|
Kinh Trung Bộ
H. T. Thích Minh Châu dịch
--o0o--
- KINH NĂM BA
-
(Pancattayasutam)
-
- Như vầy tôi
nghe.
- Một thời Thế
Tôn trú ở Savatthi, Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tu viện ông
Anathapindika. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các
Tỷ-kheo"- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
- – Này các
Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về tương lai, thảo
luận về tương lai, y cứ vào tương lai, tuyên bố nhiều quan điểm
sai khác. Ở đây, một số tuyên bố : "Sau khi chết, tự ngã không
bệnh, có tưởng". Ở đây, một số tuyên bố : "Sau khi chết, tự ngã
không bệnh, không tưởng". Ở đây một số tuyên bố : "Sau khi chết,
tự ngã không bệnh, phi tưởng và phi phi tưởng". Hay họ chủ
trương đoạn diệt hủy hoại, tiêu diệt của loài hữu tình hiện đang
sanh tồn. Hay một số lại tuyên bố về hiện tại Niết-bàn. Như vậy,
họ chủ trương sau khi chết, tự ngã tồn tại không bệnh. Hay họ
chủ trương đoạn diệt, hủy hoại, tiêu diệt của loài hữu tình hiện
đang sanh tồn. Hay một số lại tuyên bố hiện tại Niết-bàn. Như
vậy, những chủ thuyết này, sau khi thành năm trở lại thành ba,
sau khi thành ba, trở lại thành năm. Đây là sự tổng thuyết năm
ba.
- Ở đây, này
các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi
chết, tự ngã có tưởng, không bệnh, các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy hoặc chủ trương sau khi chết tự ngã có sắc, có tưởng, không
bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết,
tự ngã hoặc không có sắc, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc
và không sắc, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc và
không không sắc, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy chủ trương tự ngã hoặc nhất tưởng, có tưởng, không
bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết,
tự ngã hoặc dị tưởng, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy chủ trương tự ngã sau khi chết hoặc thiểu tưởng, có
tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương
sau khi chết, tự ngã hoặc vô lượng tưởng, có tưởng, không bệnh.
Nhưng có một số tuyên bố thức biến này (vinnanakasina) khi vượt
qua khỏi (upativa-ttatam ?) trở thành vô lượng, bất động. Về vấn
đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau : "Những Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã có tưởng,
không bệnh, các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi
chết, tự ngã hoặc có sắc, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không
có sắc, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy
chủ trương sau khi chết tự ngã hoặc có sắc và không sắc, có
tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương
sau khi chết tự ngã hoặc không sắc và không không sắc, có tưởng,
không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi
chết, tự ngã hoặc nhứt tưởng, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc di
tưởng, có tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy
chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc thiểu tưởng, có tưởng,
không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi
chết, tự ngã hoặc vô lượng tưởng, có tưởng, không bệnh. Hay (Như
Lai biết) loại tưởng nào trong các loại tưởng ấy được xưng là
thanh tịnh, tối thắng, đệ nhất, vô thượng, tức là sắc tưởng, tức
là vô sắc tưởng, tức là nhứt tưởng, tức là dị tưởng. Nói rằng:
"vô sở hữu", một số tuyên bố Vô sở hữu xứ là vô lượng, bất động.
Biết rằng cái này thuộc hữu vi, là thô pháp, nhưng có sự đoạn
diệt các hành, biết được có (sự đoạn diệt) này, Như Lai thấy sự
giải thoát khỏi (pháp hữu vi) và đã vượt khỏi (pháp hữu vi)".
- Ở đây, này
các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà- la-môn nào chủ trương sau khi
chết, tự ngã không tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc không
tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương
sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc, không tưởng, không bệnh;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã
hoặc có sắc không sắc, không tưởng, không bệnh. Các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết tự ngã hoặc cũng
không sắc, không không sắc, không tưởng không bệnh.
- Ở đây, này
các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi
chết, tự ngã có tưởng, vô bệnh, một số phỉ báng các vị ấy. Vì
sao vậy ? Họ nói rằng : "Tưởng là bệnh hoạn, tưởng là mụt nhọt,
tưởng là mũi tên; đây là tịch tịnh, thù diệu tức là vô tưởng".
Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau : "Những
Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã là
không tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ
trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc, không tưởng, không
bệnh; Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết,
tự ngã hoặc không sắc không tưởng không bệnh; các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc
và không sắc, không tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không có sắc,
không không sắc, không tưởng, không bệnh". Này các Tỷ-kheo, vị
Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau : "Ngoài sắc, ngoài thọ,
ngoài tưởng, ngoài hành, ngoài thức, ta sẽ chủ trương sự lai,
vãng, tử, sanh, tăng trưởng, tăng thịnh, hay tăng đại"; sự tình
không có như vậy. Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp,
nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết được có (sự đoạn diệt) này,
Như Lai thấy sự giải thoát (pháp hữu vi) và đã vượt khỏi (pháp
hữu vi).
- Ở đây, này
các Tỷ-kheo những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau
khi chết tự ngã là Phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn
giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có
sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc, phi
tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc và không sắc, phi
tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc, không không
sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh. Ở đây này các Tỷ-kheo,
các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã có
tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các vị ấy; các Sa-môn,
Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã không tưởng, không
bệnh, một số phỉ báng các vị ấy. Vì sao vậy ? (Họ nói rằng) :
"Tưởng là bệnh hoạn, tưởng là mụt nhọt, tưởng là mũi tên, không
tưởng là si ám. Đây là tịch tịnh, thù diệu, tức là phi tưởng phi
phi tưởng". Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau
: "Những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết,
tự ngã là phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh, các Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có
sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc, phi
tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc và không sắc, phi
tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã là không có sắc, không không
sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh".
- Này các
Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sự thành tựu của
xứ này (ayatana) chỉ nhờ những hành có thể thấy được, nghe được,
tư duy được, ý thức được; đây được xưng, này các Tỷ-kheo, là tổn
hại cho sự thành tựu xứ (ayatana) này. Vì rằng, này các Tỷ-kheo,
xứ này không được xưng là có thể đạt thành nhờ sự thành tựu hữu
hành (sasankhara), mà này các Tỷ-kheo, xứ này được xưng là có
thể đạt thành nhờ sự thành tựu không có hành nào còn lại. Biết
rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các
hành, biết được có (sự đoạn diệt này), Như Lai thấy sự giải
thoát khỏi (pháp hữu vi) và đã vượt khỏi (pháp hữu vi).
- Ở đây, này
các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương đoạn
diệt, hủy hoại, diệt tận của loại hữu tình hiện đang sinh tồn. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương
sau khi chết, tự ngã có tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các
vị ấy. Còn những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi
chết, tự ngã không tưởng không bệnh, một số phỉ báng các vị ấy.
Còn những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự
ngã phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các vị
ấy. Vì sao vậy ? Tất cả những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này
hướng thượng tuyên bố có chấp trước : "Đời sau chúng ta sẽ hiện
hữu, đời sau chúng ta sẽ hiện hữu". Ví như một người lái buôn đi
buôn bán nghĩ rằng : "Từ đây ta sẽ có vật này, ta sẽ được vật
này từ cái này". Cũng vậy, những vị Sa-môn, Bà-la-môn này, chúng
ta nghĩ rằng, cũng giống như những người lái buôn khi các vị này
nói : "Đời sau chúng ta sẽ hiện hữu, đời sau chúng ta sẽ hiện
hữu". Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết được : "Những
Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương đoạn diệt, hủy hoại,
diệt tận, loại hữu tình hiện đang sinh tồn, những vị ấy sợ hãi
tự thân, yếm ly tự thân, chỉ chạy theo và chạy vòng quanh tự
thân". Ví như một con chó bị dây cột vào một cột trụ hay cây cột
vững chắc, chạy theo và chạy vòng tròn cột trụ hay cây cột ấy.
Cũng vậy, các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy sợ hãi tự thân, yếm
ly tự thân, chỉ biết chạy theo và chạy vòng quanh tự thân. Biết
rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các
hành, biết được có (sự đoạn diệt này), Như Lai thấy sự giải
thoát khỏi (pháp hữu vi), và đã vượt khỏi (pháp hữu vi).
- Này các
Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào luận bàn về tương lai,
thảo luận về tương lai, y cứ vào tương lai tuyên bố nhiều quan
điểm sai khác, tất cả đều tuyên bố năm xứ này hay một trong
chúng. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về
quá khứ, thảo luận về quá khứ, y cứ vào quá khứ, tuyên bố nhiều
quan điểm sai khác : "Tự ngã và thế giới là thường còn; chỉ như
vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố
như vậy. "Tự ngã và thế giới là vô thường; chỉ như vậy là chơn
thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy : "Tự
ngã và thế giới là thường còn là vô thường; chỉ như vậy là chân
thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy. "Tự
ngã và thế giới là không phải thường còn, không phải vô thường;
chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số
tuyên bố như vậy. "Tự ngã và thế giới là hữu biên; chỉ như vậy
là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như
vậy. "Tự ngã và thế giới là vô biên; chỉ như vậy là chơn thật,
ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy. "Tự ngã và
thế giới là hữu biên và vô biên; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài
ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy. "Tự ngã và thế
giới không phải hữu biên, không phải vô biên; chỉ như vậy là
chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
"Tự ngã và thế giới là nhứt tưởng; chỉ như vậy là chơn thật,
ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy. "Tự ngã và
thế giới là dị tưởng; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư
vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy. "Tự ngã và thế giới là
thiểu tưởng; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở
đây, một số tuyên bố như vậy. "Tự ngã và thế giới là vô lượng
tưởng; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây,
một số tuyên bố như vậy. "Tự ngã và thế giới là nhứt hướng lạc;
chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số
tuyên bố như vậy. "Tự ngã và thế giới là nhứt hướng khổ; chỉ như
vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố
như vậy. "Tự ngã và thế giới là lạc và khổ; chỉ như vậy là chơn
thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy. "Tự
ngã và thế giới là không khổ, không lạc; chỉ như vậy là chơn
thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có chủ
thuyết như sau, có quan điểm như sau : "Tự ngã và thế giới là
thường còn, chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng".
Ngoài tín, ngoài hỷ, ngoài tùy văn, ngoài thẩm định lý do, ngoài
kham nhẫn chấp thọ (tà) kiến, trí tự mình sẽ trở thành thanh
tịnh, trong sạch; sự tình như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo,
nếu trí tự mình không trở thành thanh tịnh, trong sạch, thời cho
đến chỉ một phần nhỏ của trí, mà những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy làm cho trong sạch chính như vậy cũng được xưng là chấp trước
đối với những vị Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Biết rằng cái này
thuộc hữu vi là thô pháp, không có sự đoạn diệt các hành, biết
được có (sự đoạn diệt này), Như Lai thấy sự giải thoát khỏi
(pháp hữu vi) và đã vượt khỏi (pháp hữu vi).
- Ở đây, này
các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có lý thuyết như
sau, có quan điểm như sau : "Tự ngã và thế giới là vô thường...
(như trên)... tự ngã và thế giới là thường còn và vô thường...
(như trên)... tự ngã và thế giới không thường còn và không vô
thường... (như trên)... tự ngã và thế giới là vô biên... (như
trên)... tự ngã và thế giới là hữu biên và vô biên... (như
trên)... tự ngã và thế giới là không hữu biên, không vô biên...
(như trên)... tự ngã và thế giới là nhứt tưởng... (như trên)...
tự ngã và thế giới là dị tưởng... (như trên)... tự ngã và thế
giới là thiểu tưởng... (như trên)... tự ngã và thế giới là vô
lượng tưởng... (như trên)... tự ngã và thế giới là nhứt hướng
lạc... (như trên)... tự ngã và thế giới là nhứt hướng khổ...
(như trên)... tự ngã và thế giới là lạc và khổ.. (như trên)...
Tự ngã và thế giới là không khổ, không lạc; chỉ như vậy là chơn
thật, ngoài ra là hư vọng. Ngoài lòng tin, ngoài hỷ, ngoài tùy
văn, ngoài thẩm định lý do, ngoài sự kham nhẫn chấp thọ (tà)
kiến, trí tự mình sẽ trở thành thanh tịnh, trong sạch, sự tình
như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, nếu trí tự mình không trở
thành thanh tịnh, trong sạch, thời cho đến chỉ một phần nhỏ của
trí, mà những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy làm cho trong sạch,
chính như vậy cũng được xưng là chấp trước đối với những Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô
pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết được có (sự đoạn diệt
này), Như Lai thấy sự giải thoát khỏi (pháp hữu vi), và đã vượt
khỏi (pháp hữu vi).
- Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn do từ bỏ những quan điểm
về quá khứ, và từ bỏ những quan điểm về tương lai, do không hoàn
toàn chú tâm đến những dục kiết sử, đạt được viễn ly hỷ và an
trú. Vị ấy nghĩ: "Đây là sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt
được viễn ly hỷ, ta an trú". Nhưng nếu viễn ly hỷ ấy của vị này
bị đoạn diệt, do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, ưu tư sanh khởi. Do ưu
tư được đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh khởi. Ví như, này các
Tỷ-kheo, chỗ nào bóng mát từ bỏ, chỗ ấy sức nóng (mặt trời) lan
rộng, chỗ nào sức nóng (mặt trời) từ bỏ, chỗ ấy bóng mát lan
rộng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, ưu
tư sanh khởi. Do ưu tư được đoạn diệt nên viễn ly hỷ sanh khởi.
Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: Vị Tôn giả
Sa-môn hay Bà-la-môn này, do từ bỏ những quan điểm về quá khứ,
và do từ bỏ những quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú
tâm đến các dục kiết sử, sau khi đạt được viễn ly hỷ, liền an
trú : "Đây là sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt được viễn ly
hỷ, ta an trú". Viễn ly ấy của vị này bị đoạn diệt. Do viễn ly
hỷ bị đoạn diệt, ưu tư sanh khởi; do ưu tư được đoạn diệt, viễn
ly hỷ sanh khởi. Biết rằng cái này thuộc hữu vi pháp là thô
pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết được có (sự đoạn diệt
này), Như Lai thấy sự giải thoát khỏi (pháp hữu vi) và đã vượt
khỏi (pháp hữu vi).
- Nhưng ở đây,
này các Tỷ-kheo, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn, do từ bỏ các quan
điểm về quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn
toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do vượt qua viễn ly hỷ,
sau khi đạt được phi vật chất lạc liền an trú: "Đây là sự thật,
đây là thù diệu tức là đạt được phi vật chất lạc, ta an trú".
Phi vật chất lạc của vị ấy bị đoạn diệt; do phi vật chất lạc bị
đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh khởi; do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, phi
vật chất lạc sanh khởi. Ví như, này các Tỷ-kheo, chỗ nào bóng
mát từ bỏ, chỗ ấy sức nóng (mặt trời) lan rộng, chỗ nào sức nóng
(mặt trời) từ bỏ, chỗ ấy bóng mát lan rộng; cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh khởi;
do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi. Về vấn
đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau : Vị Tôn giả
Sa-môn hay Bà-la-môn này, do từ bỏ các quan điểm về quá khứ, do
từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến
các dục kiết sử, do vượt qua viễn ly hỷ, đạt được phi vật chất
lạc và an trú : "Đây là sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt
được phi vật chất lạc, ta an trú". Phi vật chất lạc ấy của vị
này bị đoạn diệt. Do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, viễn ly hỷ
sanh khởi; do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh
khởi. Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng có sự
đoạn diệt các hành; biết được có (sự đoạn diệt) này, Như Lai
thấy được sự giải thoát khỏi (pháp hữu vi) và đã vượt khỏi (pháp
hữu vi).
- Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có Sa-môn hay Bà-la-môn, do từ bỏ các quan điểm về
quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không
chú tâm đến các dục kiết sử, do vượt qua viễn ly hỷ, do vượt qua
phi vật chất lạc, sau khi đạt được vô khổ vô lạc thọ, liền an
trú : "Đây là sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt được vô khổ
vô lạc thọ, ta an trú". Vô khổ vô lạc thọ ấy của vị này bị đoạn
diệt. Do vô khổ vô lạc thọ bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh
khởi; do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, vô khổ vô lạc thọ sanh
khởi. Ví như này các Tỷ-kheo, chỗ nào bóng mát từ bỏ, chỗ ấy sức
nóng (mặt trời) lan rộng, chỗ nào sức nóng từ bỏ, chỗ ấy bóng
mát lan rộng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do vô khổ vô lạc thọ bị
đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi; do phi vật chất lạc bị
đoạn diệt, vô khổ vô lạc thọ sanh khởi. Về vấn đề này, này các
Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: vị Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn
này, do từ bỏ các quan điểm về quá khứ, do từ bỏ các quan điểm
về tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do
vượt qua viễn ly hỷ, do vượt qua phi vật chất lạc, sau khi đạt
được vô khổ vô lạc thọ, liền an trú: "Đây là sự thật, đây là thù
diệu, tức là đạt được vô khổ vô lạc thọ, ta an trú". Vô khổ vô
lạc thọ ấy của vị này bị đoạn diệt. Do vô khổ vô lạc thọ bị đoạn
diệt, phi vật chất lạc sanh khởi; do phi vật chất lạc bị đoạn
diệt, vô khổ vô lạc thọ sanh khởi. Biết rằng cái này thuộc hữu
vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, sau khi biết
được: "Đây có sự đoạn diệt (các hành này), Như Lai thấy được sự
giải thoát khỏi (hữu vi pháp)" và đã vượt khỏi (hữu vi pháp).
- Nhưng ở đây,
này các Tỷ-kheo, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn, do từ bỏ các quan
điểm về quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn
toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do vượt khỏi viễn ly hỷ,
do vượt khỏi phi vật chất lạc, do vượt khỏi vô khổ vô lạc thọ,
vị ấy quán: "Ta là tịch tịnh, ta là tịch diệt, ta là không chấp
thủ". Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: Vị Tôn giả
Sa-môn, Bà la môn này... (như trên)... "... ta là không chấp
thủ". Chắc chắn vị Đại đức này tuyên bố con đường thích hợp (đưa
đến) Niết-bàn. Nhưng vị Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này khởi lên
chấp thủ, hoặc chấp thủ quan điểm về quá khứ, chấp thủ hoặc chấp
thủ quan điểm về tương lai, chấp thủ hoặc chấp thủ dục kiết sử,
chấp thủ hoặc chấp thủ viễn ly hỷ, chấp thủ hoặc chấp thủ phi
vật chất lạc, chấp thủ hoặc chấp thủ vô khổ vô lạc thọ. Dầu cho
vị Đại đức này quán : "Ta là tịch tịnh, ta là tịch diệt, ta
không có chấp trước", nhưng vị này vẫn được xem là có chấp trước
về điểm ấy. Biết rằng cái này thuộc hữu vi pháp là thô pháp,
nhưng có đoạn diệt các hành, sau khi biết được có (sự đoạn diệt
các hành) này, Như Lai thấy được sự giải thoát khỏi (hữu vi
pháp) và đã vượt khỏi (hữu vi pháp).
- Nhưng ở đây,
này các Tỷ-kheo, vô thượng tịch tịnh, tối thắng đạo được Như Lai
chánh đẳng giác, nghĩa là sau khi như thật biết sự tập khởi, sự
đoạn diệt, vị ngọt và sự nguy hiểm của sáu xúc xứ, có sự giải
thoát không chấp thủ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vô thượng tịch
tịnh tối thắng đạo này được Như Lai chánh đẳng giác, nghĩa là
sau khi như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt và sự
nguy hiểm của sáu xúc xứ, có sự giải thoát không chấp thủ.
- Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
- --o0o--
|
|