|
Kinh Trung Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
- KINH MAHA
SAKULUDAYI
-
- Như vầy tôi
nghe.
- Một thời Thế
Tôn trú ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại
Kalandakanivapa (chỗ nuôi dưỡng sóc). Lúc bấy giờ, có rất nhiều
vị du sĩ, có thời danh, có danh tiếng trú ở Moranivapa (Khổng
Tước Lâm), tu viện các du sĩ, như Anugara, Varadhara, và du sĩ
Sakuludayi cùng với các vị du sĩ thời danh, danh tiếng khác. Thế
Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Rajagaha để khất thực.
Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Nay còn quá sớm để đi khất thực ở
Rajagaha. Ta hãy đến Moranivapa, tu viện các du sĩ, đi đến gặp
du sĩ Sakuludayi". Rồi Thế Tôn đi đến Moranivapa, tu viện các du
sĩ.
- Lúc bấy giờ
du sĩ Sakuludayi đang ngồi cùng với đại chúng du sĩ, đang lớn
tiếng, cao tiếng, to tiếng, bàn luận nhiều vấn đề phù phiếm như
vương luận, tặc luận, đại thần luận, binh luận, bố úy luận,
chiến đấu luận, thực luận, ẩm luận, y luận, sàng luân, hoa man
luận, hương liệu luận, thân tộc luận, xa thừa luận, thôn luận,
trấn luận, thị luận, quốc độ luận, phụ nữ luận, anh hùng luận,
câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện
về người đã chết, tạp thoại luận, thế giới luận, hải dương luận,
hiện hữu, vô hiện hữu luận. Du sĩ Sakuludayi thấy Thế Tôn từ xa
đi đến, thấy vậy liền khuyến cáo chúng của mình:
- – Các Tôn giả
hãy nhỏ tiếng ! Các Tôn giả hãy lặng tiếng ! Nay Sa-môn Gotama
đang đến, vị Tôn giả ấy ưa mến an tịnh, tán thán an tịnh, nếu
biết chúng này an tịnh, có thể ghé tại đây.
- Các du sĩ ấy
đều im lặng. Rồi Thế Tôn đến chỗ du sĩ Sakuludayi. Du sĩ
Sakuludayi bạch Thế Tôn:
- – Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy đến ! Bạch Thế Tôn, thiện lai Thế Tôn ! Đã lâu
Thế Tôn mới tạo cơ hội này, nghĩa là đến đây. Thế Tôn hãy ngồi !
Đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn.
- Thế Tôn ngồi
trên chỗ đã soạn sẵn. Du sĩ Sakuludayi lấy một ghế thấp khác rồi
ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với du sĩ Sakuludayi đang ngồi
một bên:
- – Này Udayi,
nay các vị họp nhau ở đây, đang bàn vấn đề gì ? Và câu chuyện gì
giữa các vị bị gián đoạn ?
- – Bạch Thế
Tôn, hãy gác một bên vấn đề chúng tôi đang hội họp bàn luận. Về
sau Thế Tôn nghe lại cũng không khó khăn gì ! Bạch Thế Tôn,
trong những ngày trước, nhiều ngày trước nữa, khi các vị Sa-môn,
Bà-la-môn thuộc nhiều ngoại đạo sai khác, ngồi lại và tập họp
tại luận nghị đường, đối thoại này được khởi lên: "Thật lợi ích
thay cho dân chúng Anga và Magadha thật tốt đẹp thay cho dân
chúng Anga và Magadha khi được những vị Sa-môn, Bà-la-môn nay là
những vị lãnh đạo hội chúng, lãnh đạo đồ chúng, những vị sư
trưởng đồ chúng, những vị thời danh, những Tổ sư có thanh danh,
được quần chúng tôn sùng, đã đến Rajagaha để an cư trong mùa mưa
! Ngài Purana Kassapa (Bất-lan Ca-diếp) này là bậc lãnh đạo hội
chúng, lãnh đạo đồ chúng, bậc sư trưởng đồ chúng, có thời danh,
bậc Tổ sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng, đã đến
Rajagaha để an cư trong mùa mưa. Ngài Makkhali Gosala này...
(như trên)... Ngài Ajita Kesakambali... Ngài Pakudha
Kaccayana... Ngài Saniaya Belatthiputta... Ngài Nigantha
Nataputta này là bậc lãnh đạo hội chúng, bậc lãnh đạo đồ chúng,
bậc sư trưởng đồ chúng, có thời danh, bậc Tổ sư có thanh danh,
được quần chúng tôn sùng, vị này đã đến Rajagaha để an cư trong
mùa mưa. Sa-môn Gotama này là bậc lãnh đạo hội chúng, bậc lãnh
đạo đồ chúng, bậc sư trưởng đồ chúng, có thời danh, bậc Tổ sư có
thanh danh, được quần chúng tôn sùng, vị này đã đến Rajagaha để
an cư trong mùa mưa. Trong những bậc Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
này, những bậc lãnh đạo hội chúng, những bậc lãnh đạo đồ chúng,
những bậc sư trưởng đồ chúng, có thời danh, những bậc Tổ sư có
thanh danh, được quần chúng tôn sùng, vị nào được các đệ tử cung
kính tôn trọng, kính lễ, cúng dường ? Và các đệ tử sau khi cung
kính tôn trọng đã sống nương tựa như thế nào ?" Ở đây, có một số
người đã nói như sau: "Vị Purana Kassapa này là bậc lãnh đạo hội
chúng, bậc lãnh đạo đồ chúng, bậc sư trưởng đồ chúng, có thời
danh, bậc Tổ sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng, vị ấy
không được các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ cúng dường.
Và các đệ tử, sau khi cung kính tôn trọng đã không sống nương
tựa Purana Kassapa. Thuở xưa, Purana Kassapa thuyết pháp cho hội
chúng hàng trăm người; ở đấy, một đệ tử của Purana Kassapa nói
lớn tiếng như sau: "Chư Tôn giả, chớ có hỏi Purana Kassapa về ý
nghĩa này. Vị ấy không biết ý nghĩa này, chúng tôi biết ý nghĩa
này. Hãy hỏi chúng tôi về ý nghĩa này. Chúng tôi sẽ trả lời về ý
nghĩa này cho chư Tôn giả". Thuở xưa, Purana Kassapa dang tay,
khóc lóc nhưng không được nghe theo: "Chư tôn giả, hãy nhỏ tiếng
! Chư Tôn giả hãy lặng tiếng ! Những vị ấy không hỏi Chư Tôn
giả. Những vị ấy hỏi chúng tôi. Chúng tôi sẽ trả lời cho những
vị ấy". Nhiều đệ tử của Purana Kassapa, sau khi kích bác Purana
Kassapa, bỏ đi và nói: "Ông không biết pháp và luật này. Ta biết
pháp và luật này. Làm sao Ông có thể biết pháp và luật này ? Ông
theo tà hạnh. Ta theo chánh hạnh. Điều ta nói có tương ưng. Điều
Ông nói không tương ưng. Điều đáng nói trước, Ông lại nói như
sau. Điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Chủ trương của Ông
đã bị lật ngược, câu hỏi của Ông đã bị bài bác. Ông đã bị thuyết
bại. Hãy đến giải vây lời nói (ấy) nếu có thể được, gắng thoát
khỏi lối bí". Như vậy, Purana Kassapa không được các đệ tử cung
kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường. Và sau khi cung kính tôn
trọng, các đệ tử đã không sống nương tựa Purana Kassapa. Trái
lại, Purana Kassapa đã bị mạ lỵ với những lời mắng nhiếc vì hành
động của mình.
- Có một số
người đã nói như sau: "Vị Makkhali Gosala này... (như trên)...
Ajita Kesakambali... Pukudha Kaccayana... Sanjaya
Belatthiputta... Vị Nigantha Nataputta này là bậc lãnh đạo hội
chúng, bậc lãnh đạo đồ chúng, bậc sư trưởng đồ chúng, có thời
danh, bậc Tổ sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng. Vị ấy
không được các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường.
Và các đệ tử sau khi cung kính, tôn trọng đã không sống nương
tựa Nigantha Nataputta. Thuở xưa, Nigantha Nataputta thuyết pháp
cho hội chúng hàng trăm người. Ở đây, một đệ tử của Nigantha
Nataputta lớn tiếng nói như sau: "Chư Tôn giả, chớ có hỏi
Nigantha Nataputta về ý nghĩa này. Vị ấy không biết ý nghĩa này.
Chúng tôi biết ý nghĩa này. Hãy hỏi chúng tôi về ý nghĩa này.
Chúng tôi trả lời về ý nghĩa này cho chư Tôn giả". Thuở xưa
Nigantha Nataputta dang tay, khóc lóc nhưng không được nghe
theo: "Chư Tôn giả hãy nhỏ tiếng ! Chư Tôn giả hãy lặng tiếng !
Những vị ấy không hỏi chư Tôn giả. Những vị ấy hỏi chúng tôi.
Chúng tôi sẽ trả lời cho những vị ấy". Nhiều đệ tử của Nigantha
Nataputta, sau khi kích bác Nigantha Nataputta, bỏ đi và nói:
"Ông không biết pháp và luật này. Ta biết pháp và luật này. Làm
sao Ông có thể biết pháp và luật này ? Ông theo tà hạnh. Ta theo
chánh hạnh. Điều ta nói có tương ưng. Điều Ông nói không tương
ưng. Điều đáng nói trước Ông lại nói sau. Điều đáng nói sau, Ông
lại nói trước. Chủ trương của Ông đã bị lật ngược. Câu nói của
Ông đã bị bài bác. Ông đã bị thất bại. Hãy đến giải vây lời nói
ấy. Nếu có thể được, gắng thoát khỏi lối bí". Như vậy, Nigantha
Nataputta không được các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường. Và các đệ tử không có sau khi cung kính, tôn trọng
sống nương tựa Nigantha Nataputta. Trái lại Nigantha Nataputta
đã bị mạ lỵ với những lời mắng nhiếc vì hành động của mình.
- Có một số
người nói như sau: "Sa-môn Gotama này là bậc lãnh đạo hội chúng,
bậc lãnh đạo đồ chúng, bậc sư trưởng đồ chúng, có thời danh, bậc
Tổ sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng. Và vị này được
các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường. Và các đệ
tử sau khi cung kính tôn trọng, sống nương tựa Sa-môn Gotama.
Thuở xưa, Sa-môn Gotama đang thuyết pháp cho hội chúng hàng trăm
người. Ở đây, một đệ tử của Sa-môn Gotama ho (thành tiếng). Một
vị đồng Phạm hạnh dùng đầu gối đập (nhẹ) vào người ấy và nói:
"Tôn giả hãy lặng tiếng ! Tôn giả chớ có làm ồn ! Thế Tôn, bậc
Đạo sư của chúng ta đang thuyết pháp". Trong khi Sa-môn Gotama
đang thuyết pháp cho hội chúng hàng trăm người, trong khi ấy
không có một tiếng đằng hắng, không có một tiếng ho giữa các đệ
tử của Sa-môn Gotama. Từng nhóm đại thính chúng đang sống trong
nhiệt tình kỳ vọng; nghĩ rằng: "Thế Tôn sẽ thuyết pháp cho ta và
ta được nghe". Ví như có người tại ngã tư đường, đang bóp vắt
một bánh mật ong nhỏ trong sạch, và đại chúng đang sống nhiệt
tình kỳ vọng. Cũng vậy, trong khi Sa-môn Gotama đang thuyết pháp
cho hội chúng hàng trăm người, trong khi ấy không có một tiếng
đằng hắng, không một tiếng ho giữa các đệ tử của Sa-môn Gotama.
Từng nhóm đại thính chúng đang sống trong nhiệt tình kỳ vọng
nghĩ rằng: "Thế Tôn sẽ thuyết pháp cho ta và ta sẽ được nghe".
Các đệ tử của Sa-môn Gotama sau khi cãi lộn với các vị đồng Phạm
hạnh từ bỏ tu học, trở lại hoàn tục, các vị ấy vẫn tán thán bậc
Đạo sư, tán thán Pháp, tán thán Tăng, tự quở trách mình, không
quở trách người khác: "Chính chúng ta thật bất hạnh, chính chúng
ta thật thiếu phước, dầu chúng ta xuất gia trong pháp luật được
khéo giảng như vậy mà không thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ thanh tịnh cho đến trọn đời". Họ trở thành những người
giữ vườn, hay những người cư sĩ và sống thọ trì năm giới". Như
vậy Sa-môn Gotama được các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường, và các đệ tử sau khi cung kính, tôn trọng, sống
nương tựa Sa-môn Gotama.
- – Này Udayi,
Ông thấy nơi ta có bao nhiêu pháp mà do các pháp này, các đệ tử
cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi cung
kính tôn trọng, sống nương tựa vào Ta ?
- – Bạch Thế
Tôn, con thấy nơi Thế Tôn có năm pháp mà do năm pháp này, các đệ
tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau khi
cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Thế Tôn. Thế nào là năm
?
- Bạch Thế Tôn,
Thế Tôn ăn ít và tán thán hạnh ăn ít. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ăn
ít và tán thán hạnh ăn ít. Chính pháp này, bạch Thế Tôn, là pháp
thứ nhất, con thấy nơi Thế Tôn. Do pháp này các đệ tử cung kính,
tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau khi cung kính,
tôn trọng, sống nương tựa vào Thế Tôn.
- Lại nữa, bạch
Thế Tôn, Thế Tôn biết đủ với bất cứ loại y nào và tán thán hạnh
biết đủ với bất cứ loại y nào. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn biết đủ với
bất cứ loại y nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ loại y
nào. Chính pháp này, bạch Thế Tôn là pháp thứ hai con thấy nơi
Thế Tôn. Do pháp này, các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường Thế Tôn, và sau khi cung kính, tôn trọng sống nương
tựa vào Thế Tôn.
- Lại nữa, bạch
Thế Tôn, Thế Tôn biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào và tán
thán hạnh biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào. Bạch Thế Tôn,
Thế Tôn biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào và tán thán hạnh
biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào. Chính pháp này, bạch
Thế Tôn, là pháp thứ ba con thấy nơi Thế Tôn. Do pháp này, các
đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau
khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Thế Tôn.
- Lại nữa, bạch
Thế Tôn, Thế Tôn biết đủ với bất cứ sàng tọa nào và tán thán
hạnh biết đủ với bất cứ sàng tọa nào. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn biết
đủ với bất cứ sàng tọa nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ
sàng tọa nào. Chính pháp này, bạch Thế Tôn, là pháp thứ tư con
thấy nơi Thế Tôn. Do pháp này, các đệ tử cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau khi cung kính, tôn trọng,
sống nương tựa vào Thế Tôn.
- Lại nữa, bạch
Thế Tôn, Thế Tôn sống viễn ly và tán thán hạnh sống viễn ly.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sống viễn ly và tán thán hạnh sống viễn
ly. Chính pháp này bạch Thế Tôn, là pháp thứ năm con thấy nơi
Thế Tôn. Do pháp này các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường Thế Tôn, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa vào Thế Tôn.
- Chính năm
pháp này, bạch Thế Tôn, con thấy nơi Thế Tôn. Do năm pháp này,
các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và
sau khi cung kính, tôn trọng sống nương tựa vào Thế Tôn.
- – "Sa-môn
Gotama ăn ít và tán thán hạnh ăn ít"; này Udayi, nếu vì vậy các
đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi
cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi, có
những đệ tử của Ta chỉ ăn với một bát (kosa), chỉ ăn với nửa
bát, chỉ ăn với trái cây veluva, chỉ ăn với nửa trái cây veluva,
và này Udayi. Còn Ta, có khi Ta ăn hơn một bình bát này, có khi
Ta ăn nhiều hơn như vậy nữa. "Sa-môn Gotama ăn ít và tán thán
hạnh ăn ít"; này Udayi, nếu vì vậy các đệ tử cung kính, tôn
trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi tôn trọng, cung kính
sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi, những đệ tử ấy của Ta,
sống nương tựa vào Ta chỉ ăn với một bát, chỉ ăn với nửa bát,
chỉ ăn với trái cây veluva, chỉ ăn với nửa trái cây veluva;
những vị ấy vì pháp hạnh này đáng lẽ không cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Ta, và đáng lẽ không tôn trọng cung kính
không sống nương tựa vào Ta.
- "Sa-môn
Gotama sống biết đủ với bất cứ loại y nào và tán thán hạnh biết
đủ với bất cứ loại y nào"; này Udayi, nếu vì vậy các đệ tử cung
kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính,
tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi, có những đệ tử
của Ta sống mặc phấn tảo y, mặc thô y. Những vị ấy lượm từng
mảnh vải từ bãi tha ma, hay từng đống rác, hay từ tiệm phố, và
sau khi làm thành áo sanghati (tăng-già-lê), họ mang loại áo ấy.
Còn Ta, này Udayi, có khi Ta mặc vải y của cư sĩ cúng dường, các
chỗ sờn mỏng được bện chắc lại với dây tơ cây bí trắng. "Sa-môn
Gotama sống biết đủ với bất cứ loại y nào và tán thán hạnh biết
đủ với bất cứ loại y nào"; này Udayi, nếu vì vậy các đệ tử của
Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi tôn
trọng cung kính, sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi, những vị
đệ tử ấy của Ta, sống mặc phấn tảo y, mặc thô y. Những vị ấy
lượm từng mảnh vải từ bãi tha ma, hay từ đống rác, hay từ tiệm
phố, và sau khi làm thành áo sanghati, họ mang loại áo ấy; những
vị ấy vì pháp (hạnh) này đáng lẽ không cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Ta, và đáng lẽ không cung kính, tôn trọng,
không sống nương tựa vào Ta.
- "Sa-môn
Gotama sống biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào và tán thán
hạnh biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào", nếu vì vậy, này
Udayi, các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và
sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời này
Udayi, có những đệ tử của Ta chỉ ăn những món ăn nhận trong bình
bát khất thực, chỉ đi khất thực từng nhà một (không bỏ sót nhà
nào); tự thỏa mãn với những món ăn mảy mún, khi đi vào trong
nhà, dầu được mời ngồi, cũng không chấp nhận. Còn Ta, này Udayi,
đôi khi Ta nhận ăn những chỗ được mời, nhận ăn các thứ gạo, cháo
trong ấy các hạt đen được vứt bỏ, các loại canh, các loại trợ
vị. "Sa-môn Gotama sống biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào
và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào"; này
Udayi nếu vì vậy, các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính
lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa vào Ta, thời này Udayi, những vị đệ tử ấy của Ta, chỉ ăn
những món ăn nhận trong bình bát khất thực, chỉ đi khất thực
từng nhà một, tự thỏa mãn với những món ăn mảy mún, khi đi vào
trong nhà, dầu được mời ngồi cũng không chấp nhận; những vị ấy
vì pháp (hạnh) này đáng lẽ không cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường Ta và đáng lẽ không cung kính, tôn trọng, không sống
nương tựa vào Ta.
- "Sa-môn
Gotama sống biết đủ và bất cứ sàng tọa nào và tán thán hạnh biết
đủ với bất cứ sàng tọa nào"; nếu vì vậy, này Udayi, các đệ tử
cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung
kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi, có những
đệ tử của Ta sống dưới gốc cây, sống ở ngoài trời. Những vị ấy
trong tám tháng không sống dưới mái che nào. Còn ta, này Udayi,
có đôi khi Ta sống dưới những ngôi lầu có gác nhọn, có tô vôi
trong và ngoài, được che gió, có then chốt đóng lại và có các
cửa sổ khép kín. "Sa-môn Gotama sống biết đủ với bất cứ sàng tọa
nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ sàng tọa nào" và nếu vì
vậy, này Udayi, các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng
dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào
Ta, thời này Udayi, các vị đệ tử ấy của Ta, sống dưới gốc cây,
sống ở ngoài trời, trong tám tháng không sống dưới mái che nào;
những vị ấy vì pháp (hạnh) này đáng lẽ không cung kính, tôn
trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và đáng lẽ không cung kính tôn
trọng, không sống nương tựa vào Ta.
- "Sa-môn
Gotama là vị sống viễn ly và tán thán hạnh viễn ly"; này Udayi,
nếu vì vậy các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường
Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời
này Udayi, có những đệ tử của Ta sống trong rừng núi, tại các
trú xứ xa vắng. Sau khi đi sâu vào trong rừng núi, trong các trú
xứ xa vắng, sống tại các chỗ ấy, và nửa tháng một lần mới trở về
giữa Tăng chúng để tụng đọc Giới bổn. Còn Ta, này Udayi, đôi khi
ta sống đoanh vây xung quanh bởi các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Cư sĩ
nam, Cư sĩ nữ, Quốc vương, Đại thần, Ngoại đạo, đệ tử các ngoại
đạo. "Sa-môn Gotama là vị sống viễn ly và tán thán hạnh viễn
ly"; và nếu vì vậy, này Udayi, các đệ tử cung kính, tôn trọng
kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống
nương tựa vào Ta, thời này Udayi, các vị đệ tử ấy của Ta, sống
trong rừng núi, tại các trú xứ xa vắng. Sau khi đi sâu vào trong
núi, trong các trú xứ xa vắng, sống tại các chỗ ấy và nửa tháng
một lần, mới trở về giữa Tăng chúng để tụng đọc Giới bổn; những
vị đệ tử ấy vì pháp (hạnh) này đáng lẽ không cung kính, tôn
trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và đáng lẽ không cung kính, tôn
trọng, không sống nương tựa vào Ta.
- Như vậy, này
Udayi, các đệ tử của Ta do năm pháp này không cung kính, tôn
trọng, kính lễ, cúng dường Ta và không cung kính, tôn trọng,
không sống nương tựa vào Ta.
- Này Udayi, lại có năm pháp khác,
do năm pháp này, các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa (vào
Ta). Thế nào là năm ?
- Ở đây, này
Udayi, các đệ tử của Ta thán phục Tăng thượng giới: "Sa-môn
Gotama là vị có giới hạnh và thành tựu giới uẩn tối thượng". Này
Udayi, chính đệ tử của Ta thán phục Tăng thượng giới, nghĩ rằng:
"Sa-môn Gotama là vị có giới hạnh và thành tựu giới uẩn tối
thượng", đây là pháp thứ nhất, này Udayi, các đệ tử của Ta cung
kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi cung kính ,
tôn trọng, sống nương tựa vào Ta.
- Lại nữa, này
Udayi, các đệ tử của Ta thán phục tri kiến vi diệu. Khi nói: "Ta
biết", nghĩa là Sa-môn Gotama có biết. Khi nói: "Ta thấy", nghĩa
là Sa-môn Gotama có thấy. Sa-môn Gotama thuyết pháp với thắng
trí, không phải không với thắng trí. Sa-môn Gotama thuyết pháp
có nhơn duyên, không phải không có nhơn duyên. Sa-môn Gotama
thuyết pháp có thần thông lực (Sappatihariyam), không phải không
có thần thông lực. Này Udayi, chính đệ tử của Ta thán phục tri
kiến vi diệu và nghĩ rằng: "Khi nói: "Ta biết", nghĩa là Sa-môn
Gotama có biết: Khi nói: "Ta thấy", nghĩa là Sa-môn Gotama có
thấy. Sa-môn Gotama thuyết pháp với thắng trí, không phải không
với thắng trí. Sa-môn thuyết pháp với nhơn duyên, không phải
không có nhơn duyên. Sa-môn Gotama thuyết pháp có thần thông
lực, không phải không có thần thông lực". Đây là pháp thứ hai
này Udayi, các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng
dường Ta và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta.
- Lại nữa, này
Udayi, đệ tử của Ta thán phục Tăng thượng trí tuệ và sự kiện này
không thể xảy ra khi họ nghĩ rằng: "Sa-môn Gotama là vị có trí
tuệ và thành tựu tuệ uẩn tối thượng. (Tuy vậy) Ngài không thấy
trước một luận đạo nào ở tương lai, hay một luận nạn ngoại đạo
nào khởi lên (trong hiện tại) mà Ngài không luận phá sau khi
khéo léo nạn phá với Chánh pháp". Này Udayi, Ông nghĩ thế nào ?
Các đệ tử của Ta, sau khi biết như vậy, thấy như vậy, có thể làm
gián đoạn một cuộc đàm thoại đang diễn tiến nửa chừng không ?
- – Thưa không,
bạch Thế Tôn.
- – Này Udayi,
Ta không chờ đợi sự giáo giới từ nơi những đệ tử của Ta. Trái
lại, chính những đệ tử của Ta chờ đợi sự giáo giới từ nơi Ta. Do
vậy, này Udayi, sự kiện này không thể xảy ra khi các đệ tử của
Ta thán phục Tăng thượng trí tuệ và suy nghĩ: "Sa-môn Gotama là
bậc có trí tuệ và thành tựu tuệ uẩn tối thắng. (Tuy vậy) Ngài
không thấy (trước) một luận đạo nào ở tương lai, hay một luận
nạn ngoại đạo nào khởi lên (trong hiện tại) mà Ngài không luận
phá, sau khi khéo léo nạn phá với chánh pháp". Đây là pháp thứ
ba, này Udayi, mà các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính
lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa vào Ta.
- Lại nữa, này
Udayi, những đệ tử của Ta bị đắm chìm trong đau khổ, bị đau khổ
chi phối, đến Ta và hỏi về khổ Thánh đế. Được hỏi về Khổ Thánh
đế, Ta trả lời cho họ. Ta làm cho tâm của họ thỏa mãn với câu
trả lời của Ta. Họ hỏi Ta về Khổ tập, Khổ diệt, Khổ diệt đạo
Thánh đế, Ta trả lời cho họ. Ta làm cho tâm của họ thỏa mãn với
câu trả lời của Ta. Đây là pháp thứ tư, này Udayi, mà các đệ tử
của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi
cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ theo đường tu hành này, tu tập Bốn Niệm xứ. Ở
đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm
tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham ưu trên đời, quán thọ
trên các cảm thọ... quán tâm trên các tâm... quán pháp trên các
pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham ưu
trên đời. Và ở đây các đệ tự của Ta, phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Bốn Chánh cần. Ở
đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo với mục đích khiến cho các ác, bất
thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý
muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến
cho các ác, bất thiện pháp đã sanh ra được trừ diệt, khởi lên ý
muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến
cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay cho sanh khởi, khởi
lên ý muốn cố gắng; tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích
khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có
mù mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên
mãn, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm... Và
ở đây, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ
thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ theo đường tu hành này tu tập Bốn Thần túc. Ở
đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập thần túc, câu hữu với dục
Thiền định tinh cần hành... tinh tấn Thiền định... tâm Thiền
định, tu tập thần túc, câu hữu với tư duy Thiền định tinh cần
hành. Và ở đây, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng
ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ theo đường tu hành này tu tập Năm Căn. Ở đây,
này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập tín căn hướng đến an tịnh, đưa đến
giác ngộ, tu tập tinh tấn căn... tu tập niệm căn... tu tập định
căn... tu tập tuệ căn, hướng đến an tịnh, đưa đến giác ngộ. Và ở
đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng
ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ theo đường tu hành này, tu tập Năm Lực. Ở đây,
này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập tín lực, hướng đến an tịnh, đưa đến
giác ngộ, tu tập tinh tấn lực... tu tập niệm lực... tu tập định
lực...tu tập tuệ lực, hướng đến an tịnh, đưa đến giác ngộ. Ở
đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng
ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Bảy Giác chi. Ở
đây, này các Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, y chỉ viễn
ly, y chỉ ly tham, y chỉ diệt, hướng đến xả, tu tập trạch pháp
giác chi... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác chi... tu
tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi, tu tập xả giác
chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ diệt, hướng đến xả. Và
ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Thánh đạo Tám
ngành. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập chánh tri kiến, tu
tập chánh tư duy, tu tập chánh ngữ, tu tập chánh nghiệp, tu tập
chánh mạng, tu tập chánh tinh tấn, tu tập chánh niệm, tu tập
chánh định. Và ở đây, này Udayi, các vị đệ tử của Ta phần đông
an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh
viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và đệ tử
của Ta y cứ con đường tu hành này tu tập Tám Giải thoát. "Tự
mình có sắc, thấy các sắc", đó là giải thoát thứ nhất. "Quán
tưởng nội sắc, thấy các ngoại sắc", đó là giải thoát thứ hai.
"Quán tưởng (sắc là) tịnh,, chú tâm trên suy tưởng ấy", đó là
giải thoát thứ ba. Vượt hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng
đối ngại, không suy tư đến những tưởng khác biệt, với suy tư "Hư
không là vô biên", chứng và trú "Không vô biên xứ", đó là giải
thoát thứ tư. Vượt hoàn toàn Hư không vô biên xứ, với suy tư
"Thức là vô biên", chứng và trú "Thức vô biên xứ", đó là giải
thoát thứ năm. Vượt hoàn toàn "Thức vô biên xứ", với suy tư
"không có vật gì", chứng và trú "Vô sở hữu xứ", đó là giải thoát
thứ sáu. Vượt hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, đó là giải thoát thứ bảy. Vượt hoàn toàn Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng, đó là giải thoát
thứ tám. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú,
sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này tu tập Tám Thắng xứ. Một
vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc, có hạn lượng,
đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng. "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta
biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ nhất. Một vị quán tưởng nội
sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức
rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ hai. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại
ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ ba. Một
vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc vô
lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng
chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tư. Một vị quán
tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc
màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh... như bông gai màu xanh,
sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh... như lụa Ba la nại,
cả hai mặt láng trơn, màu xanh, sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh
sáng xanh. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các
loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng
xanh. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta thấy,
ta biết", đó là thắng xứ thứ năm. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng
vàng... như bông Kanikara màu vàng, sắc màu vàng, hình sắc vàng,
ánh sáng vàng... như lụa Ba la nại, cả hai mặt láng trơn màu
vàng, sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng. Như vậy vị này
quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng,
sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng, vị ấy nhận thức
rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ sáu. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại
ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc màu đỏ, ánh sáng đỏ...
như bông Bandhujivaka màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng
đỏ... như lụa sa Ba la nại, cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu
đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở
nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc
đỏ, ánh sáng đỏ, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng
chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ bảy. Một vị quán
tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc
màu trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng... như sao mai Osadhi
màu trắng, sắc màu trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng... như
lụa sa Ba la nại, cả hai mặt láng trơn màu trắng, sắc màu trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tám. Và
ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này tu tập Mười Biến xứ. Một
vị biết được đất biến xứ: trên dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
Một vị biết được nước biến xứ... Một vị biết được lửa biến...
Một vị biết được gió biến... Một vị biết được xanh biến... Một
vị biết được vàng biến... Một vị biết được đỏ biến... Một vị
biết được trắng biến... Một vị biết được hư không biến... Một vị
biết được thức biến xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng. Và
ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này tu tập Bốn Thiền. Ở đây,
này Udayi, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm,
với tứ. Vị Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn
đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên
toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này
Udayi, như một người hầu tắm lão luyện, hay đệ tử người hầu tắm,
sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với
nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với
nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy
thành giọt, cũng vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt,
làm sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh,
không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục
sanh ấy thấm nhuần. Lại nữa, này Udayi, vị Tỷ-kheo ấy diệt tầm
và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị Tỷ-kheo ấy thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc
do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc
do định sanh ấy thấm nhuần. Này Udayi, ví như một hồ nước, nước
từ trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương
Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy
ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời
lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm
ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh,
không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh ấy
thấm nhuần; cũng vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần; tẩm ướt,
làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh,
không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh
ấy thấm nhuần. Lại nữa, này Udayi, vị Tỷ-kheo ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ và các bậc Thánh gọi
là "xả niệm lạc trú", chứng và an trú vào Thiền thứ ba. Vị
Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân
mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn
thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này Udayi, ví
như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen
xanh, sen hồng hay sen trắng; những bông sen ấy sanh trong nước,
lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước,
từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần tẩm ướt, đầy tràn thấu
suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen
xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm
nhuần; cũng vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm
cho sung mãn, tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy,
không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ
ấy thấm nhuần. Lại nữa, này Udayi, vị Tỷ-kheo xả lạc xả khổ,
diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không
khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị Tỷ-kheo ấy ngồi thấm
nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một
chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy
thấm nhuần. Này Udayi, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng
trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng
ấy che thấu; cũng vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo ngồi thấm nhuần
toàn thân mình với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào
trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm
nhuần. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú,
sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi. Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này tuệ tri như sau: "Thân
này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ
cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn
tuyệt, hoại diệt, trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị trói
buộc. Ví như, này Udayi, một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong
suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược,
đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy,
sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, hay màu vàng
nhạt. Một người có mắt cầm hòn ngọc ấy trên tay sẽ thấy: "Hòn
lưu ly bảo châu này, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa,
khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và
sợi dây này được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu
vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng nhạt". Cũng vậy, này Udayi,
Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử
của Ta y cứ con đường tu hành này biết được như sau: "Thân này
của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm
cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt,
hoại diệt, trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị trói buộc.
Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này chú tâm, hướng tâm đến
sự hóa hiện một thân do ý làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi
thân này, cũng là sắc pháp, do ý làm ra, đầy đủ các chi tiết lớn
nhỏ, không thiếu một căn nào. Ví như, này Udayi, một người rút
một cây lau ra ngoài vỏ, người ấy nghĩ: "Đây là vỏ, đây là cây
lau, vỏ khác, cây lau khác, và cây lau từ vỏ rút ra". Ví như,
này Udayi, một người rút thanh kiếm từ bao kiếm. Người ấy nghĩ:
"Đây là thanh kiếm, đây là bao kiếm; thanh kiếm khác, bao kiếm
khác; và thanh kiếm từ nơi bao kiếm rút ra. Ví như, này Udayi,
một người lột xác một con rắn. Người ấy nghĩ: "Đây là con rắn,
đây là xác rắn; con rắn khác, xác rắn khác; và con rắn từ nơi
xác rắn được lột ra". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con
đường tu hành cho các đệ tử . Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, chú tâm, hướng tâm đến sự hóa hiện một thân do ý
làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc
pháp, do ý làm ra, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ,không thiếu một
căn nào. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú,
sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này dẫn tâm, hướng tâm đến
các thần thông. Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân
hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình, biến
hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư
không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước;
đi trên nước không chìm như trên đất liền; ngồi kiết già đi trên
hư không như con chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt
trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự
thân bay đến cõi Phạm thiên. Ví như, này Udayi, một người thợ
gốm khéo tay, hay đệ tử người thợ gốm, với đất sét khéo nhồi
nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích. Ví như,
này Udayi, một người thợ ngà khéo tay, hay đệ tử người thợ ngà,
với ngà khéo đẽo khéo dũa, có thể làm các loại đồ ngà tùy theo
sở thích. Ví như, này Udayi, người thợ vàng khéo tay, hay đệ tử
người thợ vàng, với vàng khéo tinh nhuyễn có thể làm các loại đồ
vàng tùy theo sở thích; cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con
đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng
được các thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân
hiện ra một thân; hiện hình biến hình đi ngang qua vách, qua
tường, qua núi, như đi ngang qua hư không; độn thổ, trồi lên
ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trong nước không chìm
như đi trên đất liền; ngồi kiết gia đi trên hư không như con
chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt trăng, những vật có
đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi
Phạm thiên. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an
trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên
mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, với thiên nhĩ thanh
tịnh siêu nhân, có thể nghe được hai loại tiếng, chư Thiên và
Người, xa và gần. Ví như, này Udayi, một người đang đi qua
đường, nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng
xập xỏa và tiếng kiểng. Người ấy nghĩ: "Đây là tiếng trống lớn,
đây là tiếng trống nhỏ, đây là tiếng loa, tiếng xập xỏa, tiếng
kiểng. Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành
cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta, y cứ con đường tu hành này,
với thiên nhĩ, thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe được hai loại
tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần. Và ở đây, này Udayi, các
đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí
và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, sau khi đi sâu vào tâm
của chúng sanh, của loài người với tâm của mình được biết như
sau: "Tâm tham biết là tâm tham; tâm không tham, biết là tâm
không tham. Tâm sân, biết là tâm sân; tâm không sân, biết là tâm
không sân. Tâm si, biết là tâm si; tâm không si, biết là tâm
không si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú; tâm không
chuyên chú, biết là tâm không chuyên chú. Tâm đại hành, biết là
tâm đại hành; tâm không đại hành, biết là tâm không đại hành.
Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng
biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định, biết là tâm Thiền định;
tâm không Thiền định, biết là tâm không Thiền định. Tâm giải
thoát, biết là tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết là tâm
không giải thoát. Ví như, này Udayi, một người đàn bà, một người
đàn ông, một thiếu niên trẻ hay một thanh niên ưa trang sức,
nhìn mặt của mình trong tấm gương trong sạch sáng suốt, hay một
chậu nước trong; nếu mặt có tỳ vết, liền biết mặt có tỳ vếtnếu
mặt không có tỳ vết, liền biết mặt không có tỳ vết". Cũng vậy,
này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và
các đệ tử của Ta, y cứ con đường tu hành này, sau khi đi sâu vào
tâm của chúng sanh, của loài người với tâm của mình được biết
như sau: "Tâm tham, biết là tâm tham; tâm không tham biết là tâm
không tham. Tâm sân, biết là tâm sân; tâm không sân, biết là tâm
không sân. Tâm si biết là tâm si; tâm không si biết là tâm không
si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú; tâm không chuyên
chú; biết là tâm không chuyên chú. Tâm đại hành, biết là tâm đại
hành; tâm không đại hành, biết là tâm không đại hành. Tâm chưa
vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng biết là tâm
vô thượng. Tâm Thiền định, biết là tâm Thiền định; tâm không
Thiền định, biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát; biết
là tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết là tâm không giải
thoát". Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú,
sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, nhớ đến các đời sống
quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười
đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một
trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều
hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ
rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này,
giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức
như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ
nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai
cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như
vậy các vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với nét đại
cương và các chi tiết. Ví như, này Udayi, một người đi từ làng
mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa, và từ
làng này lại trở về làng của mình. Người ấy nghĩ: "Ta từ làng
của mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã
ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này.
Từ nơi làng nọ, ta đã trở về làng của ta". Cũng vậy, này Udayi,
Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử
của Ta y cứ con đường tu hành này, nhớ đến các đời sống quá khứ
như một đời, hai đời... (như trên)... Như vậy các vị ấy nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi
tiết. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú,
sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí chứng đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, với thiên nhãn thuần
tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Những vị ấy
biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ
kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
họ. Những chúng sanh nào làm những ác hạnh về thân, lời và ý,
phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà
kiến; những người này sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm
những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc
Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những
người này, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên các thiện
thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, các vị ấy với thiên nhãn
thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Những vị
ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp
đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
họ. Ví như, này Udayi, một tòa lầu có thượng đài giữa ngã tư
đường, một người có mắt đứng trên ấy, sẽ thấy những người đi vào
nhà, đi từ nhà ra, đi qua lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư hay
trên đài thượng. Người ấy nghĩ: "Những người này đi vào nhà,
những người này đi từ nhà ra, những người này đi qua lại trên
đường, những người này ngồi giữa ngã tư hay trên đài thượng".
Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các
đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, với thiên
nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng
sanh. Những vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao
sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh... (như
trên)... đều do hạnh nghiệp của họ. Và ở đây, này Udayi, các đệ
tử của Ta phần đông an trú sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí chứng
đắc cứu cánh viên mãn.
- Lại nữa, này
Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các
đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, sau khi đoạn tận các
lậu hoặc, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú
ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ví
như, này Udayi, tại dãy núi lớn có một hồ nước thuần tịnh, trong
sáng, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên bờ sông thấy
con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi qua
lại, hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: "Đây hồ nước, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm. Đây là những con hến, con sò, những
hòn đá, hòn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng yên một
chỗ". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho
các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, sau
khi đoạn tận các lậu hoặc, tự mình chứng ngộ với thắng trí,
chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông
an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh
viên mãn.
- Này Udayi,
đây là pháp thứ năm, do pháp này các đệ tử của Ta cung kính, tôn
trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi cung kính, tôn trọng,
sống nương tựa vào Ta.
- Này Udayi, do
năm pháp này, các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường Ta và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa
vào Ta.
- Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Du sĩ Sakuludayi hoan hỷ, tín thọ lời Thế
Tôn dạy.
- --o0o--
|
|