|
Kinh Trung Bộ
H. T. Thích Minh Châu dịch
--o0o--
- KINH SÁU SÁU
-
(Chadhakkasuttam)
-
- Như vầy tôi
nghe.
- Một thời Thế
Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm) tại tinh xá ông
Anathapindika (Cấp Cô Độc). Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo :
"Này các Tỷ-kheo". – "Thưa vâng, Bạch Thế Tôn".
- Các Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
- – Này các
Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, sơ thiện, trung thiện,
hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ta sẽ nói lên Phạm hạnh hoàn toàn
viên mãn, thanh tịnh, tức là sáu sáu. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ,
Ta sẽ giảng.
- – Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
- Các vị
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
- – Sáu nội xứ
cần phải được biết. Sáu ngoại xứ cần phải được biết. Sáu thức
thân cần phải được biết. Sáu xúc thân cần phải được biết. Sáu
thọ thân cần phải được biết. Sáu ái thân cần phải được biết.
- Khi được nói
đến "Sáu nội xứ cần phải được biết", do duyên gì được nói đến
như vậy ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Khi
được nói đến "Sáu nội xứ cần phải được biết ", chính do duyên
này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ nhất.
- Khi được nói
đến "Sáu ngoại xứ cần phải được biết", do duyên gì được nói đến
như vậy ? Sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ.
Khi được nói đến "Sáu ngoại xứ cần phải được biết", chính do
duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ hai.
- Khi được nói
đến "Sáu thức thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến
như vậy ? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức.
Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Do duyên
mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. Do duyên lưỡi và do
duyên các vị, khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các
xúc, khởi lên thân thức. Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi
lên ý thức. Khi được nói đến "Sáu thức thân cần phải được biết",
chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ ba.
- Khi được nói
đến "Sáu xúc thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến
như vậy ? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức.
Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên tai và do duyên các
tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do
duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của
ba (pháp này) là xúc. Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên
thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên thân và
do duyên các xúc khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này)
là xúc. Do duyên ý và do duyên các pháp khởi lên ý thức. Sự gặp
gỡ của ba (pháp này) là xúc. Khi được nói đến "Sáu xúc thân cần
phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là
sáu sáu thứ tư.
- Khi được nói
đến "Sáu thọ thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến
như vậy ? Do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhãn thức.
Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do
duyên tai và do duyên các tiếng khởi lên nhĩ thức. Do duyên mũi
và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Do duyên lưỡi và do
duyên các vị khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các
xúc khởi lên thân thức. Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi
lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là
thọ. Khi được nói đến "Sáu thọ thân cần phải được biết", chính
do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ năm.
- Khi được nói
đến "Sáu ái thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến
như vậy ? Do duyên mắt và duyên các sắc khởi lên nhãn thức. Sự
gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên
thọ là ái. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ
thức. Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Do
duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Do duyên thân
và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Do duyên ý và do duyên
các pháp khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do
duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Khi được nói đến "Sáu ái
thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như
vậy. Đây là sáu sáu thứ sáu.
- Nếu ai nói
rằng : "Mắt là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự
diệt của mắt đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được
thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngã sanh và diệt ở nơi
tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Mắt là tự ngã", như vậy không
hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã. Nếu ai nói rằng : "Các sắc
là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của các
sắc đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của các sắc đã được
thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngã sanh và diệt ở nơi
tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các sắc là tự ngã", như vậy là
không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã. Nếu
ai nói rằng : "Nhãn thức là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự
sanh và sự diệt của nhãn thức đã được thấy. Vì rằng sự sanh và
sự diệt của nhãn thức đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận:
"Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Nhãn
thức là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy con mắt là vô
ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã. Nếu có ai nói rằng
: "Nhãn xúc là tự ngã, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự
diệt của nhãn xúc đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã
được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngã sanh và diệt ở
nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Nhãn xúc là tự ngã", như
vậy, là không hợp lý. Như vậy con mắt là vô ngã, các sắc là vô
ngã, nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã. Nếu có ai nói rằng
: "Thọ là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt
của thọ đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của thọ đã được
thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi
tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Thọ là tự ngã", như vậy là
không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã,
nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã, thọ là vô ngã. Nếu có
ai nói rằng : "Ái là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh
và sự diệt của ái đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã
được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngã sanh và diệt ở
nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Ái là tự ngã", như vậy là
không hợp lý. Như vậy con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn
thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã, thọ là vô ngã, ái là vô ngã.
Nếu có ai nói rằng : "Tai là tự ngã"; nếu có ai nói rằng : ""Mũi
là tự ngã"; nếu có ai nói rằng : "Lưỡi là tự ngã"; nếu có ai nói
rằng : "Thân là tự ngã"; nếu có ai nói rằng : "ý là tự ngã", như
vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ý đã được thấy. Vì
rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận
: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Ý
là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy ý là vô ngã. Nếu có
ai nói rằng : "Các pháp là tự ngã", như vậy, là không hợp lý. Sự
sanh và sự diệt của các pháp đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự
diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngã sanh và
diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các pháp là tự ngã",
như vậy là không hợp lý. Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô
ngã. Nếu có ai nói rằng : "Ý thức là tự ngã", như vậy, là không
hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ý thức đã được thấy. Vì rằng sự
sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự
ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Ý thức
là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy ý là vô ngã, các
pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã. Nếu có nói rằng : "Ý xúc là tự
ngã ", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ý xúc đã
được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa
đến kết luận : "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có
ai nói rằng : "Ý xúc là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như
vậy ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là
vô ngã. Nếu có ai nói : "Thọ là tự ngã", như vậy không hợp lý.
Sự sanh và sự diệt của thọ đã dược thấy. Vì rằng sự sanh và sự
diệt đã được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở
nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngã", như vậy
là không hợp lý. Như vậy ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức
là vô ngã, ý xúc là vô ngã, thọ là vô ngã. Nếu có ai nói rằng :
"Ái là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Vì rằng sự sanh.. Do
vậy nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngã", như vậy là không hợp
lý. Như vậy ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý
xúc là vô ngã, thọ là vô ngã, ái là vô ngã.
- Này các
Tỷ-kheo, nhưng đây là con đường đưa đến sự tập khởi của thân
kiến. Ai quán mắt là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái
này là tự ngã của tôi" Ai quán các sắc là : "Cái này là của tôi,
cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi". Ai quán nhãn thức :
"Cái này là của tôi.. là tự ngã của tôi". Ai quán nhãn xúc: "Cái
này là của tôi ... là tự ngã của tôi". Ai quán thọ : "Cái này là
của tôi... là tự ngã của tôi". Ai quán ái: "Cái này là của tôi
... là tự ngã của tôi". Ai quán tai : "Cái này là của tôi.. là
tự ngã của tôi". Ai quán mũi : "Cái này là của tôi.. là tự ngã
của tôi". Ai quán lưỡi : "Cái này là của tôi.. là tự ngã của
tôi". Ai quán thân : "Cái này là của tôi.. là tự ngã của tôi".
Ai quán ý : "Cái này là của tôi.. là tự ngã của tôi". Ai quán
các pháp : "Cái này là của tôi.. là tự ngã của tôi". Ai quán ý
thức : "Cái này là của tôi.. là tự ngã của tôi". Ai quán ý xúc :
"Cái này là của tôi.. là tự ngã của tôi". Ai quán ái : "Cái này
là của tôi.. là tự ngã của tôi".
- Nhưng này các
Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của thân kiến. Ai
quán mắt : ""Cái này không phải là của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi". Ai quán sắc :
"Cái này không phải là của tôi.. không phải là tự ngã của tôi".
Ai quán nhãn thức : "Cái này không phải của tôi.. không phải là
tự ngã của tôi". Ai quán nhãn xúc : "Cái này không phải của
tôi.. không phải tự ngã của tôi". Ai quán thọ : "Cái này không
phải là của tôi... không phải tự ngã của tôi". Ai quán ái : "Cái
này không phải của tôi.. không phải tự ngã của tôi". Ai quán tai
: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngã của tôi". Ai
quán mũi : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngã của
tôi". Ai quán lưỡi: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự
ngã của tôi". Ai quán thân : "Cái này không phải của tôi.. không
phải tự ngã của tôi". Ai quán ý: "Cái này không phải của tôi..
không phải tự ngã của tôi". Ai quán các pháp: "Cái này không
phải của tôi.. không phải tự ngã của tôi". Ai quán ý thức: "Cái
này không phải của tôi.. không phải tự ngã của tôi". Ai quán ý
xúc: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngã của tôi".
Ai quán thọ: "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngã của
tôi". Ai quán ái : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự
ngã của tôi".
- Này các
Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức.
Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc
thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ,
mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước. Tham tùy miên của vị ấy
tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than
khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Sân tùy miên của vị ấy tùy
tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật
biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất
ly khỏi cảm thọ ấy, vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các
Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc
thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ
lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận
vô minh, không làm cho mình khởi lên, có thể ngay trong hiện tại
là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra. Này các
Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức.
Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ
thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên
thiệt thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc
khởi lên thân thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên ý và do duyên các
pháp khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do
duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị
ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước,
tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà
sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân
tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc
thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt,
sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của
vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận
tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối
với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ
bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi
lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự
kiện như vậy không xảy ra.
- Này các
Tỷ-kheo do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhãn thức. Sự
gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ,
khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không
hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không
tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, than van,
than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy
không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà như thật
biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất
ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng.
Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với
lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô
minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm
cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt
đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra. Này các Tỷ-kheo, do duyên tai
và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Này các Tỷ-kheo, do
duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Này các
Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức.
Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân
thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên ý và do duyên các pháp khởi lên
ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên cảm xúc
khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc
lạc thọ mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy
miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không
sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân
tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc
thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy
không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham
tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ
thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ,
đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện
tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.
- Này các
Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly mắt, yếm ly
các sắc, yếm ly nhãn thức; yếm ly nhãn xúc, yếm ly thọ, yếm ly
ái. Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng, yếm ly mũi, yếm ly các
hương; yếm ly lưỡi, yếm ly các vị; yếm ly thân, yếm ly các xúc;
yếm ly ý, yếm ly các pháp; yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc, yếm ly
thọ, yếm ly ái. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy giải
thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: "Ta đã được giải
thoát". Và vị ấy tuệ tri : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
- Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu
mươi Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp
thủ.
- --o0o--
|
|