- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN

-
Những Cánh Thiên Nga
-
Đâu Lại Bên Hồ
-
Lê Đình Bích
- --- o0o ---
-
Chữ tu khắc bằng kiếm
-
Nhạn bay ngang trời
-
Bóng chìm đầm lạnh
-
Nhạn không có ý để lại dấu tích
-
Nước không có ý lưu giữ bóng hình
-
Hàng năm, cứ vào dịp sau Tết Nguyên đán, tôi
lại đưa sinh viên Văn khoa Đại học Cần Thơ đi thực tế dọc miền
Trung. Một lần khi viếng chùa Từ Đàm, chúng tôi có duyên may
được gặp Hòa thượng Thích Thiện Siêu - áng mây tự tại bên trời
Hương giang, một nhà dịch thuật kinh điển Đại thừa lỗi lạc còn
ung dung nơi rừng trúc.
-
Lần đầu tiên gặp thầy tôi cảm nhận được thế nào
là hương vị của sự giải thoát. Thiện duyên này đã dẫn tôi tới
bản dịch kinh Pháp Cú trác tuyệt của Thầy : chữ Tu khắc bằng
kiếm. Một văn phong dũng mãnh, đại hùng, đại lực. Chỉ một câu
kinh thôi, ngay ở trang thứ nhất, đã làm thay đổi quan niệm
lối sống của đời tôi : Người kia không hiểu rằng : "Chúng ta
sắp bị hủy diệt" (nên mới phí sức tranh luận hơn thua). Nếu
họ hiểu rõ điều đó thì chẳng còn tranh luận nữa. Bản dịch
Dhammapada của thầy trở thành kim chỉ nam trong đời sống
thường nhật của tôi. Những khi bối rối trong cuộc sống, tôi
thường giở sách ra và làm theo lời kinh dạy : Nếu không gặp
bạn đồng hành hiền lương giàu trí lự, hãy sống một mình, như
vua tránh nước loạn, như voi sống ở rừng.
-
Tôi có một nguyện ước sẽ rèn luyện chữ viết của
mình, một ngạnh bút quốc ngữ, cùng với người bạn chuyên tâm
thư pháp Hán văn viết lại toàn bộ bản dịch của Thầy - một chút
lòng biết ơn và cũng để tự đào luyện tâm mình : Được sinh làm
người là khó, được sống còn khó hơn; được nghe chánh pháp là
khó, được gặp Phật ra đời là khó.
-
Nhạn quá trường không
-
Ảnh trầm hàn thủy...
-
Mùa Hè này, mùa Vu Lan báo hiếu, kỷ niệm tròn 3
năm 3 tháng tuổi Phật, hai cha con lại lên tàu về thăm quê nội
- con đường đầy hương hoa đặt giữa lòng đời !
-
Cắt đứt khúc đoạn trường
-
Bụt là vầng trăng mát
-
Đi ngang trời thái không
-
Hồ tâm chúng sanh lặng
-
Trăng hiện bóng trong ngần
-
Có một dòng nước trong, mát rượi đã truyền vào
trái tim tôi qua từng trang sách: An lạc từng bước chân, Phép
lạ của sự tỉnh thức, An trú trong hiện tại, Thiền hành yếu
chỉ...và một giọng nói vang vọng từ làng Mai, vi diệu hơn mọi
âm thanh của âm nhạc...
-
Ngày mãi mãi ghi nhớ đối với tôi là ngày tôi
được nghe băng ghi âm bài giảng phú Cư trần lạc đạo của vua
Trần Nhân Tông. Một hôm, khi nghe đến câu :
-
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc
quý
-
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh
ngâm
-
Tới đó, bỗng nhiên tôi vui hẳn lên, tôi mỉm
cười một mình. Có một thứ âm nhạc nào trong lòng tự nhiên trỗi
dậy. Tôi tắt máy ghi âm, đứng lên đi đến cửa sổ nhìn ra ngoài
vườn, hoa dừa trổ bông vàng ướm. Giây phút đó quanh tôi tràn
ngập tình thương và hạnh phúc. Tôi nhìn đâu cũng thấy cuộc
sống kỳ diệu và nhiệm mầu : có tiếng hát nào như tiếng chim
yến chim oanh ca hát trong lòng. Từ đó âm nhạc bên ngoài không
còn quyến rũ tôi như xưa nữa.
-
Niềm vui đó ngày ngày đến trường, theo tôi vào
lớp. Tình thương có mặt ngay cả khi tôi phải đối diện với
những gai góc của cuộc đời. Cũng viên phấn trắng, cũng tấm
bảng đen mà hôm nay đã khác.
-
Đi dưới hàng bằng lăng trồng trong sân trường
đã mười bảy năm, mà chiều nay tôi mới nhận ra bông bằng lăng
màu tím.
-
Rồi một ngày Rằm tháng Giêng đầy nắng, tôi nhận
được từ Đại đức Từ Nghiêm tác phẩm Kiều và văn nghệ đứt ruột.
Chao ôi ! Bất tri tam bách dư niên hậu ! Sau ba trăm năm, Hòa
thượng làng Mai bằng thi pháp Thiền tông đã giải mã thông điệp
của thi hào Nguyễn Du, dội một gáo nước lạnh, rửa sạch những
hạt giống đoạn trường trong tôi :
-
Ma đưa lối, quỷ dẫn đường
-
40 năm những đoạn trường mà đi
-
Quê mình tử biệt sinh ly
-
Quê người thôi có tiếc gì ngày xanh
-
Sáng nay, hoa nở trên cành
-
Hoa chúm chím nở lung linh sân nhà !
-
Chèo tiếp bảy trăm năm
-
Bồ đề bổn vô thọ
-
Minh cảnh diệc phi đài
-
Bổn lai vô nhất vật
-
Hà xứ nhá trần ai ?
-
Cứ mỗi lần thành kính ngắm nhìn bức chân dung
Lục Tổ Huệ Năng tôi lại nghĩ đến con đường gầy dựng Thiền tông
Việt Nam của HT.Thích Thanh Từ. Dường như Điều ngự Giác hoàng
đã chống ba sào, bước lên bờ, rồi đưa mái dầm cho thầy chèo
tiếp, vượt thoát bảy trăm năm về phương Nam - phương của những
người nông phu bình dị, phương của trí vô sư. HT.Tuyên Hóa nói
:
-
Muốn tôi lên trời : chẳng khó gì. Giáo hóa người Mỹ là khó
nhất.
Muốn tôi độn thổ : chẳng khó gì. Giáo hóa người
Mỹ là khó nhất.
Muốn gà trống đẻ trứng :
chẳng khó gì. Giáo hóa người Mỹ là khó nhất.
- Cũng thế, muốn
hoằng pháp ở thời kỳ hữu sư, kiêu mạn - người chèo đò phải mặc
áo tơi, đi thuyền lá : đại từ, đại xả, đại bi.
-
Lần đầu tiên tiếp xúc với pháp môn Thiền đốn
ngộ, công phu kỳ đặc của thầy, tôi hiểu rằng đó là con đường
duy nhất để đi vào thế giới xan tham, chấp ngã, đấu tranh :
người trí, kính mà ghen ghét ; người dũng, kính mà lo sợ ;
người bi, kính mà thân cận, chẳng dè dặt đề phòng ! Tạo dựng
10 thiền viện nghiêm minh bằng đôi tay chai sạn, làm nền móng,
làm gốc rễ sâu bền cho tòa nhà văn hóa Trúc Lâm - một bức
tranh thiền có thực ngoài đời chứ không phải trong tranh lụa -
là vạch một đường chim từ hai đỉnh núi. Giờ đây, cứ mỗi lần về
Đà Lạt, tôi lại lặng lẽ ngồi trong khuôn viên Rừng Trúc nhìn
xuống hồ Tuyền Lâm tĩnh lặng. Và trong nắng mai ấm áp, trong
tiếng thông reo, tôi nghe vang vọng lời dặn của Thầy: Một cá
nhân tu Thiền là một người tự do tự tại, một gia đình tu
Thiền là một gia đình hạnh phúc, một xã hội tu Thiền là một xã
hội văn minh, tự chủ, hùng cường.
-
Mùa Vu Lan năm 2000 - PL.2544, những bông hoa
Ưu đàm bừng nở, những cánh thiên nga về lại bên hồ. Đường quê,
nắng dọi ao thơm...
|