|
Kinh Trung Bộ
H. T. Thích Minh Châu dịch
--o0o--
- KINH BẤT ĐOẠN
-
(Anupadasuttam)
-
- Như vầy tôi
nghe.
- Một thời Thế
Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tinh xá
ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo :
"Này các Tỷ-kheo" – "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy
vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
- – Này các
Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Hiền trí; này các Tỷ-kheo, Sariputta
là bậc Đại tuệ; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quảng tuệ; này
các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Hỷ tuệ (Hasupanna); này các
Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Tiệp tuệ (javanapanna); này các
Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Lợi tuệ (tikkhapanna); này các
Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quyết trạch tuệ (nibbedhikapanna). Này
các Tỷ-kheo, cho đến nửa tháng, Sariputta quán bất đoạn pháp
quán. Này các Tỷ-kheo, đây là do bất đoạn pháp quán của
Sariputta.
- Ở đây, này
các Tỷ-kheo, Sariputta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và
an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm,
có tứ. Và những pháp thuộc về Thiền thứ nhất như tầm, tứ, hỷ,
lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải,
tinh tấn, niệm, xả, tác ý; các pháp ấy được an trú bất đoạn. Các
pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được
Sariputta biết đến khi an trú, được Sariputta biết đến khi đoạn
diệt. Sariputta biết rõ như sau : "Như vậy các pháp ấy trước
không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn
diệt". Sariputta đối với những pháp ấy, cảm thấy không luyến ái,
không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ
lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có
sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc
phải làm hơn nữa".
- Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, Sariputta diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ,
nội tỉnh nhứt tâm. Và những pháp thuộc về Thiền thứ hai như nội
tỉnh, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng
giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, những pháp ấy được an trú bất
đoạn. Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên,
được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết
đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta biết rõ như sau : "Như vậy
các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện
hữu, chúng đoạn diệt". Sariputta đối với những pháp ấy, không
luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát,
không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết :
"Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có
nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
- Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, Sariputta ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và
an trú Thiền thứ ba. Và những pháp thuộc về Thiền thứ ba, như
xả, lạc, niệm, tỉnh giác, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm,
dục, thắng giải, tinh tấn, xả, tác ý; những pháp ấy được
Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến
khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú,
được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với
những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không
trói buộc, giải thoát không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn
chế. Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với
Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
- Lại nữa này các Tỷ-kheo,
Sariputta xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Và
những pháp thuộc về Thiền thứ tư, như xả, bất khổ bất lạc thọ,
thọ (passivedana ?), vô quán niệm tâm (Cetaso anabhogo), thanh
tịnh nhờ niệm, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng
giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được Sariputta an
trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi
lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta
biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy,
không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta
biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn
có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
- Lại nữa này
các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ
mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, nghĩ rằng :
"Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Và những
pháp thuộc về Không vô biên xứ như hư không, vô biên xứ tưởng,
nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh
tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất
đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên,
được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết
đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không
luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát,
không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết :
"Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có
nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
- Lại nữa này
các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ
rằng : "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Và những
pháp thuộc về Thức vô biên xứ như Thức vô biên xứ tưởng, nhất
tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn,
niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn;
các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được
Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những
pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói
buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.
Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với
Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
- Lại nữa này
các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ
rằng : "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Và những
pháp thuộc về Vô sở hữu xứ, như Vô sở hữu xứ tưởng, nhứt tâm, và
xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả,
tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy
được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết
đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn
diệt. Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không
chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy,
an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự
giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc
phải làm hơn thế nữa".
- Lại nữa này
các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và
trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Với chánh niệm, Sariputta xuất
khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy,
Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị
biến hoại: "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có
hiện hữu, sau khi hiện hữu chúng đoạn diệt". Sariputta đối với
những pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập,
không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không
hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối
với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
- Lại nữa này
các Tỷ-kheo, Sariputta vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, chứng và an trú Diệt thọ tưởng (định). Sau khi thấy
với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn tận. Với chánh niệm,
Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi
định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn
diệt, bị biến hoại : "Như vậy các pháp ấy, trước không có nơi
ta, sau có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt".
Sariputta đối với các pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không
chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy,
an trú với tâm không hạn chế. Sariputta biết : "Không có sự giải
thoát nào vô thượng hơn thế nữa. Đối với Sariputta, không có
việc phải làm nhiều hơn thế nữa".
- Này các
Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn chánh, một người có thể nói về
người ấy như sau : "Người này được tự tại, được cứu cánh trong
Thánh giới, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự
tại, được cứu cánh trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh
trong Thánh giải thoát. Nói một cách chơn chánh về Sariputta,
người ấy có thể nói như sau : "Sariputta được tự tại, được cứu
cánh trong Thánh giới, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh
định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh tuệ, được tự tại,
được cứu cánh trong Thánh giải thoát".
- Này các
Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn chánh, một người có thể nói về
người ấy như sau : "Người này là con chánh tông của Thế Tôn,
sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự
Chánh pháp, không thừa tự vật chất". Nói một cách chơn chánh về
Sariputta, người ấy có thể nói như sau: "(Sariputta) là con
chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do
Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất".
- Sariputta,
này các Tỷ-kheo, chơn chánh chuyển Pháp luân vô thượng đã được
Như Lai chuyển vận.
- Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
- --o0o--
|
|