|
-
Kinh Trung Bộ
-
HT. Thích Minh Châu dịch
-
-
KINH KITAGIRI
-
(Kitagirisuttam)
-
-
Như vầy tôi nghe.
-
Một thời Thế Tôn du hành ở Kasi cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Ở đây,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-
– Này các Tỷ-kheo, Ta ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ-kheo, do
ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Ta cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có
sức lực và an trú. Này các Tỷ-kheo, hãy đến và ăn, từ bỏ ăn ban
đêm. Này các Tỷ-kheo, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, các Ông sẽ cảm thấy
ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú.
-
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn tiếp tục du hành ở
Kasi và đến một thị trấn xứ Kasi tên là Kitagiri. Rồi Thế Tôn ở
tại Kitagiri, một thị trấn xứ Kasi. Lúc bấy giờ Tỷ-kheo Assaji và
Punabbasuka đang ở Kitagiri. Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến chỗ
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka, sau khi đến, nói với
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka như sau:
-
– Chư Hiền, Thế Tôn ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Cả chúng Tỷ-kheo cũng
vậy. Do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, các vị ấy cảm thấy ít bệnh, ít não,
khinh an, có sức lực và an trú. Chư Hiền, hãy đến và ăn, từ bỏ ăn
ban đêm. Chư Hiền, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, chư Hiền sẽ cảm thấy
ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú.
-
Được nói vậy, Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka, nói với các
Tỷ-kheo ấy:
-
– Chư Hiền, chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi
thời. Do chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời,
chúng tôi cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an
trú. Sao chúng tôi lại bỏ hiện tại, chạy theo tương lai ? Chúng
tôi sẽ ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời.
-
Vì các Tỷ-kheo ấy không thể làm cho Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka chấp thuận, nên các vị ấy đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi
đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một
bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-
– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con đi đến chỗ các Tỷ-kheo Assaji và
Punabbasuka, sau khi đến chúng con nói với Tỷ-kheo Assaji và
Tỷ-kheo Punabbasuka như sau: "Chư hiền, Thế Tôn ăn, từ bỏ ăn ban
đêm... (như trên)... có sức lực và an trú". Bạch Thế Tôn, được nói
vậy. Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka nói với chúng con như
sau: "Chư Hiền, chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi
thời... (như trên)... chúng tôi sẽ ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày
và ăn phi thời". Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể làm cho
Tỷ-kheo `Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka chấp thuận, nên chúng con
trình sự việc này lên Thế Tôn.
-
Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:
-
– Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta, bảo Tỷ-kheo Assaji và
Tỷ-kheo Punabbasuka: "Bậc Đạo Sư cho gọi các Tôn giả".
-
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka:
-
– Bậc Đạo Sư cho gọi các Tôn giả.
-
– Thưa vâng, Hiền giả.
-
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến
chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka đang ngồi
một bên:
-
– Có thật chăng, này các Tỷ-kheo, một số đông Tỷ-kheo đến các Ông
và nói như sau: "Chư Hiền, Thế Tôn ăn, từ bỏ ăn ban đêm, cả chúng
Tỷ-kheo cũng vậy. Do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, các vị ấy cảm thấy ít
bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú. Chư Hiền, hãy đến và
ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Chư Hiền, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, chư Hiền
sẽ cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú". Được
nói vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông nói với các Tỷ-kheo ấy như sau:
"Chư Hiền, chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi
thời. Do ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời, chúng tôi
cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú. Sao
chúng tôi lại bỏ hiện tại, chạy theo tương lai ? Chúng tôi sẽ ăn
chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời"?
-
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-
– Này các Tỷ-kheo , các Ông có hiểu pháp Ta dạy như sau: "Một cá
nhân cảm thọ bất cứ cảm giác nào, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;
đối với người ấy, các pháp bất thiện được đoạn diệt, các thiện
pháp được tăng trưởng"?
-
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
-
– Này các Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta dạy như sau: "Ở đây đối
với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp bị
đoạn diệt, ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy,
các bất thiện pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp được tăng trưởng,
ở đây, đối với một người khi cảm thọ khổ thọ như vậy, các bất
thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt; ở đây,
đối với một người, khi cảm thọ khổ thọ như vậy, các bất thiện pháp
bị đoạn trừ, các thiện pháp được tăng trưởng, ở đây, đối với một
người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp
được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt; ở đây, đối với một
người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp
bị đoạn diệt, các thiện pháp được tăng trưởng"?
-
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-
– Lành thay, này các Tỷ-kheo ! Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta
không biết, không thấy, không giác, không chứng, không liễu giải
với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ
như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị
đoạn diệt", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta
lại nói: "Hãy từ bỏ lạc thọ như vậy"? Và như vậy, này các Tỷ-kheo,
là xứng đáng đối với Ta chăng ?
-
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
-
– Nhưng này các Tỷ-kheo, vì rằng sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta
giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một
người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng
trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hãy từ bỏ
lạc thọ như vậy". Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết,
không thấy, không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ
rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các
bất thiện pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp được tăng trưởng", có
thể chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói: "Hãy
chứng và trú lạc thọ như vậy"? Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là
xứng đáng đối với Ta chăng ?
-
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
-
– Nhưng này các Tỷ-kheo, vì sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác,
Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một
người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các thiệ? pháp được tăng
trưởng, các bất thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hãy
chứng và trú lạc thọ như vậy.
-
Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy, không
giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối
với một người khi cảm giác khổ thọ... (như trên)... khi cảm giác
bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng,
các thiện pháp bị đoạn diệt", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không
biết như vậy, Ta lại nói: "Hãy từ bỏ bất khổ bất lạc thọ như vậy"
? Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là xứng đáng đối với Ta chăng ?
-
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
-
– Nhưng này các Tỷ-kheo, vì rằng sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta
giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một
người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp
được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói:
"Hãy từ bỏ bất khổ bất lạc thọ như vậy". Này các Tỷ-kheo, nếu sự
việc này Ta không biết, không thấy, không giác, không chứng, không
liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ
bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt, các
thiện pháp được tăng trưởng", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không
biết như vậy, Ta lại nói: "Hãy chứng và trú bất khổ bất lạc thọ
như vậy"? Và như vậy, này các Tỷ-kheo là xứng đáng đối với Ta
chăng ?
-
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
-
– Nhưng này các Tỷ-kheo, vì rằng sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta
giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một
người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các thiện pháp
được tăng trưởng, các bất thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói:
"Hãy chứng và trú bất khổ bất lạc thọ như vậy".
-
Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng đối với tất cả Tỷ-kheo, có sự
việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. Này các Tỷ-kheo, Ta không
nói rằng đối với tất cả Tỷ-kheo không có sự việc cần phải làm, nhờ
không phóng dật. Này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo là bậc
A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, các việc
nên làm đã làm, đã đặt gánh nặ?g xuống, đã thành đạt được lý
tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát; này các
Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo như vậy, Ta nói rằng không có sự
việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. Vì sao vậy ? Vì sự việc ấy
đã được các vị này làm, nhờ không phóng dật. Các vị này không thể
trở thành phóng dật. Và này các Tỷ-kheo, đối với các Tỷ-kheo còn
là các bậc hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu sự vô
thượng an ổn khỏi các triền ách; này các Tỷ-kheo, đối với những
Tỷ-kheo như vậy, Ta nói rằng có sự việc cần phải làm, nhờ không
phóng dật. Vì sao vậy ? Dầu cho trong khi các bậc Tôn giả này thọ
dụng các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các
căn, các vị ấy (cần phải) tự mình nhờ thượng trí chứng ngộ chứng
đạt, và an trú ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm
hạnh, vì mục đích này, các Thiện gia nam tử chân chánh xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với những Tỷ-kheo này, vì thấy quả này của không phóng dật nên Ta
nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
-
Này các Tỷ-kheo có bảy hạng người sống trong đời này. Thế nào là
bảy ? Bậc câu phần giải thoát, bậc tuệ giải thoát, bậc thân chứng,
bậc kiến đáo, bậc tín giải thoát, bậc tùy pháp hành, bậc tùy tín
hành.
-
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc câu phần giải thoát ? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có người, sau khi thân đã chứng đắc các tịch tịnh
giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đã
thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn trừ hoàn toàn.
Vị này, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người câu phần giải
thoát. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta không có sự việc
cần phải làm, nhờ không phóng dật. Vì sao vậy ? Vì sự việc ấy đã
được vị này làm, nhờ không phóng dật, vị ấy không có thể trở thành
phóng dật.
-
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc tuệ giải thoát ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người, sau khi thân không chứng đắc các tịch tịnh giải
thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đã thấy
với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn trừ hoàn toàn. Vị
này như vậy được gọi là bậc tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đối
với Tỷ-kheo này, Ta nói không có sự việc cần phải làm, nhờ không
phóng dật. Vì sao vậy ? Vì sự việc ấy đã được vị này làm, nhờ
không phóng dật; vị ấy không có thể trở thành phóng dật.
-
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc thân chứng ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người sau khi thân chứng đắc các tịch tịnh giải thoát,
vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đã thấy với trí
tuệ, một số lậu hoặc của vị này được đoạn trừ hoàn toàn. Vị này
như vậy được gọi là bậc thân chứng. Này các Tỷ-kheo, đối với
Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa
đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, vị này (cần
phải) tự mình với thượng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay
trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, vì mục đích này
các Thiện gia nam tử đã chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Do vậy, này các Tỷ-kheo, vì thấy quả này của không
phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải
làm, nhờ không phóng dật.
-
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc kiến đáo ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người sau khi tự thân không chứng đắc các tịch tịnh
giải thoát vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đã
thấy với trí tuệ, một số lậu hoặc của vị này được đoạn trừ hoàn
toàn; và các pháp do Như Lai tuyên thuyết được vị này thấy một
cách hoàn toàn với trí tuệ và thực hành một cách hoàn toàn. Này
các Tỷ-kheo, vị này được gọi là kiến đáo. Này các Tỷ-kheo, đối với
Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa
đúng pháp ... ... sống không gia đình. Do vậy này các Tỷ-kheo, vì
thấy quả này của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói
có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
-
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tín giải thoát ? Ở đây,
này các Tỷ-kheo có người, sau khi tự thân chứng đắc các tịch tịnh
giải thoát vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đã
thấy với trí tuệ, một số lậu hoặc của vị này được đoạn trừ một
cách hoàn toàn; và lòng tin của vị này đối với Như Lai đã được xác
định, phát sanh từ căn để, an trú. Này các Tỷ kheo, vị này được
gọi là bậc tín giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này,
Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. Vì sao vậy ?
Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa đúng pháp...
...sống không gia đình. Do vậy, này các Tỷ-kheo, vì thấy quả này
của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc
cần phải làm, nhờ không phóng dật.
-
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tùy pháp hành ? Ở đây,
này các Tỷ-kheo có người sau khi tự thân không chứng đắc các tịch
tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi
đã thấy với trí tuệ, nhưng các lậu hoặc không được đoạn trừ một
cách hoàn toàn; và các pháp do Như Lai tuyên thuyết (chỉ) được vị
này chấp nhận một cách vừa phải với trí tuệ, dầu cho vị này có
những pháp như là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
Này các Tỷ-kheo, vị này được gọi là người tùy pháp hành. Này các
Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ
không phóng dật. Vì sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ
dụng các sàng tọa đúng pháp... ... sống không gia đình. Do vậy,
này các Tỷ-kheo, vì thấy quả này của không phóng dật, nên đối với
Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
-
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người tùy tín hành? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người sau khi tự thân không chứng đắc có tịch tịnh
giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đã
thấy với trí tuệ, nhưng các lậu hoặc không được đoạn trừ. Nhưng
nếu vị này có đủ lòng tin và lòng thương Như Lai, thời vị này sẽ
có những pháp như là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ
căn. Này các Tỷ-kheo, vị này được gọi là người tùy tín hành. Này
các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm,
nhờ không phóng dật. Vì sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này
thọ dụng các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự
các căn, nhưng vị này (cần phải) tự mình với thượng trí, chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại mục đích vô thượng
của Phạm hạnh, vì mục đích này các Thiện gia nam tử chơn chánh
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, vì thấy quả này của phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này,
Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
-
Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng trí tuệ được hoàn thành lập
tức. Nhưng này các Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ,
hành từ từ, thực tập từ từ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trí tuệ
được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ ? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, một vị có lòng tin đi đến gần; sau khi đến gần,
vị ấy tỏ sự kính lễ; sau khi tỏ sự kính lễ, vị ấy lóng tai; sau
khi lóng tai, vị ấy nghe pháp; sau khi nghe pháp, vị ấy thọ trì
pháp, vị ấy suy tư ý nghĩa các pháp được thọ trì; sau khi suy tư ý
nghĩa các pháp được chấp thuận; sau khi các pháp được chấp thuận,
ước muốn sanh khởi; sau khi ước muốn sanh khởi, vị ấy nỗ lực; sau
khi nỗ lực vị ấy cân nhắc; sau khi cân nhắc, vị ấy tinh cần. Do
tinh cần, vị ấy tự thân chứng được sự thật tối thượng, và với trí
tuệ thể nhập sự thật ấy, vị ấy thấy. Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu
không có lòng tin ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự đến gần
ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có tỏ sự kính lễ ấy, thời này các
Tỷ-kheo, không có sự lóng tai ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có
sự nghe pháp ấy, thời này Tỷ-kheo, không có sự thọ trì pháp ấy,
thời này các Tỷ-kheo, không có sự suy tư ý nghĩa ấy, thời này các
Tỷ-kheo, không có sự chấp thuận pháp ấy, thời này các Tỷ-kheo,
không có sự ước muốn ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự nỗ lực
ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự cân nhắc ấy, thời này các
Tỷ-kheo không có sự tinh cần ấy. Này các Tỷ kheo, ở đây, các Ông
đã đi vào phi đạo. Này các Tỷ-kheo, ở đây, các Ông đã đi vào tà
đạo. Thật là quá xa, này các Tỷ-kheo, các kẻ ngu này đã đi ra
ngoài pháp luật này.
-
Này các Tỷ-kheo, có sự thuyết trình gồm có bốn phần (Catuppadam =
Bốn cú) chính nhờ thuyết trình này người có trí, không bao lâu,
nhờ tuệ biết được ý nghĩa. Ta sẽ đọc sự thuyết trình ấy lên cho
các Ông, này các Tỷ-kheo, các Ông nhờ Ta mà sẽ hiểu thuyết trình
ấy.
-
– Bạch Thế Tôn, chúng con là ai có thể biết được pháp ?
-
– Này các Tỷ-kheo, cho đến một bậc Đạo sư sống quá trọng vọng tài
vật, là vị thừa tự tài vật, và sống liên hệ với tài vật, thời sự
mua may bán đắt này không xảy ra: "Chúng tôi sẽ làm việc này như
vậy, và như vậy chúng tôi sẽ không làm việc này như vậy", huống
nữa là Như Lai, này các Tỷ-kheo, là vị sống hoàn toàn không liên
hệ với các tài vật. Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử, có lòng
tin giáo pháp bậc Đạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy
pháp (anudhamma) được khởi lên: "Bậc Đạo sư là Thế Tôn, đệ tử là
tôi. Thế Tôn biết, tôi không biết". Này các Tỷ-kheo, đến với một
đệ tử, có lòng tin giáo pháp bậc Đạo sư và sống thể nhập giáo pháp
ấy, thời giáo pháp bậc Đạo sư được hưng thịnh được nhiều sinh lực.
Này các Tỷ-kheo, đối với đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Đạo Sư và
sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy pháp này được khởi lên: "Dầu
chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo,
mong rằng sẽ có tinh tấn lực để chứng đắc những gì chưa chứng đắc,
nhờ trượng phu nhẫn nại, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu
cần dõng". Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử có lòng tin giáo
pháp bậc Đạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, vị ấy sẽ chứng được
một trong hai quả như sau: Chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu
có dư y, chứng quả Bất hoàn.
-
Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
- --o0o--
|
|