|
Kinh Trung Bộ
H. T. Thích Minh Châu dịch
--o0o--
- KINH THIỆN
TINH
-
(Sunakkhattasuttam)
-
- Như vầy tôi
nghe.
- Một thời Thế
Tôn trú tại Vesali (Tỳ-xá-ly), ở Đại Lâm, tại Trùng Các giảng
đường (Kutagarasala). Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo, trước mặt Thế
Tôn tuyên bố đã chứng trí giác : "Chúng tôi biết rằng sanh đã
tận, Phạm hạnh đã thành, những điều nên làm đã làm, không còn
trở lại trạng thái này nữa". Sunakkhatta Licchaviputta (Thiện
Tinh Ly-xa Tử) được nghe : "Nhiều Tỷ-kheo... (như trên)... này
nữa". Rồi sunakkhatta Licchaviputta đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Sunakkhatta Licchaviputta bạch Thế Tôn :
- – Bạch Thế
Tôn con có được nghe như sau : "Nhiều Tỷ-kheo... (như trên)...
này nữa". Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo ấy, trước mặt Thế Tôn
tuyên bố đã chứng trí giác: "Chúng tôi biết rằng sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại
trạng thái này nữa". Bạch Thế Tôn, không biết các Tỷ-kheo ấy đã
tuyên bố một cách chơn chánh chứng trí giác, hay ở đây có một số
Tỷ-kheo, vì tăng thượng mạn đã tuyên bố chứng trí giác ?
- – Này
Sunakkhatta, những vị Tỷ-kheo trước mặt Ta đã tuyên bố chứng trí
giác : "Chúng tôi biết rằng, sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
những việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này
nữa". Ở đây, có một số Tỷ-kheo đã chơn chánh tuyên bố chứng trí
giác; nhưng ở đây, cũng có một số Tỷ-kheo chính vì tăng thượng
mạn, đã tuyên bố chứng trí giác. Ở đây, này Sunakkhatta, những
vị Tỷ-kheo nào đã chơn chánh tuyên bố chứng trí giác, thời đối
với các vị ấy, thật là đúng như vậy. Nhưng đối với các vị
Tỷ-kheo nào, vì tăng thượng mạn đã tuyên bố chứng tri giác, ở
đây, này Sunakkhatta, Như Lai nghĩ như sau : "Ta hãy thuyết pháp
cho những vị ấy". Và như vậy, ở đây, này Sunakkhatta, Như Lai
suy nghĩ : "Ta hãy thuyết pháp cho những vị ấy". Nhưng ở đây,
nếu có một số người ngu si, bày đặt câu hỏi, đến hỏi Như Lai; ở
đây, này Sunakkhatta, Như Lai suy nghĩ như sau: "Ta hãy thuyết
pháp cho những người ấy". Như Lai suy nghĩ như vậy, không có làm
khác.
- – Nay đã đúng
thời để thuyết pháp, bạch Thế Tôn ! Nay đã đúng thời để thuyết
pháp, bạch Thiện Thệ ! Thế Tôn thuyết pháp như thế nào, sau khi
nghe Thế Tôn xong, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- – Vậy này
Sunakkhatta, hãy nghe và khéo tác ý kỹ, Ta sẽ giảng.
- – Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
- Sunakkhatta
Licchaviputta vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
- – Này
Sunakkhatta, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm ? Các
sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ
đến dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức... ; các hương do
mũi nhận thức... ; các vị do lưỡi nhận thức... ; các xúc do thân
cảm xúc khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp
dẫn. Này Sunakkhatta, những pháp này là năm dục trưởng dưỡng.
- Nhưng này
Sunakkhatta, sự tình này xảy ra khi ở đây có số người thiên nặng
về vật chất thế gian. Đối với người thiên nặng về vật chất thế
gian, này Sunakkhatta, câu chuyện (thích hợp với người ấy) phải
tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và
suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người nào người ấy thích
thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến bất động, thời
người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không an trú vào tri
giác. Và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không
thích thú. Ví như này Sunakkhatta, có người đã lâu không trú ở
trong làng hay thị trấn của mình, và có thể thấy một người vừa
mới từ làng ấy hay thị trấn ấy lại. Người này sẽ hỏi người ấy về
sự an ninh của làng hay thị trấn ấy, về đồ ăn uống sung túc và
về ít bệnh tật, và người ấy sẽ nói cho người này biết về sự an
ổn của làng hay thị trấn ấy, về đồ ăn uống sung túc và về ít
bệnh tật. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Có phải người này
sẽ nghe người kia, lóng tai, tâm an trú vào trí giác và người
này sẽ giao thiệp với người ấy mà người này thích thú ?
- – Thưa phải
vậy, bạch Thế Tôn.
- – Cũng vậy,
này Sunakkhatta, sự tình này xảy ra khi ở đây có số người thiên
nặng về vật chất thế gian. Đối với người thiên nặng về vật chất
thế gian, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy
phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm
và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy
thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Bất động,
thời người ấy không nghe, không lóng tai và tâm không an trú vào
thượng trí, và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy
không thích thú. Người ấy cần được hiểu như vầy: "Là hạng người
thiên nặng về vật chất thế gian".
- Này
Sunakkhatta, sự tình này xảy ra, khi một số người thiên nặng về
Bất động. Đối với người thiên nặng về Bất động, này Sunakkhatta,
câu chuyện thích hợp (với người ấy) phải tùy thuộc như thế nào
để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ
giao thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện
chỉ nói liên hệ đến vật chất thế gian, thời người ấy không nghe,
không lóng tai và tâm không an trú vào thượng trí, và người ấy
không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú. Ví như,
này Sunakkhatta, một lá vàng khô đã rời khỏi cành, không còn
xanh trở lại; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người
thiên nặng về Bất động, đã rời khỏi kiết sử vật chất thế gian.
Người ấy cần được hiểu như sau : "Đây là hạng người không liên
hệ với kiết sử vật chất thế gian, thiên nặng về Bất động".
- – Này
Sunakkhatta, sự tình này xảy ra. Ở
렦#273;ây, có một số
người thiên nặng về Vô sở hữu. Đối với người thiên nặng về Vô sở
hữu, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy
thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy
tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy thích thú.
Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Bất động, thời người ấy
không nghe, không lóng tai, và tâm không an trú vào trí giác, và
người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú.
Ví như, này Sunakkhatta, một hòn đá bị vỡ làm đôi không thể nối
liền lại được; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người
thiên nặng về Vô sở hữu, đã bị chặt đứt khỏi kiết sử Bất động,
người ấy cần được hiểu như sau: "Đây là hạng người không liên hệ
với kiết sử Bất động, thiên nặng về Vô sở hữu".
- – Này
Sunakkhatta, sự tình này xảy ra. Ở đây, có một số người thiên
nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đối với người thiên nặng về
Phi tưởng phi phi tưởng xứ, này Sunakkhatta, câu chuyện thích
hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều
người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người
mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến
Vô sở hữu xứ, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm
không an trú vào tri giác, và người ấy không giao thiệp với
người mà người ấy không thích thú. Ví như, này Sunakkhatta, một
người đã ăn các món ăn mỹ vị và đã quăng bỏ. Này Sunakkhatta,
Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có ưa ăn lại món ăn ấy không ?
- – Bạch Thế
Tôn không. Vì sao vậy ? Vì rằng, bạch Thế Tôn, món ăn ấy được
xem là ghê tởm rồi.
- – Cũng vậy,
này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, đã để một bên kiết sử Vô sở hữu xứ. Người ấy cần
được hiểu như sau : "Đây là hạng người không liên hệ với kiết sử
Vô sở hữu xứ, thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
- Này
Sunakkhatta sự tình này xảy ra, khi ở đây, có số người thiên
nặng về chánh Niết-bàn. Đối với hạng người thiên nặng về chánh
Niết-bàn, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy
phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm
và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy
thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và
tâm không an trú vào trí giác. Và người ấy không giao thiệp với
người mà người mà ấy không thích. Ví như, này Sunakkhatta, cây
tala ngọn cây đã bị chặt đứt không thể lớn được nữa; cũng vậy,
này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về chánh
Niết-bàn, đã cắt đứt kiết sử Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đã cắt
đứt từ rễ, làm cho như cây tala không thể tái sanh, không thể
khởi lên lại trong tương lai. Người ấy cần phải được hiểu như
sau : "Đây là hạng người không liên hệ với kiết sử Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, thiên nặng về chánh Niết-bàn".
- – Này
Sunakkhatta, sự tình này xảy ra, khi ở đây, có một số người suy
nghĩ như sau : "Tham ái được vị Sa-môn gọi là mũi tên. Thuốc độc
vô minh làm não hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham
ái đã được ta đoạn diệt; thuốc độc vô minh đã được trừ khử; ta
thiên nặng về chánh Niết-bàn". Vị ấy có thể tự hào với mục đích
hiện tại. Vị ấy có thể truy cầu những gì không thích hợp với
khuynh hướng chánh Niết-bàn, mắt vị ấy có thể truy cầu sắc không
thích hợp, tai có thể truy cầu tiếng không thích hợp, mũi có thể
truy cầu hương không thích hợp, lưỡi có thể truy cầu vị không
thích hợp, thân có thể truy cầu xúc không thích hợp, ý có thể
truy cầu pháp không thích hợp. Khi mắt truy cầu sắc không thích
hợp, tai truy cầu tiếng không thích hợp, mũi truy cầu hương
không thích hợp, lưỡi truy cầu vị không thích hợp, thân truy cầu
xúc không thích hợp, ý truy cầu pháp không thích hợp, thời tham
dục nhiễu loạn tâm vị ấy. Vị ấy do tâm bị tham dục nhiễu loạn đi
đến chết hay đi đến khổ gần như chết.
- Ví như, này
Sunakkhatta, một người bị mũi tên bắn, tên ấy có tẩm thuốc độc
rất dày. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống người ấy cho mời
một y sĩ giải phẫu. Vị y sĩ giải phẫu ấy có thể cắt xung quanh
miệng vết thương với con dao; sau khi cắt xung quanh miệng vết
thương với con dao, vị y sĩ giải phẫu có thể dò tìm mũi tên với
một vật dụng dò tìm. Sau khi dò tìm mũi tên với một vật dụng dò
tìm, y sĩ có thể rút mũi tên ra. Y sĩ có thể trừ khử hết thuốc
độc, còn để lại một ít nhưng nghĩ không có thuốc độc nào còn
lại, y sĩ nói như sau : "Này Hiền giả, mũi tên của Bạn đã được
rút ra thuốc độc đã được trừ khử, không còn dư tàn, và không còn
gì nguy hiểm nữa cho Bạn, nhưng Bạn phải chỉ ăn các đồ ăn thích
hợp, và hãy gìn giữ, nếu ăn đồ ăn không thích hợp, vết thương
của Bạn sẽ làm mủ lại, và thường thường phải cho rửa vết thương,
thường thường phải xức thuốc cho miệng vết thương. Trong khi
thường thường cho rửa vết thương, thường thường xức thuốc cho
miệng vết thương, chớ có để máu cũ đóng khô trên miệng vết
thương và hãy cẩn thận khi đi ra giữa gió và nắng; hãy cẩn thận
khi đi ra giữa gió và nắng, nếu không, bụi và nhớp có thể nhiễu
hại miệng vết thương. Và này Bạn, nếu Bạn chăm sóc vết thương,
thời vết thương sẽ được lành". Người ấy suy nghĩ như sau: "Mũi
tên đã được rút khỏi (thân) ta, nọc độc đã được trừ khử, không
còn dư tàn, và ta đã thoát khỏi nguy hiểm". Và người ấy ăn những
đồ ăn không thích hợp. Vì người ấy ăn những đồ ăn không thích
hợp, nên vết thương làm mủ lại. Và thường thường người ấy không
rửa vết thương, thường thường không xức thuốc miệng vết thương.
Vì người ấy thường thường không rửa vết thương, vì người ấy
thường thường không xức thuốc miệng vết thương, nên máu cũ đông
lại trên miệng vết thương. Và người ấy thường hay đi giữa gió và
nắng. Do người ấy thường hay đi giữa gió và nắng, bụi và nhớp
nhiễu hại miệng vết thương; và vì người ấy không chăm sóc vết
thương nên vết thương không được lành. Vì người ấy làm chính
những việc không thích hợp, và do thuốc độc được trừ khử nhưng
còn dư tàn, do cả hai điều ấy nên miệng vết thương có thể lở to
hơn trước. Do vết thương lở to, người ấy có thể đi đến chết hay
đau khổ gần như chết.
- Cũng vậy, này
Sunakkhatta, sự kiện này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo nghĩ
như sau : "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc vô
minh làm não hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái
đã được ta đoạn diệt; thuốc độc vô minh đã được trừ khử. Ta
thiên nặng về chánh Niết-bàn". Vị ấy có thể tự hào với mục đích
hiện tại. Vị ấy có thể truy cầu những gì không thích hợp với
khuynh hướng chánh Niết-bàn. Mắt có thể truy cầu sắc không thích
hợp, tai có thể truy cầu tiếng không thích hợp, mũi có thể truy
cầu hương không thích hợp, lưỡi có thể truy cầu vị không thích
hợp, thân có thể truy cầu xúc không thích hợp, ý có thể truy cầu
pháp không thích hợp. Khi mắt truy cầu sắc không thích hợp, tai
truy cầu tiếng không thích hợp, mũi truy cầu hương không thích
hợp, lưỡi truy cầu vị không thích hợp, thân truy cầu xúc không
thích hợp, ý truy cầu pháp không thích hợp. thời tham dục nhiễu
loạn tâm vị ấy. Vị ấy do tham dục nhiễu loạn tâm, đi đến chết
hay đi đến khổ gần như chết. Như vậy, này Sunakkhatta, là chết
trong giới luật của bậc Thánh, khi vị ấy từ bỏ tu tập, trở về
hoàn tục, và như vậy, này Sunakkhatta, là khổ như chết, khi vị
ấy phạm một ô uế tội nào.
- Này
Sunakkhatta, sự tình này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo suy
nghĩ như sau: "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc
vô minh làm não hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham
ái đã được ta đoạn diệt, thuốc độc vô minh đã được trừ khử. Ta
thiên nặng về chánh Niết-bàn". Chính vì thiên nặng về chánh
Niết-bàn, vị ấy không truy cầu những gì không thích hợp với
(khuynh hướng) thiên nặng về Niết-bàn, mắt không truy cầu sắc
không thích hợp, tai không truy cầu tiếng không thích hợp, mũi
không truy cầu hương không thích hợp, lưỡi không truy cầu vị
không thích hợp, thân không truy cầu xúc không thích hợp, ý
không truy cầu pháp không thích hợp. Vì mắt vị ấy không truy cầu
sắc không thích hợp, vì tai không truy cầu tiếng không thích
hợp, vì mũi không truy cầu hương không thích hợp, vì lưỡi không
truy cầu vị không thích hợp, vì thân không truy cầu xúc không
thích hợp, vì ý không truy cầu pháp không thích hợp, nên tham
dục không nhiễu loạn tâm, vì tham dục không nhiễu loạn tâm; nên
vị ấy không đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết. Ví như, này
Sunakkhatta, một người bị tên bắn, và mũi tên bị tẩm thuốc độc
rất dày. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống người ấy cho mời
một y sĩ giải phẫu. Vị y sĩ giải phẫu ấy có thể cắt xung quanh
miệng vết thương với con dao; sau khi cắt xung quanh miệng vết
thương với con dao, vị y sĩ giải phẫu có thể dò tìm tên với một
vật dụng dò tìm. Sau khi dò tìm mũi tên với một vật dụng dò tìm,
y sĩ có thể rút mũi tên ra... Y sĩ có thể trừ khử hết thuốc độc
không còn để dư lại và biết rằng không còn để dư lại. Vị ấy nói
như sau: "Này Bạn, mũi tên của Bạn đã được rút ra, thuốc độc đã
được trừ khử, không có dư tàn, nhưng vẫn còn nguy hiểm cho Bạn.
Và Bạn hãy ăn những đồ ăn thích hợp, chớ ăn những đồ ăn không
thích hợp khiến vết thương có thể làm mủ; và thường thường hãy
rửa vết thương, thường thường hãy xức thuốc miệng vết thương,
thường thường rửa vết thương, thường thường xức thuốc miệng vết
thương, chớ để máu cũ đóng khô lại trên miệng vết thương. Và chớ
có đi ra giữa gió và nắng; đi ra giữa gió và nắng, chớ để bụi và
nhớp làm nhiễu hại miệng vết thương, hãy sống gìn giữ vết
thương, này Bạn, và vết thương sẽ lành". Người ấy suy nghĩ như
sau: "Mũi tên đã được rút ra khỏi ta, thuốc độc đã được trừ khử,
không có dư tàn. Và ta chưa thoát khỏi nguy hiểm". Và vị ấy có
thể chỉ ăn các đồ ăn thích hợp. Do chỉ ăn các đồ ăn thích hợp
miệng vết thương có thể không làm mủ. Và thường thường vị ấy có
thể rửa vết thương, thường thường có thể xức thuốc miệng vết
thương. Do thường thường rửa vết thương, do thường thường xức
thuốc miệng vết thương, máu cũ không có thể đóng khô lại trên
miệng vết thương. Người ấy không sốt sắng đi giữa gió và nắng.
Do người ấy không sốt sắng đi giữa gió và nắng, bụi và nhớp có
thể không nhiễu hại miệng vết thương và người ấy sống gìn giữ
vết thương, và vết thương được lành. Vì người ấy chỉ làm những
điều thích hợp và vì thuốc độc được trừ khử không còn dư tàn, do
hai (nhân duyên ấy) vết thương được khép kín lại. Khi vết thương
được da che kín lại, người ấy không đi đến chết hay không đi đến
khổ gần như chết.
- Cũng vậy, này
Sunakkhatta, sự kiện này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo suy
nghĩ như sau: "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc
vô minh làm não hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham
ái đã được ta đoạn diệt.... (như trên)... không có truy cầu
những gì không thích hợp. Mắt không truy cầu sắc không thích
hợp, tai không truy cầu tiếng không thích hợp, mũi không truy
cầu hương không thích hợp, lưỡi không truy cầu vị không thích
hợp, thân không truy cầu xúc không thích hợp, ý không truy cầu
pháp không thích hợp. Do mắt người ấy không truy cầu sắc không
thích hợp, do tai không truy cầu tiếng không thích hợp, do mũi
không truy cầu hương không thích hợp, do lưỡi không truy cầu vị
không thích hợp, do thân không truy cầu xúc không thích hợp, do
ý không truy cầu pháp không thích hợp, tham dục có thể không
nhiễu hại tâm. Do tâm không bị tham dục nhiễu hại, nên người ấy
không đi đến chết, hay không đi đến khổ gần như chết.
- Này
Sunakkhatta, Ta nói ví dụ này với mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa.
Nghĩa ở đây như sau: Vết thương, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa
với sáu xúc xứ (phassayatana); thuốc độc, này Sunakkhatta, là
đồng nghĩa với vô minh; mũi tên, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa
với ái; vật dụng dò tìm, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với
niệm; con dao, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với Thánh trí tuệ.
Vị y sĩ giải phẫu, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với Như Lai,
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật vậy, này Sunakkhatta,
Tỷ-kheo tự mình phòng hộ đối với sáu xúc xứ, nghĩ rằng: "Sanh y
(Upadhi) là căn bản của khổ", sau khi biết như vậy, vị ấy trở
thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y. Vị ấy còn chú
thân của mình trên sanh y hay để tâm đến sanh y, sự tình như vậy
không xảy ra. Ví như, này Sunakkhatta, một chén uống nước bằng
đồng, đẹp đẽ và hương thơm, và chén ấy lại tẩm thuốc độc. Rồi
một người đến, muốn sống, muốn không chết, muốn lạc, yếm ly khổ.
Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có uống chén bằng
đồng này không, nếu người ấy biết: "Sau khi tôi uống từ đây, tôi
sẽ đi đến chết hoặc đi đến gần như chết ?"
- – Thưa không,
bạch Thế Tôn.
- – Cũng vậy,
này Sunakkhatta, Tỷ-kheo ấy chắc chắn phòng hộ đối với sáu xúc
xứ. "Sanh y là căn bản của đau khổ", sau khi biết vậy, vị ấy trở
thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y. Còn chú thân
của vị ấy trên sanh y, để tâm đến sanh y, sự tình như vậy không
xảy ra. Ví như, này Sunakkhatta, một con rắn độc hết sức độc
hại, và có một người đến, muốn sống, muốn không chết, muốn lạc,
yếm ly khổ. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có đưa
tay hay gót chân cho con rắn độc hại này không, nếu người ấy
biết: "Nếu ta bị con rắn này cắn, ta sẽ đi đến chết hay khổ gần
như chết ?"
- – Thưa không,
bạch Thế Tôn.
- – Cũng vậy,
này Sunakkhatta, Tỷ-kheo ấy chắc chắn phòng hộ sáu xúc xứ. "Sanh
y là căn bản đau khổ", sau khi biết vậy, vị ấy trở thành vô sanh
y, giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y. Còn chú thân của vị ấy trên
sanh y, hay để tâm đến sanh y, sự tình như vậy không xảy ra.
- Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Sunakkhatta Licchaviputta hoan hỷ tín thọ
lời Thế Tôn dạy.
- --o0o--
|
|