma trong rừng cây Kha-lưu-lạc. Lúc bấy
giờ, khoảng năm trăm Tỷ-kheo, do Sariputta và Moggallana cầm đầu
cùng đến Catuma để yết kiến Thế Tôn. Và các Tỷ-kheo mới đến chào
đón các vị cựu trú Tỷ-kheo. Trong khi các sàng tọa được sửa soạn
và y bát được cất dọn, nên các tiếng náo động ồn ào khởi lên. Rồi
Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:
– Này Ananda, các tiếng náo động ồn ào kia là các tiếng gì, thật
giống như tiếng hàng đánh cá tranh giành cá với nhau.
– "Bạch Thế Tôn, đó là khoảng năm trăm Tỷ-kheo, do Sariputta và
Moggallama cầm đầu, đã đến Catuma để yết kiến Thế Tôn. Và các
Tỷ-kheo mới đến chào đón các vị cựu trú Tỷ-kheo. Trong khi các
sàng tọa được sửa soạn và y bát được cất dọn, các tiếng náo động
ồn ào khởi lên.
– "Vậy này Ananda, hãy nhân danh Ta bảo các Tỷ-kheo ấy: "Bậc Đạo
Sư cho gọi các Tôn giả".
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, đi đến chỗ các Tỷ-kheo ấy, sau
khi đến, nói với các Tỷ-kheo ấy như sau:
– Bậc Đạo Sư cho gọi các Tôn giả.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda, đi đến chỗ Thế Tôn, sau
khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
các Tỷ-kheo ấy đang ngồi một bên:
– Này các Tỷ-kheo, các Ông có nghĩ chăng, các tiếng náo động ồn ào
thật giống như tiếng hàng đánh cá tranh giành cá với nhau ?
– Bạch Thế Tôn, đó là khoảng năm trăm Tỷ-kheo, do Sariputta và
Moggallana dẫn đầu, đã đến Catuma để yết kiến Thế Tôn và các
Tỷ-kheo mới đến chào đón các vị cựu trú Tỷ-kheo. Trong khi các
sàng tọa được sửa soạn và y bát được cất dọn, các tiếng náo động
ồn ào khởi lên.
– Hãy đi đi này các Tỷ-kheo, Ta đuổi các Ông. Các Ông chớ có ở gần
Ta.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế
Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, dọn dẹp lại sàng tọa, cầm lấy y
bát rồi ra đi.
Lúc bấy giờ, các Thích tử trú ở Catuma đang hội họp tại giảng
đường vì một vài công cụ. Các Thích tử trú ở Catuma thấy các
Tỷ-kheo ấy từ xa đi đến, sau khi thấy liền đến gặp các Tỷ-kheo,
sau khi đến bèn nói như sau:
– Nay chư Tôn giả đi đâu ?
– Chư Huynh, chúng Tỷ-kheo bị Thế Tôn đuổi đi.
– Chư Tôn giả hãy ngồi lại một lát. Chúng tôi có thể làm cho Thế
Tôn vui lòng.
– Thưa vâng, chư Huynh.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp các Thích tử trú ở Catuma. Rồi các Thích
tử trú ở Catuma đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Thích tử
trú ở Catuma bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy hoan hỷ với chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy tiếp đón chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, ví như
trước kia, chúng Tỷ-kheo đã được Thế Tôn giúp đỡ, cũng như vậy,
mong nay Thế Tôn hãy giúp đỡ chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, ở đây,
có những vị tân Tỷ-kheo, xuất gia chưa được bao lâu, vừa mới đến
trong pháp luật này. Không được yết kiến Thế Tôn, họ có thể đổi
khác, họ có thể biến dạng. Ví như, bạch Thế Tôn, các hạt giống cây
nếu không được nước, chúng có thể đổi khác, chúng có thể biến
dạng; cũng vậy, bạch Thế Tôn, ở đây có những vị tân Tỷ-kheo, xuất
gia chưa được bao lâu, vừa mới đến trong pháp luật này. Không được
yết kiến Thế Tôn, họ có thể đổi khác, họ có thể biến dạng. Ví như,
bạch Thế Tôn, con nghé nếu không được thấy con bò mẹ, chúng có thể
đổi khác, chúng có thể biến dạng; cũng vậy, bạch Thế Tôn, ở đây có
những vị tân Tỷ-kheo, xuất gia chưa được bao lâu, vừa mới đến
trong pháp luật này. Không được yết kiến Thế Tôn, họ có thể đổi
khác, họ có thể biến dạng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy hoan hỷ với
chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy tiếp đón chúng Tỷ-kheo.
Bạch Thế Tôn, ví như trước kia, chúng Tỷ-kheo đã được Thế Tôn giúp
đỡ; cũng như vậy, mong nay Thế Tôn hãy giúp đỡ chúng Tỷ-kheo.
Rồi Phạm thiên Sahampati (Ta bà Chủ) với tâm của mình biết được
tâm Thế Tôn. Như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co
lại cánh tay đang duỗi ra; cũng như vậy, Phạm thiên biến mất ở
Phạm thiên giới và hiện ra trước mặt Thế Tôn. Rồi Phạm thiên
Sahampati, đắp thượng y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế
Tôn và bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy hoan hỷ với chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy tiếp đón chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, ví như
trước kia chúng Tỷ-kheo đã được Thế Tôn giúp đỡ; cũng như vậy,
mong nay Thế Tôn hãy giúp đỡ chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, ở đây,
có những tân Tỷ-kheo, xuất gia chưa được bao lâu, vừa mới đến
trong pháp luật này. Không được yết kiến Thế Tôn, họ có thể đổi
khác, họ có thể biến dạng. Ví như, bạch Thế Tôn, các hạt giống cây
nếu không được nước, chúng có thể đổi khác, chúng có thể biến
dạng; cũng vậy, bạch Thế Tôn, ở đây, có những vị tân Tỷ-kheo, xuất
gia chưa được bao lâu, vừa mới đến trong pháp luật này. Không được
yết kiến Thế Tôn, họ có thể đổi khác, họ có thể biến dạng. Ví như,
bạch Thế Tôn, con nghé, nếu không được thấy con bò mẹ, nó có thể
đổi khác, nó có thể biến dạng; cũng vậy, bạch Thế Tôn, ở đây, có
những tân Tỷ-kheo, xuất gia chưa được bao lâu, vừa mới đến trong
pháp luật này. Không được yết kiến Thế Tôn, họ có thể đổi khác, họ
có thể biến dạng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy hoan hỷ với chúng
Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy tiếp đón chúng Tỷ-kheo. Bạch
Thế Tôn, ví như trước kia, chúng Tỷ-kheo đã được Thế Tôn giúp đỡ;
cũng như vậy, mong nay Thế Tôn hãy giúp đỡ chúng Tỷ-kheo.
Các thích tử ở Catuma và Phạm thiên Sahampati đã có thể làm Thế
Tôn vui lòng với ví dụ hột giống và ví dụ con nghé con. Rồi Tôn
giả Mahamoggallana bảo các Tỷ-kheo:
– Chư Hiền, hãy đứng dậy ! Hãy cầm lấy y và bình bát ! Thế Tôn đã
được các Thích tử trú ở Catuma và Phạm thiên Sahampati làm cho vui
lòng với ví dụ hột giống và ví dụ con nghé con.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahamoggallana, từ chỗ ngồi đứng
dậy, cầm lấy y bát, đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sariputta đang
ngồi một bên:
– Này Sariputta, Ông đã nghĩ gì khi chúng Tỷ-kheo bị Ta đuổi ?
– Bạch Thế Tôn, khi chúng Tỷ-kheo bị Thế Tôn đuổi, con nghĩ như
sau: "Nay Thế Tôn sẽ được ít bận rộn, sẽ được an trú trong hiện
tại lạc. Chúng con nay cũng được ít bận rộn, sẽ được an trú trong
hiện tại lạc.
– Này Sariputta, hãy chờ đợi ! Này Sariputta, hãy chờ đợi ! Này
Sariputta, chớ có để tư tưởng như vậy khởi lên Ông nữa.
Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Mahamoggallana:
– Này Moggallana, Ông đã nghĩ gì khi chúng Tỷ-kheo bị Ta đuổi ?
– Bạch Thế Tôn, khi chúng Tỷ-kheo bị Thế Tôn đuổi, con nghĩ như
sau: "Nay Thế Tôn sẽ được ít bận rộn, sẽ được an trú trong hiện
tại lạc. Vàؠnay con và Tôn giả Sariputta sẽ lãnh đạo chúng
Tỷ-kheo.
– Lành thay, lành thay, Moggallana. Này Moggallana, chỉ có Ta hay
Sariputta và Moggallana mới có thể lãnh đạo chúng Tỷ-kheo được.
Rồi Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, có bốn điều đáng sợ hãi chờ đợi những ai lội
xuống nước. Thế nào là bốn ? Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ
hãi về nước xoáy, sợ hãi về cá dữ. Này các Tỷ-kheo, bốn điều đáng
sợ hãi này chờ đợi những ai lội xuống nước. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, có bốn điều đáng sợ hãi này, ở đây, chờ đợi những người
xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình trong Pháp Luật này.
Thế nào là bốn ? Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ hãi về nước
xoáy, sợ hãi về cá dữ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sợ hãi về sóng ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có Thiện gia nam tử vì lòng tin, xuất gia, từ bỏ gia đình
sống không gia đình. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta bị sanh, già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi
phối. Tuy vậy ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn
này". Khi được xuất gia như vậy, vị này được các vị đồng Phạm hạnh
giảng dạy, khuyên giáo: "Ông cần phải đi ra như vậy, Ông cần phải
đi về như vậy; Ông cần phải ngó tới như vậy, Ông cần phải ngó
quanh như vậy; Ông cần phải co tay như vậy, Ông cần phải duỗi tay
như vậy; Ông cần phải mang y sanghati (tăng-già-lê), mang y bát
như vậy". Vị ấy suy nghĩ như sau: "Trước kia, chúng ta chưa xuất
gia, chính chúng ta giảng dạy, khuyên giáo người khác. Những người
này giống như con chúng ta, giống như cháu chúng ta, lại nghĩ rằng
cần phải giảng dạy chúng ta, cần phải khuyên giáo chúng ta". Vị ấy
từ bỏ học tập, và trở về hoàn tục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người
này từ bỏ sự học tập và trở về hoàn tục, được gọi là người bị sợ
hãi bởi sự sợ hãi về sóng. Này các Tỷ-kheo, sợ hãi về sóng là đồng
nghĩa với phẫn não.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sợ hãi về cá sấu ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có Thiện gia nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta bị sanh, già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi
phối. Tuy vậy ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn
này". Khi được xuất gia như vậy, vị này được các vị đồng Phạm hạnh
giảng dạy, khuyên giáo: "Ông nên nhai cái này, Ông không nên nhai
cái này; Ông nên ăn cái này, Ông không nên ăn cái này; Ông nên nếm
cái này, Ông không nên nếm cái này; Ông nên uống cái này, Ông
không nên uống cái này. Cái gì được phép, Ông nên nhai; cái gì
không được phép, Ông không nên nhai. Cái gì được phép, Ông nên ăn;
cái gì không được phép, Ông không nên ăn. Cái gì được phép, Ông
nên nếm; cái gì không được phép, Ông không nên nếm. Cái gì được
phép, Ông nên uống; cái gì không được phép, Ông không nên uống.
Đúng thời, Ông nên nhai, không đúng thời, Ông không nên nhai. Đúng
thời, Ông nên ăn; không đúng thời, Ông không nên ăn. Đúng thời,
ông nên nếm; không đúng thời, Ông không nên nếm. Đúng thời, Ông
nên uống; không đúng thời, Ông không nên uống". Vị ấy suy nghĩ như
sau: "Trước kia chúng ta chưa xuất gia, cái gì chúng ta muốn,
chúng ta nhai, cái gì chúng ta không muốn, chúng ta không nhai;
cái gì chúng ta muốn, chúng ta ăn; cái gì chúng ta không muốn,
chúng ta không ăn; cái gì chúng ta muốn, chúng ta nếm, cái gì
chúng ta không muốn, chúng ta không nếm; cái gì chúng ta muốn,
chúng ta uống; cái gì chúng ta không muốn, chúng ta không uống.
Cái gì được phép, chúng ta nhai; cái gì không được phép, chúng ta
cũng nhai. Cái gì được phép, chúng ta ăn; cái gì không được phép,
chúng ta cũng ăn. Cái gì được phép, chúng ta nếm; cái gì không
được phép, chúng ta cũng nếm. Cái gì được phép, chúng ta uống; cái
gì không được phép, chúng ta cũng uống. Cái gì đúng thời, chúng ta
nhai; cái gì phi thời, chúng ta cũng nhai. Cái gì đúng thời, chúng
ta ăn; cái gì phi thời chúng ta cũng ăn. Cái gì đúng thời, chúng
ta nếm; cái gì phi thời chúng ta cũng nếm. Cái gì đúng thời, chúng
ta uống; cái gì phi thời chúng ta cũng uống. Khi các gia chủ có
tín tâm cúng dường chúng ta những món ăn thượng vị loại cứng và
loại mềm, hình như các món ăn ấy đang bị chận đứng lại trên
miệng".
Vị ấy từ bỏ học tập, và trở về hoàn tục. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
người này từ bỏ học tập, và trở về hoàn tục, được gọi là người bị
sợ hãi bởi sự sợ hãi về cá sấu. Sợ hãi về cá sấu, này các Tỷ-kheo,
là đồng nghĩa với tham ăn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sợ hãi về nước xoáy? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có Thiện gia nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta bị sanh, già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi
phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ
uẩn này". Khi được xuất gia như vậy, vị này buổi sáng đắp y, cầm y
bát, đi vào làng hay thị trấn để khất thực, không phòng hộ thân,
không phòng hộ lời nói, niệm không an trú, các căn không chế ngự.
Ở đây, vị này thấy gia chủ hay con người gia chủ hưởng thụ một
cách đầy đủ, năm dục trưởng dưỡng và cảm thấy hoan hỷ trong ấy. Vị
ấy suy nghĩ như sau: "Chúng ta xưa kia chưa xuất gia đã hưởng thọ
một cách đầy đủ năm dục trưởng dưỡng và cảm thấy hoan hỷ trong ấy.
Vì nhà ta có tài sản, ta có thể vừa hưởng thọ tài sản, vừa làm
công đức", vị ấy từ bỏ học tập và trở về hoàn tục. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, vị này từ bỏ học tập và trở về hoàn tục, được gọi là
người bị sợ hãi bởi sự sợ hãi về nước xoáy. Này các Tỷ-kheo, sợ
hãi về nước xoáy là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sợ hãi về cá dữ ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có Thiện gia nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta bị sanh, già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi
phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ
uẩn này". Khi được xuất gia như vậy, vị này buổi sáng đắp y, cầm y
bát đi vào làng hay thị trấn để khất thực, không phòng hộ thân,
không phòng hộ lời nói, niệm không an trú, các căn không chế ngự.
Vị này thấy ở đây các phụ nữ y phục không đoan chánh, hay y phục
mặc lộ liễu. Khi thấy các phụ nữ y phục không đoan chính hay y
phục lộ liễu, dục tình phá hoại tâm của vị ấy. Vị này, tâm bị dục
tình phá hoại, từ bỏ học tập, trở về hoàn tục. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, người này từ bỏ học tập và trở về hoàn tục, được gọi là
người bị sợ hãi bởi sự sợ hãi về cá dữ. Này các Tỷ-kheo, sự sợ hãi
về cá dữ là đồng nghĩa với phụ nữ.
Này các Tỷ-kheo, những điều này là bốn điều đáng sợ hãi ở đây, chờ
đợi những người xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình
trong pháp luật này.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy.
- --o0o--
|
|