- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN

-
Có Hay Không Có
- Linh
Hồn Trong Phật Giáo
- ---o0o---
-
-
Trước hết, Phật giáo không bác bỏ linh hồn, nếu
linh hồn được hiểu đơn giản như là phần phi vật chất trong mỗi
con người.Trong thuyết cơ bản của Phật giáo, như thuyết năm
uẩn, phân tích người là một tập hợp năm uẩn (sắc,thọ,
tưởng,hành, thức).Trong 5 uẩn thì chỉ có sắc uẩn là vật chất,
còn 4 uẩn còn lại đều là phi vật chất, hay là thuộc phạm trù
tinh thần.
-
Một cách phân tích khác, ngược với cách phân
tích 5 uẩn là chia sắc uẩn thành bốn yếu tố : địa, thủy, hỏa,
phong gọi là bốn đại và tập hợp các yếu tố phi vật chất hay
tinh thần thành một nhóm, gọi chung là thức hay thức đại (địa,
thủy, hỏa, phong, thức). Như chúng ta thấy qua bài thơ của
Thiền sư Đạo Huệ thời Lý:
-
Địa, thủy, hỏa, phong,thức.
-
Nguyên lai nhất thiết không
-
Như vân hoàn tụ tán
-
Phật nhật chiếu vô cùng
-
Sắc thân dự diệu thể
-
Bất hợp bất phân ly
-
Nhược nhân yếu phân biệt
-
Lô trung hoa nhất chi
-
Dịch ý
-
Đất, nước, lửa, gió, thức
-
Vốn tất cả đều là không
-
Cũng như mây hợp rồi tan
-
Còn mặt trời Phật thì chiếu vô cùng
-
Sắc thân và diệu thể
-
Không hợp cũng không chia ly
-
Nếu người muốn phân biệt
-
Thì cũng như hoa sen trong lò lửa.
-
Bài thơ thiền của Thiền sư Đạo Huệ cũng giúp
trả lời phần nào thắc mắc "có linh hồn trong con người hay
không ?" Điều mà chúng ta tưởng tượng là ở trong chúng ta có
một linh hồn bất tử, linh thiêng, đồng thời cũng là cái ta tư
duy, cảm thọ, tưởng tượng, ý chí quyết định làm việc này việc
khác, phân biệt, hiểu biết.v.v...Chúng ta không biết là ngay
trong sự tưởng tượng của chúng ta đã có điều mâu thuẫn, vô lý,
phản lô-gích rồi, và chính đạo Phật bác bỏ cấu trúc tưởng
tượng mâu thuẫn, vô lý và phản lô-gích đó của chúng ta.
-
Đạo Phật đặt câu hỏi: "Một linh hồn tưởng tượng
là linh thiêng, là bất tử, không thay đổi, đồng thời cũng là
cái ta tư duy,cảm thọ, tưởng tượng, quyết định làm việc này
hay việc khác, phân biệt hiểu biết...
-
Đã có tư duy thì có tư duy sai hay đúng, cũng
như đã có cảm thọ thì có vui, buồn, thích hay không thích,
ghét hay yêu. Đã có phân biệt hiểu biết thì cũng có phân biệt
hiểu biết sai hay đúng, làm sao một cái ta linh thiêng, bất tử
và bất biến lại có thể tư duy đúng sai, cảm xúc vui buồn, yêu
ghét, phân biệt và phán xét có thể chính xác mà cũng có thể
sai trái?
-
Khi xác nhận ta có một cái Ta kiểu như Atman
của Ấn Độ giáo, hoàn toàn sáng suốt và tối thiện ở trong mỗi
người chúng ta, thì lập tức sa lầy vào mâu thuẫn trùng trùng
điệp điệp như đã phân tích trên đây. Chính vì vậy mà Phật giáo
bác thuyết Atman, tức là thuyết cái Ta của Ấn Độ giáo. Quan
điểm phủ định đối với thuyết Atman rất là rõ trong nhiều kinh
Phật Nguyên thủy, như Trường Bộ tập III, Trung Bộ tập I. Trong
những kinh đó, thường gặp đi gặp lại như một điệp khúc, khi
nói tới năm uẩn : "Sắc không phải là ta, ta không phải là cái
này, cái này không phải là tự ngã của ta..."Đối với thọ,
tưởng, hành, thức cũng đều lặp đi lặp lại điệp khúc như vậy.
"Phải chăng là thích hợp khi xem cái vô thường, đau khổ, bị
thay đổi như là tôi, tôi là cái này, cái này là tự ngã của
tôi".
-
Vậy thì qua những kinh Phật đã dẫn, chúng ta
phải hiểu đích thực Đức Phật bác bỏ cái gì trong thuyết linh
hồn hay là thuyết Atman ? Cái mà đạo Phật bác là linh hồn hay
Atman được tưởng tượng như một cái gì siêu nhiên, bất tử, bất
biến. Đức Phật không muốn đệ tử Ngài mất thì giờ vào những tư
biện siêu hình như vậy, cũng không khác gì tư biện siêu hình
về thế giới là vĩnh hằng hay sinh diệt, là hữu biên hay vô
biên...
-
Theo cách phân tích của đạo Phật, thì cái gì đã
là vĩnh hằng, bất biến như cái linh hồn tưởng tượng của chúng
ta thì làm sao chúng ta lại có thể trừ bỏ điều ác, hướng tới
điều lành được, làm sao tâm ý chúng ta từ dơ bẩn lại có thể
trở thành trong sạch, thanh tịnh ? Theo cách nhìn của Phật
giáo, thì trong con người chúng ta, dù là thành phần vật chất
như sắc thân (tức sắc uẩn), dù là thành phần phi vật chất như
thọ, tưởng, hành, thức, tất cả đều là vô thường, và chính vì
là vô thường nên hàm chứa một khả năng tiến bộ vô tận.Nói ra
thì có vẻ như mâu thuẫn, nhưng chính lô-gích của cuộc sống là
như vậy đó.
-
Ở trong con người, có thể nói, mối quan hệ phức
tạp, khó phân tích nhất là mối quan hệ giữa thân và tâm. Đó là
một câu hỏi, trong số 14 câu hỏi mà Phật không trả lời. Ở
trong con người, thân và tâm là một hay là hai ?
-
Vì sao ? Vì khi nói tâm là nói tâm nào. Nếu đó
là cái tâm thức tư duy cảm thọ bình thường, thì ngay trong câu
đầu tiên của bài thơ thiền của Đạo Huệ, chúng ta thấy rõ, tất
cả 5 uẩn, trong đó có thức uẩn, đều là vô thường. Như vậy là
theo đạo Phật, tất cả mọi thành phần dù là vật chất hay phi
vật chất ở trong chúng ta cũng đều là vô thường, và vì là vô
thường cho nên cũng là không rỗng, vô ngã, là "nguyên lai nhất
thiết không"
-
Đồng thời Đạo Huệ cũng nói đến chân tâm hay
diệu thể, ở "trong chúng ta" mà, sách Phật thường nói là
"không thể nghĩ bàn", siêu việt ngôn ngữ và tư duy bình
thường, cho nên Đạo Huệ miễn cưỡng nói "bất hợp, bất phân ly"
hay là "lô trung hoa nhất chi" (hoa sen trong lò lửa). Thật
ra, nói chân tâm nằm ở trong thân, cũng như nói hoa sen ở
trong lò lửa, cũng là nói miễn cưỡng, nói điều không thể nói,
đáng lẽ nên im lặng không nói gì hết, như Phật đã từng như vậy
khi có người hỏi Phật là thân với tâm là một hay là hai. Chân
tâm hay diệu thể (từ của Thiền sư Đạo Huệ), hay diệu tánh (từ
của Thiền sư Ngộ Ấn thời Lý) đều là cái chân lý tối hậu mà
chúng ta chỉ có thể qua trực cảm huyền nhiệm (mystic
intuition- xem cuốn Buddhist Logic tập I bản Anh ngữ của viện
sĩ Nga Scherbatsky, tr 63) để biết được mà thôi, còn nếu chỉ
bàn luận và tư biện dù là tư biện theo chiều sâu cũng chỉ là
mất công, mất sức mà thôi. Bản thân Đức Phật đã từng dùng ảnh
dụ người mù sờ voi để phê phán như là vô ích mọi công phu tư
biện và tranh luận để nắm bắt chân lý tối hậu. Ở đoạn trước,
tôi đã dẫn chứng bài thơ thiền của Đạo Huệ. Thiền sư Ngộ Ấn,
cũng ở đời Lý và có một ý tương tự :
-
Diệu tánh hư vô bất khả phân
-
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
-
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
-
Liên phát lô trung thấp vị càn
-
Ngọc tuy đốt trên núi, nhưng màu sắc vẫn tươi
-
Hoa sen trong lò vẫn nở.
-
Tất cả những ảnh dụ kiểu như hoa sen trong lò,
ngọc đốt trên núi để phản ảnh cái bất lực của ngôn ngữ để nói
điều không thể nói, mô tả điều không thể mô tả. Một lần nữa,
đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộ và giải thoát, đi
theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không
thể nói suông được.
-
Đức Phật khuyến cáo chúng ta hãy quán thân trên
thân, quán thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên các hành tướng
của tâm, và quán các pháp đều là vô thường (xem kinh Đại niệm
xứ thuộc Trường Bộ II).Và quán sát như vậy là để nhằm những
mục đích rất thực tiễn. Quán thân là để cho tâm hành được an
tịnh. Quán các cảm thọ là để cho tâm hành cũng được an tịnh.
Quán tâm là để cho tâm được hân hoan, tâm được định tĩnh, và
cuối cùng tâm được giải thoát.
-
Nếu tất cả Phật tử Tăng Ni chúng ta bỏ được cái
tật tư biện siêu hình thì sự nghiệp tu hành của chúng ta cũng
sẽ đỡ phiền phức và đơn giản biết bao !
-
Nếu tất cả Tăng Ni Phật tử chúng ta hàng ngày
học như vậy, thực hành như vậy, thì tự nhiên câu hỏi "con
người có linh hồn hay không", hay là nói theo Ấn Độ giáo, có
Atman hay không, sẽ tự nhiên và tức khắc được giải đáp.
|