|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
-

-
YẾU NGHĨA KINH VU LAN
-
--o0o--
-
-
Đạo Phật đã hiện diện tại thế gian hai mươi lăm thế kỷ, và hiếu
đạo là đạo của con người. Cho nên kể từ khi Phật thuyết kinh Vu
Lan cho đến ngày nay, biết bao nhiêu người đã đọc tụng một cách
thông thuộc. Cứ mỗi độ Vu Lan Rằm tháng Bảy, chùa chiền hơn lúc
nào hết, tấp nập tín đồ đến hành lễ. Bàn thờ thì bông trái đầy
đủ, còn Phật tử thì thuộc nằm lòng câu kinh tiếng kệ. Điều này
chứng tỏ Đạo Phật đã phổ cập trong quần chúng. Tuy nhiên vì tính
cách phổ thông và quen thuộc, đôi khi chúng ta lại hời hợt,
không tìm hiểu ý nghĩa của kinh Vu Lan.
-
Vu
Lan là dịch âm của chữ Phạn, Trung Hoa gọi là cứu đảo huyền.
Nghĩa là cứu cái khổ bị treo ngược.
-
Bồn là loại khí cụ, chẳng hạn như thau chậu, ở đây ý nói phương
pháp cụ thể nhằm cứu độ cha mẹ, ông bà... ra khỏi cảnh khổ bị
treo ngược Bởi khi còn sống, lo tích chứa gom góp; mà làm biết
bao tội lỗi. Đến khi vô thường đến của cải bỏ lại thế gian; Hồn
vào địa ngục, chịu cảnh đọa đày, chừng đó ăn năng hối tiếc đã
muộn màng, cho nên đau khổ tức tối như bị treo ngược vậy.
-
Muốn thoát cảnh khổ ấy, thì phải làm sao ? Rất đơn giản ! Hồi
xưa gom góp bao nhiêu bây giờ phải trả lại bấy nhiêu. Nghĩa là
đem của cải ra mà bố thí cúng dường để chuộc lỗi xưa. Dùng khí
cụ to lớn như Bồn, thau, chậu là ý đức Phật dạy phải mở rộng
lòng rộng lớn để xả thí một cách rộng rãi. Nhưng đã chết làm sao
thực hiện Con cháu người hậu thế, là những người thừa hưởng
phần di sản trên phải hành trì. Như vậy, kẻ còn người mất đều
được lợi lạc. Bởi vì người thực hiện được sáu phần công đức,
vong linh thừa hưởng một phần, như kinh Địa Tạng đã dạy. Sẽ có
một số người sẽ ngĩ rằng : Nếu đạo Phật có tích chứa của cải là
có tội. Vậy chả lẽ chịu nghèo đói, chịu khổ hay sao ? Đạo Phật
không chủ trương nghèo khổ tiêu cực, yếm thế đạo Phật vẫn khích
lệ người ta lo tròn bổn phận và tự vươn lên trong cuộc sống
nghĩa làta có quyền mưu sinh, làm ra của cải để lo cho gia đình,
nuôi nấng con cái, giúp đỡ mọi người, nhưng bằng chánh nghiệp,
bằng phương pháp lành. Đức Phật đã quán triệt được nhân quả,
nghiệp báo. Ngài thấy rằng gieo nhân xấu, thọ quả xấu, và điều
mà tất cả mọi người mù quáng là lúc nào cũng lao lung, tạo
nghiệp ác để rồi thừa hưởng chưa bao nhiêu lại phải đọa lạc đau
khổ triền miên. Hiểu đựợc như vậy chúng ta hãy tự cứu chúng ta
ngay trong đời sống thực tại, chớ đừng để khi xuống địa ngục,
chịu quả báo xấu mới sực tỉnh, rồi sanh tức tối như bị treo
ngược vậy.
-
Đó
chỉ mới là yếu nghĩa của tên kinh. Về nội dung của kinh chắc hẳn
ai cũng biết Phật dạy : Ngày Rằm tháng Bảy, ngày Tự Tứ (Tết của
Chư Tăng). Ngày Phật trời hoan hỷ. Chúng ta sắm bá vị cơm canh -
thức ăn trăm món, trái cây trăm màu, chờ Chư Tăng kiết hạ an cư
xong, về đông đủ thiết trai cúng dường. Nhờ phước lực của Chư
Tăng, cha mẹ bảy đời được quá vãng. Riêng Chư Tăng trước khi thọ
thực đàn trai thì phải hết lòng thành kính trước Phật tiền, dâng
phẩm vật cúng dường và tụng kinh cầu nguyện... Như vậy người tại
gia thì kiết trai cúng dường, người xuất gia thì tụng niệm...
-
Pháp Vu Lan Bồn thật dễ dàng quá ! Vì ai ai cũng có thể làm
được. Nhứt là những người đang sống trong xã hội, đất nước phú
túc như chúng ta, bất cứ ai cũng có thể thực hiện được và đứng
nói chi trăm món - ngàn món cũng được ! Chỉ cần làm lụng siêng
năng đừng phạm luật là chúng ta có thể thực hiện đúng chánh
pháp. Dẫu cho đang ăn tiền trợ cấp, đang bị thất nghiệp, chúng
ta cũng có thể mua sắm phẩm vật cúng dường như thường. Nhưng còn
những ai nghèo khó ở những nước nhược tiểu đói kém, cơm ăn còn
chưa đủ thì làm sao sắm đủ cơm canh trăm món ? Thật ra dụng ý
của Đức Phật dạy chúng ta hãy bỏ nhân hạnh tham lam bỏn sẻn mà
mở rộng cõi lòng tác pháp bố thí cúng dường ngỏ hầu chiêu cảm
phước báo nhân thiên, tránh cái quả phải sa vào cảnh giới ngạ
quỷ, còn vật thực chỉ là một điều phụ thuộc khả năng, quan trọng
nhất là nơi sự phát tâm, phước báo sẽ tùy theo đó mà chiêu cảm.
-
Ngày xưa, sau khi Đức Mục Kiền Liên chứng đạo, dùng đại định tìm
mẹ. Ngài đã gặp mẹ ở chốn địa ngục A Tỳ. Thấy mẹ đói khát, Ngài
đã dùng thần thông mang cơm trở lại dâng cúng cho mẹ. Nhưng vì
lòng bỏn sẻn, bát cơm vừ? dâng tới miệng Mẹ Ngài đã hóa thành
than lửa. Đau xót Ngài xin Phật chỉ bày phương cách cứu độ mẫu
thân. Đức Phật dạy : Đến Rằm tháng Bảy dùng pháp Vu Lan Bồn cúng
dường Chư Tăng, mẹ Ngài sẽ siêu thoát. Đây là một thử thách,
đồng thời có dụng ý của Đức Phật. Mục Kiền Liên là vị Thanh Văn
Tăng. Hằng ngày dùng phương pháp khất thực để độ thân và tu
hành. Tài sản của Ngài là tam y và bình bát. Với chiếc bình bát
ấy Ngài chỉ được phép khất thực đúng phần thọ dụng của mình. Lại
nữa theo giới luật của một vị Tỳ Kheo không được tích chứa của
cải, không được để đồ ăn cách đêm. Như thế, xin được bữa nào ăn
bữa đó, lấy đâu thực hiện pháp Vu Lan Bồn. Vậy tại sao Đứ? Phật
lại trớ trêu dạy Ngài phải dâng cúng trai Tăng với thức ăn trăm
món, trái cây trăm màu... Nghĩa là ngoài khả năng được phép của
Ngài. Như vậy Mục Kiền Liên phải làm sao Dụng ý của Đức Phật
muốn Mục Kiền Liên phải đích thân đi giáo hóa phương pháp báo
hiếu cho mọi người. Phải làm sao nói cho mọi người nghe câu
chuyện của Mẹ Ngài, khuyến khích mọi người cùng Ngài đóng góp
của cải để cùng nhau cứu độ người thân. Nhưng xin của cải của
người khác đâu phải dễ. Đòi hỏi Mục Kiền Liên phải là người thế
nào. Đó là mục đích chính. Mục Kiền Liên đã có quá trình tu tập
chơn chánh, đã tinh tấn và chứng đạo có thần thông. Cho nên, nói
điều gì ra, mọi người tin tưởng. Nếu chúng ta là người đương
thời, chúng ta sẽ hỏi Mục Kiền Liên : Thưa Ngài, tại sao Ngài
biết mẹ Ngài đọa vào địa ngục v.v... và v.v... Sau khi Mục
Kiền Liên bày tỏ sự tu chứng của mình, trực tiếp vào địa ngục
tìm mẹ bằng Đại Định và thần thông v.v... Chắc hẳn, có người sẽ
ưu tư về thân phận của cha mẹ mình và cũng thao thức tu hành
chứng đắc để biết vong linh thân bằng quyến thuộc ở đâu, làm gì
để cứu độ. Như vậy phải chăng Đức Phật sai Mục Kiền Liên đi giáo
hóa mọi người, làm công đức bố thí cúng dường, khích lệ mọi
người lo phần hiếu đạo và khơi nguồn ý thứ tu tập. Còn Mục Kiền
Liên, những vị xuất gia, muốn thành đạt hiếu đạo, phải có đời
sống tu hành đúng đắn, phải hoằng pháp độ sanh và lần tới chỗ tu
chứng, để gây tín tâm cho mọi người. Vậy yếu nghĩa của kinh Vu
Lan dạy mọi người phải làm tròn hiếu đạo. Người xuất gia thì
tinh tấn tu tập, lấy chứng đắc làm mục tiêu tối thượng. Sau đó
hoằng pháp độ sanh, giáo hóa mọi người. Còn người Phật tử tại
gia, ngoài việc bố thí cúng dường, hộ trì Phật Pháp, phải giữ
gìn hạnh nghiệp trong sạch và phát tâm tu tập giải thoát.
-
Bấy lâu nay vì chưa hiểu tâm ý của kinh Vu Lan. Cho nên người
tại gia thấy việc báo hiếu quá dễ dàn. Còn người xuất gia, y
kinh thực hành nên chỉ việc đến ngày Tự tứ tụng niệm, cầu nguyện
cho thí chủ là xong. Làm vậy khó thành tựu thiện quả, dễ bị hiểu
lầm là mê tín, và chưa xứng đáng là đệ tử của Phật, cũng chưa
noi gương hiếu hạnh của Mục Kiền Liên. Mong sao, đây chỉ là vài
yếu nghĩa thô thiển. Mà quý vị còn nhiều phát kiến thâm sâu hơn,
để chúng ta cùng nhau trọn niềm hiếu đạo.
- --o0o--
|
|