|
Kinh Trung Bộ
H. T. Thích Minh Châu dịch
--o0o--
- KINH LÀNG SAMA
-
(Samagamasuttam)
-
- Như vầy tôi
nghe.
- Một thời Thế
Tôn trú ở giữa các vị Sakka (Thích Ca), tại Samagama (Xá-di
thôn). Lúc bấy giờ, Nigantha Nataputta vừa mới tạ thế ở Pava.
Sau khi vị này tạ thế, các vị Nigantha chia ra làm hai phái,
chia rẽ nhau, tranh chấp nhau, tranh luận nhau và sống tàn hại
nhau với binh khí miệng lưỡi. "Ông không biết pháp luật này, ta
biết pháp luật này. Sao Ông có thể biết pháp luật này ? Ông theo
tà hạnh, ta theo chánh hạnh. Lời nói ta tương ưng, lời nói Ông
không tương ưng. Điều đáng nói trước Ông nói sau; điều đáng nói
sau, Ông nói trước. Điều Ông quan niệm, trình bày đã bị đảo lộn.
Quan điểm của Ông đã bị thách đố. Ông đã bị đánh bại. Hãy đi
giải tỏa quan điểm của Ông. Hãy tự thoát khỏi bế tắc nếu Ông có
thể làm được !" Hình như các đệ tử của Nigantha Nataputta muốn
tàn hại lẫn nhau. Chính các đệ tử cư sĩ mặc đồ trắng của
Nigantha Nataputta cũng chán ngấy, cơ hiềm, và phản đối các
Nigantha, vì pháp luật của họ đã được trình bày, tuyên bố một
cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an
tịnh, không do vị Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết, tháp y chỉ đã bị
đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
- Rồi sa di
Cunda, sau khi an cư mùa mưa ở Pava, đến thăm Tôn giả Ananda ở
Samagama, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda và ngồi xuống một
bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Sa di Cunda bạch Tôn giả
Ananda:
- – Bạch Tôn
giả, Nigantha Nataputtta đã từ trần ở Pava. Sau khi vị này tạ
thế, các Nigantha chia ra làm hai phái... tháp y chỉ đã bị đổ
vỡ, không có chỗ y chỉ.
- Khi nghe nói
vậy, Tôn giả Ananda nói với Sa di Cunda :
- – Này Hiền
giả Cunda, đây vấn đề đáng đưa ra để yết kiến Thế Tôn. Này Hiền
giả Cunda, chúng ta hãy đi yết kiến Thế Tôn; sau khi đến, chúng
ta hãy trình bày vấn đề này để Thế Tôn biết.
- – Thưa vâng,
Tôn giả .
- Sa di Cunda
vâng lời Tôn giả Ananda. Rồi Tôn giả Ananda cùng với Sa di Cunda
đi đến yết kiến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống
một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn
:
- – Bạch Thế
Tôn, Sa di Cunda có nói : "Nigantha Nataputta đã từ trần ở Pava.
Sau khi vị này từ trần, các vị Nigantha chia ra làm hai phái...
tháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ". Bạch Thế Tôn, con
nghĩ như sau: "Sau khi Thế Tôn nhập diệt, chớ để cho tranh luận
khởi lên giữa Tăng chúng. Tranh luận ấy đưa đến sự bất an cho đa
số, bất hạnh cho đa số, thất lợi cho đa số, bất an, đau khổ cho
loài Trời, loài người".
- – Này Ananda,
Ông nghĩ thế nào ? Những pháp Ta dạy cho các Ông với thượng trí,
như Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực,
Bảy Bồ đề phần, Thánh đạo tám ngành. Ông có thấy chăng, này
Ananda, có hai Tỷ-kheo đối với những pháp này tuyên bố sai khác
nhau ?
- – Bạch Thế
Tôn, những pháp Thế Tôn dạy cho con với thượng trí, như Bốn niệm
xứ... (như trên)... Thánh đạo tám ngành, con không thấy cho đến
hai Tỷ-kheo đối với những pháp này tuyên bố sai khác nhau. Bạch
Thế Tôn, và những người nào sống y cứ sùng kính Thế Tôn, những
người ấy sau khi Thế Tôn nhập diệt, có thể khởi lên những tranh
luận giữa tăng chúng, hoặc về Tăng thượng hoạt mạng, hoặc về
Tăng thượng (Patimokkha-Giới bổn). Tranh luận ấy đem đến bất an
cho đa số, bất hạnh cho đa số, bất an, đau khổ cho loài Trời,
loài Người.
- – Là nhỏ nhặt
này Ananda, là sự tranh luận ấy, tức là (tranh luận) về Tăng
thượng hoạt mạng hay Tăng thượng giới bổn. Này Ananda, sự tranh
luận khởi lên giữa Tăng chúng về con đường (magga) hay về đường
hướng tu hành (patipada), sự tranh luận ấy mới đưa đến bất an
cho đa số, thất lợi cho đa số, bất an, đau khổ cho loài Trời,
loài Người.
- Này Ananda,
có sáu căn bản tranh chấp này. Thế nào là sáu ? Ở đây, Tỷ-kheo
phẫn nộ, sân hận. Này Ananda, vị Tỷ-kheo nào phẩn nộ, sân hận,
vị ấy sống không cung kính, không tôn trọng bậc Đạo sư, sống
không cung kính, không tôn trọng Pháp, sống không cung kính,
không tôn trọng Tăng chúng, không viên mãn sự học tập. Này
Ananda, Tỷ-kheo nào sống không cung kính, không tôn trọng bậc
Đạo sư... (như trên)... sống không cung kính, không tôn trọng
Tăng chúng, không viên mãn sự học tập, vị ấy khởi lên tranh luận
giữa Tăng chúng. Sự tranh luận nào đưa đến bất an cho đa số, bất
hạnh cho đa số, thất lợi cho đa số, bất an, đau khổ cho loài
Trời, loài Người. Này Ananda nếu Ông thấy căn bản tranh luận như
vậy, giữa các Ông hay giữa các người khác, ở đây, này Ananda,
Ông phải tinh tấn đoạn trừ ác căn bản tranh luận ấy. Này Ananda,
nếu Ông không thấy căn bản tranh luận như vậy, giữa các Ông hay
giữa các người khác; ở đây, này Ananda, Ông phải theo một đường
hướng để không có sự tiếp tục diễn tiến đến tương lai về ác căn
bản tranh luận ấy. Có sự đoạn diệt ác căn bản tranh luận ấy, như
vậy mới không có sự tiếp tục diễn tiến đến tương lai về ác căn
bản tranh luận ấy như vậy.
- Lại nữa này
Ananda, vị Tỷ-kheo hiềm hận não hại... (như trên)... tật đố, xan
tham... (như trên)... gian manh, xảo trá... (như trên)... ác dục
tà kiến... (như trên)... chấp thủ thế trí, cố chấp, khó thuyết
phục. Này Ananda, Tỷ-kheo nào chấp thủ thế trí, cố chấp khó
thuyết phục, vị ấy sống không cung kính, không tôn trọng Bậc Đạo
sư, không cung kính, không tôn trọng Pháp, không cung kính,
không tôn trọng Tăng chúng, không viên mãn sự học tập. Này
Ananda, vị Tỷ-kheo nào sống không cung kính, không tôn trọng bậc
Đạo sư... (như trên)... sống không cung kính, không tôn trọng
Tăng chúng, không viên mãn sự học tập, vị ấy khởi lên sự tranh
luận giữa Tăng chúng. Sự tranh luận nào đưa đến bất an cho đa
số, bất hạnh cho đa số, thất lợi cho đa số, bất an, đau khổ cho
loài Trời, loài Người, này Ananda, nếu Ông thấy căn bản tranh
luận như vậy, giữa các Ông hay giữa các người khác, ở đây, này
Ananda, Ông phải tinh tấn đoạn trừ ác căn bản tranh luận ấy. Này
Ananda, nếu Ông không thấy căn bản tranh luận như vậy, giữa các
Ông hay giữa người khác, ở đây, này Ananda, Ông phải theo một
đường hướng để không có sự tiếp tục diễn tiến đến tương lai về
ác căn bản tranh luận ấy. Có sự đoạn diệt ác căn bản tranh luận
ấy, như vậy mới không có sự tiếp tục diễn tiến đến tương lai về
ác căn bản tranh luận như vậy. Những pháp này, này Ananda, là
sáu căn bản tranh chấp.
- Này Ananda,
có bốn tránh sự này. Thế nào là bốn ? Tránh sự khởi lên do tranh
luận, tránh sự khởi lên do chỉ trích, tránh sự khởi lên do phạm
giới tội, tránh sự khởi lên do trách nhiệm (kiccadhikaranam :
hành tránh sự). Những pháp này, này Ananda, là bốn tránh sự.
- Nhưng này
Ananda, có bảy diệt tránh pháp này để giải quyết diệt trừ các
tránh pháp thỉnh thoảng khởi lên : phán quyết với sự hiện diện
cần được ban cho (sammukhavinayo databbo: ưng dữ hiện tiền tỳ-
ni), phán quyết ức niệm cần được ban cho (sativinayadatabbo: ưng
dữ ức niệm tỳ-ni), phán quyết bất si cần được ban cho
(amulhavinayo databbo: ưng dữ bất si tỳ-ni), quyết định tùy theo
thú nhận (patinnaya karetabbam), quyết định đa số (yebhuya
ssika: đa nhân mích tội), quyết định tùy theo giới tội người
phạm (tassa papiyyasika), trải cỏ che lấp (tinavattha rako: như
thảo phú địa). Này Ananda, thế nào là phán quyết với sự hiện
diện cần được ban cho ? Ở đây, này Ananda, các Tỷ-kheo tranh
chấp nhau : "Đây là pháp, hay đây là phi pháp, hay đây là luật,
hay đây là phi luật". Này Ananda, tất cả các Tỷ-kheo ấy phải tập
hợp hòa hợp với nhau, sau khi tập hợp, pháp quy chế
(dhammanetti) phải được thảo luận, phân tích. Sau khi pháp quy
chế được thảo luận, phân tích, ở đây, làm thế nào để đồng nhất
đạt được, như vậy, tránh sự phải được giải quyết. Như vậy, này
Ananda, là phán quyết với sự hiện diện; và như vậy, ở đây là sự
giải quyết một số tránh sự tức là dùng phán quyết với sự hiện
diện.
- Và này
Ananda, thế nào là quyết định đa số (yebbuyyasika) ? Này Ananda,
nếu các Tỷ-kheo kia không có thể giải quyết tránh ấy tại trú xứ
ấy, thời này Ananda, các vị Tỷ-kheo kia cần phải đi đến chỗ trú
xứ có nhiều Tỷ-kheo hơn, tại đấy tất cả các Tỷ-kheo phải hòa
đồng tập hợp lại; sau khi tập hợp, pháp quy chế (dhammanetti)
phải được thảo luận, phân tích. Sau khi pháp quy chế được thảo
luận, phân tích, ở đây làm thế nào, để đồng nhất đạt được như
vậy tránh sự phải được giải quyết. Như vậy, này Ananda, là sự
giải quyết một số tránh sự tức là dùng sự quyết định đa số.
- Và này
Ananda, thế nào phán quyết ức niệm ? Ở đây, này Ananda, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo về một trọng tội như thế này, hoặc
Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di, nói rằng: "Tôn giả có nhớ Tôn giả
đã phạm trọng tội như thế này không, hoặc Ba-la-di, hoặc gần
Ba-la-di ?" Vị ấy trả lời như sau : "Chư Hiền, tôi không nhớ tôi
đã phạm trọng tội như vậy, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di".
Như vậy, này Ananda, một phán quyết ức niệm cần phải cho Tỷ-kheo
ấy. Như vậy, này Ananda, là phán quyết ức niệm. Như vậy, ở đây
là sự giải quyết một số tránh sự tức là nhờ phán quyết ức niệm.
- Và này
Ananda, thế nào là phán quyết bất si ? Ở đây, này Ananda, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo về một trọng tội như thế này, hoặc
Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di nói rằng: "Tôn giả có nhớ Tôn giả đã
phạm trọng tội như thế này không, hoặc Ba-la-di, hoặc gần
Ba-la-di ?" Vị ấy trả lời như sau: "Chư Hiền, tôi không nhớ tôi
đã phạm trọng tội như vậy, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di".
Tỷ-kheo ấy bị (các vị Tỷ-kheo kia)dồn ép phải thú nhận: "Tôn giả
hãy biết cho rõ ràng, nếu Tôn giả có nhớ có phạm trọng tội như
thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di". Tỷ-kheo ấy trả lời
như sau: "Này Chư Hiền, tôi đã bị cuồng si, tâm trí tôi điên
đảo; do tôi cuồng si như vậy, nhiều việc đã được tôi làm, tôi
nói không xứng Sa-môn hạnh. Vì bị cuồng si, tôi không nhớ đã làm
như vậy". Này Ananda, phán quyết bất si cần phải cho Tỷ-kheo ấy.
Như vậy, này Ananda, là pháp quyết bất si. Và như vậy, ở đây là
sự giải quyết một số tránh pháp, tức là nhờ phán quyết bất si.
- Và này
Ananda, thế nào là quyết định tùy theo thú nhận ? Ở đây, này
Ananda, bị buộc tội hay không bị buộc tội, Tỷ-kheo nhớ một giới
tội, tỏ lộ, trình bày. Tỷ-kheo ấy phải đến một Tỷ-kheo lớn tuổi
hơn, đắp y phía một bên vai, đảnh lễ chân vị ấy, ngồi gối hai
chân, chấp tay và nói như sau : "Bạch Tôn giả, tôi có phạm giới
tội tên như thế này, nay xin sám hối". Tỷ-kheo kia nói như sau:
"Ông có thấy chăng ?"- "Tôi có thấy" – "Ông có gìn giữ trong
tương lai không ?" – "Tôi sẽ gìn giữ". Như vậy, này Ananda, là
quyết định tùy theo thú nhận, như vậy, ở đây là sự giải quyết
một số tránh sự tức là nhờ quyết định tùy theo thú nhận.
- Và này
Ananda, thế nào là quyết định tùy theo giới tội người phạm ? Ở
đây, này Ananda, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo về một trọng
tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di, nói rằng:
"Tôn giả có nhớ Tôn giả đã phạm trọng tội như thế này không,
hoặc Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di ?" Vị ấy trả lời như sau: "Chư
Hiền, tôi không nhớ tôi đôi đã phạm trọng tội như vậy, hoặc
Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di". Tỷ-kheo ấy bị (các Tỷ-kheo kia)
dồn ép phải tỏ lộ ra : "Tôn giả hãy biết cho rõ ràng, nếu Tôn
giả có nhớ có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc
gần Ba-la-di ?" Tỷ-kheo ấy trả lời như sau : "Chư Hiền, tôi
không có nhớ tôi có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di,
hoặc gần Ba-la-di. Chư Hiền, tôi nhớ tôi có phạm khinh tội như
thế này". Tỷ-kheo ấy bị (các Tỷ-kheo kia) dồn ép phải tỏ lộ:
"Tôn giả hãy biết cho rõ ràng, nếu Tôn giả nhớ có phạm trọng tội
như thế này, hoặc Ba-la-di hoặc gần Ba-la-di ?". Vị ấy trả lời
như sau: "Chư Hiền, dầu không ai hỏi tội, tôi sẽ thú nhận có
phạm khinh tội như thế này, làm sao tôi có thể, khi có người hỏi
tôi, lại không thú nhận có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba
la di, hoặc gần Ba-la-di ?" Vị kia nói như sau : "Này Hiền giả,
dầu Ông có phạm khinh tội này, nếu không hỏi, Ông sẽ không thú
nhận, làm sao khi đã phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di,
hoặc gần Ba-la-di, nếu có hỏi, Ông lại có thể thú nhận ? Tôn giả
hãy biết rõ ràng, nếu Tôn giả nhớ có phạm trọng tội như thế này
không, hoặc Ba-la-di. hoặc gần Ba-la-di ?" Vị ấy trả lời như sau
: "Chư Hiền, tôi nhớ, tôi có phạm trọng tội như thế này, hoặc
Ba-la-di, hoặc gần Ba-la-di. Điều tôi đã nói như vậy, là nói
chơi, điều tôi đã nói như vậy là để cười (rava ?) Tôi không có
nhớ tôi đã phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba-la-di, hoặc gần
Ba-la-di". Như vậy, này Ananda, là quyết định tùy theo giới tội
người phạm. Và như vậy, ở đây là sự giải quyết một số tránh tội,
tức là nhờ quyết định tùy theo giới tội người phạm.
- Và này
Ananda, thế nào là trải cỏ che lấp ? Ở đây, này Ananda, một số
Tỷ-kheo sống tranh chấp, tranh cãi, tranh luận với nhau, có
nhiều việc đã làm, đã nói không xứng Sa-môn hạnh. Tất cả các
Tỷ-kheo ấy phải tập hợp hòa đồng với nhau. Sau khi tập hợp, một
Tỷ-kheo thông minh có kinh nghiệm hơn của một phe nhóm Tỷ-kheo,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y về phía một bên vai, chắp tay, bạch
Tăng chúng, nói rằng: "Chư Tôn giả, Tăng chúng hãy nghe tôi. Khi
chúng tôi sống tranh chấp, tranh cãi, tranh luận với nhau, nhiều
việc đã làm, đã nói không xứng Sa-môn hạnh. Nếu Tăng chúng xem
là phải thời, tôi xin tỏ lộ bất cứ giới tội nào của các Tôn giả
này và bất cứ giới tội nào của tôi. Vì lợi ích cho chư Tôn giả
và cũng vì lợi ích cho tự thân, tôi xin tỏ lộ giữa Tăng chúng,
như lấy cỏ trải ra, trừ các trọng tội, trừ tội liện hệ đến cư
sĩ". Rồi một vị Tỷ-kheo thông minh kinh nghiệm của nhóm Tỷ-kheo
khác, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y về phía một bên vai, chấp tay
bạch Tăng chúng, nói rằng : "Chư Tôn giả, Tăng chúng hãy nghe
tôi. Khi chúng tôi sống tranh chấp, tranh cãi, tranh luận với
nhau... (như trên)... trừ các tội liên hệ đến cư sĩ" Như vậy,
này Ananda, là trải cỏ che lấp, và như vậy, ở đây là sự giải
quyết một số tránh pháp, tức là nhờ trải cỏ che lấp.
- Này Ananda,
có sáu khả niệm pháp này, tác thành khả ái, tác thành tôn kính,
đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất. Thế nào
là sáu ? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo an trú từ thân nghiệp, đối
với các vị đồng Phạm hạnh, chỗ đông người và chỗ vắng người. Khả
niệm pháp này, tác thành khả ái, tác thành tôn kính đưa đến đoàn
tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất. Và lại nữa, này
Ananda, Tỷ-kheo an trú từ khẩu nghiệp... (như trên)... đồng
nhất. Và lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo an trú từ ý nghiệp đối với
các vị đồng Phạm hạnh, chỗ đông người và chỗ vắng người. Khả
niệm pháp này tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn
tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất". Và lại nữa, này
Ananda, với mọi sở đắc như pháp, mọi lợi dưỡng đúng pháp cho đến
những thọ lãnh trong bình bát, Tỷ-kheo là vị san sẻ các lợi
dưỡng như vậy, là vị thọ hưởng chúng cùng với các vị đồng Phạm
hạnh có giới đức. Khả niệm pháp này cũng tác thành khả ái, tác
thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa hợp, đồng
nhất. Và lại nữa, này Ananda, đối với mọi giới luật nào, không
sứt mẻ, không tỳ, không vết, không ô uế, giải thoát, được người
trí tán thán, không chấp thủ, đưa đến Thiền định, Tỷ-kheo sống
thành tựu những giới luật như vậy cùng với các vị đồng Phạm hạnh
giữa chỗ đông người và tại chỗ vắng người. Khả niệm pháp này
cũng tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ,
không tranh luận, hòa hợp, đồng nhất. Và lại nữa, này Ananda,
đối với mọi tri kiến thánh thiện, đưa đến xuất ly, dẫn đến sự
chơn chánh, đoạn diệt khổ đau cho những ai thực hành theo,
Tỷ-kheo sống thành tựu những tri kiến như vậy cùng với các vị
đồng Phạm hạnh trước chỗ đông người và tại chỗ vắng người. Khả
niệm pháp này cũng tác thành khả ái, tác thành tôn kính đưa đến
đoàn tụ, không tranh luận, hòa đồng, đồng nhất.
- Này Ananda
sáu pháp khả niệm này tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa
đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa đồng, đồng nhất. Này Ananda,
nếu Ông thọ trì và thực hành sau pháp khả niệm này, thời này
Ananda, Ông thấy có những cách nói nào, hoặc tế hoặc thô, khiến
Ông không có thể kham nhẫn ?
- – Thưa không,
bạch Thế Tôn.
- – Do vậy, này
Ananda, hãy thọ trì và thực hành sáu pháp khả niệm này, như vậy
sẽ đưa đến cho Ông an lạc và hạnh phúc lâu dài.
- Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
- --o0o--
|
|