|
Kinh Trung Bộ
H. T. Thích Minh Châu dịch
--o0o--
- KINH GANAKA
MOGGALLANA
- (Ganaka
Moggallanasuttam)
-
- Như vầy tôi
nghe.
- Một thời Thế
Tôn trú ở Savatthi, Pubbarama, nơi lâu đài của Migaramatu (Đông
Viên Lộc Mẫu Giảng đường) . Rồi Bà-la-môn Gananka Moggallana đi
đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi
thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Ganaka
Moggallana bạch Thế Tôn :
- – Ví như,
thưa Tôn giả Gotama, tại lâu đài Migaramatu này, có thể thấy
được một học tập tuần tự, một công trình tuần tự, một đạo lộ
tuần tự, tức là những tầng cấp của lầu thượng cuối cùng; thưa
Tôn giả Gotama, cũng vậy, đối với những vị Bà-la-môn này, được
thấy một học tập tuần tự, một công trình tuần tự, một đạo lộ
tuần tự, tức là sự học hỏi (các tập Veda). Thưa Tôn giả Gotama,
cũng vậy, đối với những vị bắn cung này, được thấy một học tập
tuần tự, một công trình tuần tự, một đạo lộ tuần tự, tức là nghệ
thuật bắn cung. Cũng vậy, Thưa Tôn giả Gotama, đối với chúng con
là những người toán số, sống nhờ nghề toán số, cũng được thấy
một học tập tuần tự, một công trình tuần tự, một đạo lộ tuần tự,
tức là toán số. Thưa Tôn giả Gotama, vì rằng khi có được người
đệ tử, trước hết chúng con bắt người ấy đếm như sau: "Một, một
lần, hai, hai lần, ba, ba lần, bốn, bốn lần, năm, năm lần, sáu,
sáu lần, bảy, bảy lần, tám, tám lần, chín, chín lần, mười, mười
lần". Và thưa Tôn giả Gotama, chúng con bắt đếm tới một trăm. Có
thể trình bày chăng, thưa Tôn giả Gotama, trong pháp và luật
này, cũng có một tuần tự học tập, một tuần tự công trình, một
tuần tự đạo lộ như vậy ?
- – Có thể
trình bày, này Bà-la-môn, trong pháp và luật này, có một tuần tự
học tập, có một tuần tự công trình, có một tuần tự đạo lộ. Ví
như, này Bà-la-môn, một người huấn luyện ngựa thiện xảo, sau khi
được một con ngựa hiền thiện, trước tiên luyện tập cho nó quen
mang dây cương, rồi tập luyện cho nó quen các hạnh khác; cũng
vậy, này Bà-la-môn, Như Lai khi được một người đáng được điều
phục, trước tiên huấn luyện người ấy như sau: "Hãy đến Tỷ-kheo,
hãy giữ giới hạnh, hãy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn,
đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi
nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới". Này Bà-la-môn, khi
vị Tỷ-kheo giữ giới hạnh, chế ngự với sự chế ngự của giới bổn,
đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi
nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới, Như Lai mới huấn
luyện vị ấy thêm như sau: "Hãy đến Tỷ-kheo, hãy hộ trì các căn,
khi mắt thấy sắc chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế
ngự khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị
Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự
hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng.... mũi ngửi hương... lưỡi
nếm vị.. thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm
giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân
gì, vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các pháp
ác bất thiện khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý
căn, thực hành sự hộ trì ý căn". Này Bà-la-môn, sau khi Tỷ-kheo
hộ trì các căn rồi, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm như sau :
"Hãy đến Tỷ-kheo, hãy tiết độ trong ăn uống, chơn chánh giác sát
thọ dụng món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê,
không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, chỉ để
thân này được duy trì, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp
trì Phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ và
không cho khởi lên các cảm thọ mới; và ta sẽ không phạm lỗi lầm,
sống được an ổn". Này Bà-la-môn, sau khi Tỷ-kheo tiết độ trong
ăn uống rồi, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm như sau: "Hãy đến
Tỷ-kheo, hãy chú tâm cảnh giác ! Ban ngày trong khi đi kinh hành
và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại
pháp; ban đêm trong canh đầu, trong khi đi kinh hành và trong
khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp; ban
đêm trong canh giữa, hãy nằm xuống phía hông bên phải, như dáng
nằm con sư tử, chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh
giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy lại. Ban đêm trong canh cuối,
khi đã thức dậy, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi,
gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp". Này, Bà-la-môn, sau
khi vị Tỷ-kheo chú tâm tỉnh giác, Như Lai mới huấn luyện vị ấy
thêm nữa như sau: "Hãy đến Tỷ-kheo, hãy thành tựu chánh niệm
tỉnh giác, khi đi tới khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng,
khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh
giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn,
uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều
tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh
giác". Này Bà-la-môn, sau khi chánh niệm tỉnh giác rồi, Như Lai
mới huấn luyện vị ấy thêm như sau: "Hãy đến Tỷ-kheo, hãy lựa một
chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá,
bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm". Vị ấy lựa một chỗ
thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi
tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về
và ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và
an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với
tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị
ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả
chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy
miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng
hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn
trầm thụy miên; từ bỏ trạo cử hối tiếc, vị ấy sống không trạo
cử, nội tâm trầm lặng gột rửa tâm hết trạo cử hối tiếc; từ bỏ
nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng
lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với các thiện pháp.
- Khi đoạn trừ
năm triền cái ấy, những pháp làm ô nhiễm tâm, làm trí tuệ yếu
ớt, vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt
tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc,
xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư,
không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, đối với
những Tỷ-kheo nào là bậc hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống
cần cầu sự vô thượng an tịnh các triền ách, đó là sự giảng dạy
của Ta như vậy đối với những vị ấy. Còn đối với những vị Tỷ-kheo
là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên
làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã
tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát, những pháp ấy đưa đến
sự hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.
- Khi được nói
vậy, Bà-la-môn Ganaka Moggallana bạch Thế Tôn:
- – Các đệ tử
của Sa-môn Gotama, khi được Sa-môn Gotama khuyến giáo như vậy,
giảng dạy như vậy, có phải tất cả đều chứng được cứu cánh đích
Niết-bàn hay chỉ có một số chứng được ?
- – Này
Bà-la-môn, một số đệ tử của Ta, khi được khuyến giáo như vậy,
giảng dạy như vậy, chứng được cứu cánh đích Niết-bàn, một số
không chứng được.
- – Thưa Tôn
giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì trong khi có mặt Niết-bàn,
trong khi có mặt con đường đưa đến Niết-bàn, trong khi có mặt
Tôn giả Gotama là bậc chỉ đường, tuy vậy các đệ tử Tôn giả
Gotama, được Tôn giả Gotama khuyến giáo như vậy, giảng dạy như
vậy, một số chứng được cứu cánh đích Niết-bàn, một số không
chứng được ?
- – Này
Bà-la-môn, ở đây Ta sẽ hỏi Ông. Nếu Ông kham nhẫn, hãy trả lời
cho Ta. Này Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào ? Ông có giỏi về con
đường đi đến Rajagaha (Vương Xá) ?
- – Thưa Tôn
giả, con có giỏi về con đường đi đến Rajagaha.
- – Này
Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào ? Ở đây, có một người, muốn đi đến
Rajagaha, người này đến Ông và nói như sau : "Thưa Tôn giả, tôi
muốn đi đến Rajagaha. Hãy chỉ cho tôi con đường đi đến
Rajagaha". Ông nói với người ấy như sau: "Được, này Bạn, đây là
con đường đưa đến Rajagaha. Hãy đi theo con đường ấy trong một
thời gian. Sau khi đi trong một thời gian, Bạn sẽ thấy một làng
tên như thế này. Hãy đi theo trong một thời gian. Sau khi đi
trong một thời gian, Bạn sẽ thấy một thị trấn tên như thế này.
Hãy đi theo trong một thời gian. Sau khi đi trong một thời gian,
Bạn sẽ thấy Rajagaha với những khu vườn mỹ diệu, với những khu
rừng mỹ diệu, với những vùng đất mỹ diệu, với những hồ ao mỹ
diệu". Dầu cho người ấy được khuyến giáo như vậy, được giảng dạy
như vậy, nhưng lại lấy con đường sai lạc, đi về hướng Tây. Rồi
một người thứ hai đến, muốn đi đến Rajagaha. Người này đến Ông
và hỏi như sau : "Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến Rajagaha, mong
Tôn giả chỉ con đường ấy cho tôi". Rồi Ông nói với người ấy như
sau : "Được, này Bạn, đây là đường đi đến Rajagaha. Hãy đi theo
con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi một thời gian, Bạn
sẽ thấy một làng có tên như thế này. Hãy đi theo con đường ấy
trong một thời gian. Sau khi đi một thời gian, Bạn sẽ thấy một
thị trấn có tên như thế này. Hãy đi theo con đường ấy trong một
thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, Bạn
sẽ thấy Rajagaha với những khu vườn mỹ diệu, với những khu rừng
mỹ diệu, với những vùng đất mỹ diệu, với những ao hồ mỹ diệu".
Người ấy được Ông khuyến giáo như vậy, giảng như vậy, đi đến
Rajagaha một cách an toàn.
- – Này
Bà-la-môn, do nhân gì, do duyên gì, trong khi có mặt Rajagaha,
trong khi có mặt con đường đưa đến Rajagaha, trong khi có mặt
Ông là người chỉ đường, dầu cho Ông có khuyến giáo như vậy,
giảng dạy như vậy, một người lấy con đường sai lạc, đi về hướng
Tây, còn một người có thể đi đến Rajagaha một cách an toàn ?
- – Thưa Tôn
giả Gotama, ở đây, con làm gì được ? Con chỉ là người chỉ đường,
thưa Tôn giả Gotama.
- – Cũng vậy,
này Bà-la-môn, trong khi có mặt Niết-bàn, trong khi có mặt con
đường đi đến Niết-bàn, và trong khi có mặt Ta là bậc chỉ đường.
Nhưng các đệ tử của Ta, được Ta khuyến giáo như vậy, giảng dạy
như vậy, một số chứng được cứu cánh đích Niết-bàn, một số không
chứng được. Ở đây, này Bà-la-môn, Ta làm gì được ? Như Lai chỉ
là người chỉ đường.
- Khi nghe nói
vậy, Bà-la-môn Ganaka Moggalana bạch Thế Tôn :
- – Thưa Tôn
giả Gotama, đối với những người không phải vì lòng tin, chỉ vì
sinh kế, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, những
người xảo trá, lường gạt, hư ngụy, mất thăng bằng, cao mạn, dao
động, nói phô tạp nhạp, không hộ trì các căn, ăn uống không tiết
độ, không chú tâm cảnh giác, thờ ơ với Sa-môn hạnh, không tôn
kính học tập, sống quá đầy đủ, uể oải, đi đầu trong thối thất,
từ bỏ gánh nặng viễn ly, biếng nhác, tinh cần thấp kém, thất
niệm, không tỉnh giác, không định tâm, tâm tán loạn, liệt tuệ,
câm ngọng; Tôn giả Gotama không thể sống với những người như
vậy. Còn những Thiện gia nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, không xảo trá, không lường gạt, không
hư ngụy, không mất thăng bằng, không cao mạn, không dao động,
không nói phô tạp nhạp, hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, chú
tâm tỉnh giác, không thờ ơ với Sa-môn hạnh, tôn kính học tập,
sống không quá đầy đủ, không uể oải, từ bỏ thối thất, đi đầu
trong viễn ly, tinh cần, tinh tấn, chánh niệm, an trú, tỉnh
giác, định tĩnh, nhứt tâm, có trí tuệ, không câm ngọng; Tôn giả
Gotama sống (hòa hợp) với những vị ấy. Ví như Tôn giả Gotama,
trong các loại căn hương, hắc chiên đàn hương được gọi là tối
thượng; trong các loại lõi cây hương, xích chiên đàn hương được
gọi là tối thượng; trong các loại hoa hương, vũ quý hương
(jasmine) được gọi là tối thượng. Cũng vậy là lời khuyến giáo
của Tôn giả Gotama được xem là cao nhất trong những lời khuyến
giáo hiện nay. Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! Thật vi
diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những
gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường
cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để
những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được
Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con
xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong
Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung,
con trọn đời quy ngưỡng.
- --o0o--
|
|