|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
-

-
Đôi Ðiều Cương Yếu
-
Về Kinh Địa Tạng
-
---o0o---
-
Tựa đề của kinh Địa Tạng cần giải thích trước tiên là "U minh
Giáo chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát". Có nghĩa đấng giáo
chủ cõi U minh là Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát. Thông
thường, chúng ta tin có một vị Bồ tát tên Địa Tạng, Ngài cầm
trong tay phải một cây tích trượng và tay trái một hạt minh
châu. Ngài xuống địa ngục làm giáo chủ, dùng tích trượng đập phá
cửa địa ngục để cứu vớt chúng sanh, nếu chúng sanh chí thành
niệm danh hiệu của Ngài. Nhưng liệu chúng ta tin một cách thật
thà như vậy có đúng không ? Đó là điều đáng nói.
-
Chúng ta nên biết, sự sử dụng từ ngữ trong kinh điển thật hết
sức sát nghĩa và rõ ràng : "Bổn" là bổn tâm. "Tôn" là tôn quý,
"Địa" là tâm địa, "Tạng" là Như Lai tàng. Như vậy, chỉ có bổn
tâm mới là tôn quý nhất, đó là kho Như Lai tàng tâm địa; chỉ có
bổn tâm mới làm chủ được cõi u minh, tức làm chủ cõi địa ngục
tham, sân, si của chính mình. Địa ngục chính là địa ngục tham,
sân, si, vì chúng sanh khổ là do tham, sân, si mà khổ. Và khi có
tham, sân, si đầy dẫy trong tâm, phiền não dấy khởi, thì cái gì
mới phá được cửa địa ngục này ? ố Dĩ nhiên phải là Bổn tôn Địa
Tạng của chính mình vậy. Quan trọng là mình phải nhận ra được
Bổn tôn Địa Tạng ố nghĩa là tự tánh Như Lai tàng tâm địa, cái
cực tôn cực quý, hoặc nói gọn như trong kinh Niết Bàn, nhận lại
cái Phật tánh của mình, thì mình mới có thể đập phá được địa
ngục tham, sân, si, và cứu giúp chúng sanh muôn loài.
-
Nếu đọc các kinh điển Đại thừa, chúng ta sẽ thấy trong kinh dùng
rất nhiều ngụ ngôn ngụ ý, ám chỉ nghĩa lý sâu xa huyền diệu. Cho
nên, khi chúng ta quá chấp nê vào chữ nghĩa, hiểu những hình ảnh
lung linh được diễn tả trong đó một cách quá thật thà, thì chúng
ta sẽ khó lãnh hội được ý kinh. Mà không lãnh hội được ý kinh
thì không thể nào hiểu được bản ý của Đức Phật. Kinh Địa Tạng
không phải là thật giáo ố nghĩa là chỉ thẳng, mà thuộc quyền
giáo ố nghĩa là quyền biến phương tiện, tức phải tạm dùng cái sự
tướng lung linh huyền diệu đó để hiển bày cái lý tánh tuyệt đối
kia. Khi muốn trỏ một cái thật, nếu dùng lý lẽ diễn đạt một cách
chi li, thì dễ làm phát sinh những khái niệm từ thức tâm phân
biệt, sẽ khó đi thẳng vào chân lý cứu cánh. Chẳng hạn như kinh
Pháp Hoa, các dụ về Cùng tử, về tháp Đa Bảo, về Như Lai thọ
lượng... Muốn nói lên điều gì ? Rõ ràng, các hình ảnh ấy đều
nhằm kích thích trực giác hết. Kinh Địa Tạng ở đây cũng vậy, mẫu
Bồ tát Địa Tạng và cõi U minh được diễn tả cũng chỉ là dùng sự
để hiển lý.
-
Đức Phật thường được các hàng đệ tử xưng tán là "Như Lai biết
nghĩa, biết pháp, biết trình độ, biết thời cơ và biết chúng
hội". Sự thuyết pháp của Phật căn cứ vào ba yếu tố : thời, xứ và
vị ố nghĩa là thời gian nói pháp, nơi chốn nói pháp và đối tượng
nghe pháp. Vì vậy, Phật không nói pháp nào chỉ có ý nghĩa một
chiều. Có khi Ngài nói pháp thấp cho hàng căn cơ kém; có lúc
Ngài nói pháp vừa cho hàng trung căn; cũng có khi lại nói pháp
cao, rốt ráo cho hàng căn cơ bậc thượng. Cho nên, nhiều khi
trong kinh điển chúng ta thấy có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng kỳ
thực, đó là do tùy duyên hóa độ. "Nhất thiết tu đa la giáo
như tiêu nguyệt chỉ", tất cả kinh điển như ngón tay chỉ mặt
trăng, chúng ta phải nương ngón tay để thấy mặt trăng, nghĩa là
phải nương vào văn tự trong kinh để khéo thầm hội được chân lý.
-
Đối với kinh Địa Tạng, nếu chúng ta hiểu một cách thật thà và mê
tín rằng, Địa Tạng là một vị Bồ tát có hình tướng rõ ràng, và có
một cõi đia ngục thật sự, thì chúng ta đã chấp ngón tay là mặt
trăng, chúng ta sẽ ỷ lại vào tha lực, tin tưởng vào thần quyền,
rồi vô tình bài bác lý nhân quả. Nếu thật sự có một Bồ tát Địa
Tạng đủ khả năng đập phá cửa địa ngục, thì chúng ta khỏi cần
tụng kinh, tọa thiền hay tu Bát quan trai, chỉ cần một lòng cầu
Bồ tát, chờ đến lúc chết sẽ có Ngài đến cứu. Như vậy thì, tinh
thần ai ăn nấy no ố ai uống nấy hết khát có còn đâu ? Nhân nào
quả nấy cũng không có ý nghĩa. Đức Phật ra đời cũng vô nghĩa
luôn. Nhưng thật ra, vì sao chúng ta phải nỗ lực tu hành ? Nếu
chúng ta không cải ác phục thiện, không dứt trừ các nghiệp ác
nơi thân, khẩu, ý, thì có vị Bồ tát nào cứu vớt mình được ? Ví
dụ trong một lớp học, ông thầy đem hết khả năng để dạy một cách
công bằng, nhưng có thể nào thầy làm toàn bộ học trò đều giỏi
đồng đều như nhau không ? Chủ ý của thầy là dạy hoàn toàn bình
đẳng, nhưng kết quả học tập lại tùy thuộc trí thông minh, sự
siêng năng cần mẫn, hoàn cảnh gia đình của mỗi học trò. Cũng như
thế chư Phật và chư Bồ tát không phải hoàn toàn không có tha lực
đối với chúng sanh, nhưng tha lực của các Ngài chỉ là sức trợ
duyên mà thôi. Đức Phật ra đời, khai thị cho chúng sanh ngộ nhập
Phật tri kiến, nhưng khai thị mà chúng sanh có ngộ nhập được hay
không là do ở mỗi chúng sanh. Nếu Phật có thể ban cho chúng sanh
cái tri kiến Phật ấy, thì chúng sanh đâu cần tu, và tinh thần
"Tự thắp đuốc lên mà đi" hóa ra vô nghĩa. Cho nên, nếu có suy
nghĩ một chút, ta sẽ thấy, mọi kinh điển đều nhằm kích thích
trực giác để ta nhận ra cái Bổn tôn Địa Tạng, rồi tự nỗ lực để
cứu chính mình ra khỏi sinh tử luân hồi.
-
Trước khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt ở rừng Ta La Song
Thọ, Ngài đã tuyên bố rất rõ : "Các ông hãy tự thắp đuốc lên mà
đi, thắp lên với chánh pháp". Nếu chúng ta không tự thắp đuốc
lên mà đi, cứ trông cầu nơi Phật, Bồ tát, thì chúng ta đã rơi
vào thần quyền mất rồi ! Đức Phật đã trở thành một vị thần linh
rồi. Và nếu chúng ta thần thánh hóa các Ngài, các Ngài sẽ bị
giảm giá trị; giáo lý của Đức Phật cũng bị đánh mất tính thực
tiễn, tính khoa học và tính nhân bản, là nền tảng giá trị và đạo
đức muôn đời của đạo Phật. Cho nên, sự học Phật của chúng ta,
mỗi mỗi phải y cứ vào tinh thần "tự mình thắp đuốc", vốn là kim
chỉ nam cho mỗi người con Phật, dù là xuất gia hay tại gia.
Chúng ta cần biết rằng, khi luận đến nghĩa lý sâu xa của kinh
điển Đại thừa, thì khi nói đến chúng sanh, phải hiểu là chúng
sanh tâm, bởi vì ngoài tâm không có chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm
có nói, tâm như người thợ vẽ, vẽ ra mỗi ngũ uẩn của chúng ta.
Mỗi thân ngũ uẩn được tác tạo do vọng tâm, nói cách khác là do
nghiệp lực. Như vậy, nói đến chúng sanh chánh báo, đó là chúng
sanh tâm, còn hoàn cảnh y báo cũng không ngoài tâm mà có. Ở đây
cũng vậy, chúng ta phải luôn luôn quy trở về bản tâm của chính
mình thì mới hiểu được ý kinh. Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là
chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não.
Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của
chính mình. Nếu chúng sanh là chúng sanh tâm, thì Phật cũng là
Phật tâm, ngoài tâm không có Phật; nếu địa ngục là địa ngục tự
tâm, thì Địa Tạng tất nhiên cũng là Địa Tạng tự tâm vậy. Cho
nên, có thể nói, không thể nào lìa tâm để tu hành, không thể nào
lìa tâm mà giải thoát. Đây là điều chúng ta phải hết sức lưu ý.
Chúng ta tu là tu tâm của chúng ta, nếu thanh tịnh cũng là thanh
tịnh cái tâm; khi giác ngộ là giác ngộ tự tâm, cho đến lúc thành
đạo cũng là thành tựu lại cái bản tâm ấy. Ngoài tâm sẽ không có
cái gì cả. Đó là chỗ y cứ của tất cả kinh điển Đại thừa.
-
Thông thường, nếu hiểu theo sự tướng, thì quy y Phật là trở về
nương tựa nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, quy y Pháp tức quy y
giáo pháp của Ngài, và quy y Tăng nghĩa là quy y những Tăng sĩ
tu hành thanh tịnh. Nhưng nếu hiểu theo tinh thần của Lục Tổ Huệ
Năng, hoặc của các kinh điển Đại thừa, thì quy y Tam bảo tức là
Tam bảo tự tâm: Phật là tánh giác của chính mình, Pháp là chánh
kiến sẵn đủ nơi tự tâm, Tăng chính là bản tâm thanh tịnh (Phật
là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh). Hiểu như thế mới trọn vẹn
cả sự và lý, chứ nếu chỗ quy hướng lại ở bên ngoài, đó chính là
ngoài tâm cầu Phật ố tức là ngoại đạo. Bởi Phật là Phật tâm, mà
trở về với tự tánh Địa Tạng là một sự quy y lớn. Chính vì sự quy
y này mà cả ba đời Như Lai đồng kính ngưỡng, và mười phương Bồ
tát mới trọn trở về nương tựa. Chúng ta sẽ khảo sát điều này kỹ
hơn khi đọc đến đó.
-
Trở lại từ đầu : Chúng ta nên biết, bài tựa xưng tán Bổn tôn Địa
Tạng chính là cương lĩnh, là kim chỉ nam, là tổng quan của toàn
bộ bản kinh. Cho nên, nếu hiểu rõ được bài tựa này, ta sẽ hiểu
được toàn bộ bản kinh không khó :
-
"Dốc lòng cung kính lễ
-
Giáo chủ cõi U minh
-
Là
Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát"
-
Cung kính lễ mà dốc lòng, có nghĩa là toàn tâm toàn trí cung
kính lễ. Giáo chủ cõi U minh tức là bản tâm thanh tịnh của chính
mình. Như vậy, đây là một sự quy y trở về với Bổn tôn Địa Tạng
của mình.
-
"Cúi đầu kính lễ Đấng Giáo chủ đại từ bi
-
Giống như đất bền chắc, sâu dày, rộng chứa khắp".
-
Đất ở đây có nghĩa là đất tâm. Đất tâm rất kiên cố, không có gì
công phá được, hủy diệt được. Tâm địa kiên cố là đức tính thứ
nhất của Bổn tôn Địa Tạng. Đức tính thứ hai là sâu dày. Chúng ta
thấy, biển sâu cách mấy cũng có thể dò được, nhưng làm sao dò
được tâm ? Tâm không có hình tướng, kích thước, rút lại thì trên
đầu mũi kim, bủa ra thì trùm khắp pháp giới; cho nên gọi là sâu
dày. Đức tính thứ ba là rộng chứa khắp. Phật dạy : Bổn tâm của
mỗi chúng sanh thật bao la không ngằn mé, nếu đem hư không so
với bổn tâm, cũng như hòn bọt ví cùng biển cả.
-
Chúng ta dám nhận mình có Bổn tôn Địa Tạng không ? Nếu chúng ta
không dám nhận, thì như kinh Pháp Hoa nói, chúng ta là những
cùng tử xin ăn đầu đường góc chợ, con của trưởng giả mà cứ chịu
lang thang. Lẽ ra, biết rõ cha mình rất giàu có, vàng bạc kho
lẫm dẫy đầy, chúng ta phải trở về thọ hưởng gia tài của cha.
Cũng như thế, chúng ta có cái Bổn tôn Địa Tạng kiên cố sâu, dày,
rộng chứa khắp này, mà lại cô phụ cái tánh linh của chính mình,
rồi trôi giạt trong sáu đường ba cõi. Đó là cái bi kịch của kiếp
người.
-
Tiếp theo, khi tán dương đúng mức công đức của Bổn tôn Địa Tạng
rồi, thì bắt đầu những hình ảnh lung linh huyền diệu :
-
"Thế giới phương Nam bủa mây hương,
-
Mưa hương, mây hoa và mưa hoa,
-
Mưa báu, mây báu nhiều vô số,
-
Ứng hiện điềm lành khắp trang nghiêm".
-
Phương Nam là cõi Nam Thiệm Bộ Châu, tức cõi Diêm Phù Đề này.
Thế giới lúc này không những có mây hương mà còn có mưa hương,
mây hoa, mưa hoa, và cả mưa báu, mây báu nhiều vô số nữa. Chúng
ta có tin rằng, trong cõi Ta-bà này mà có mây hương mây hoa
không ? Nếu chúng ta tin trong dãy da hôi thối này có hòn ngọc
như ý, trong lò lửa vô thường này có hoa sen nở, thì sẽ tin có
những điềm lành ấy ứng hiện. Nói theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm,
khi nhận được bổn tâm, liền tức khắc tất cả các pháp đều trở
thành những phẩm vật trang nghiêm. Có nghĩa là, khi một người
nhận ra bổn tâm của chính mình, tức khắc tất cả pháp đều trở
thành thị giả cho vị ấy. Bởi vì "Tất cả pháp đều từ tâm sanh".
Mê thì tất cả toàn mê, mà khi giác thì "Nhất thiết pháp giai thị
Phật pháp", tất cả pháp đều là pháp Phật, cõi Ta-bà liền tức
khắc trở thành Tịnh độ.
-
"Trời Người hỏi Phật : là nhân gì?
-
Phật bảo : Địa Tạng Bồ tát đến".
-
Khi thấy ứng hiện những điềm lành, trời người trong chúng hội đã
hỏi Phật, đó là do nhân duyên gì ? Phật trả lời, Bồ tát Địa Tạng
đến. Nếu hiểu theo sự, chúng ta tưởng có một vị Bồ tát Địa Tạng,
tay cầm tích trượng và ngọc minh châu đi đến. Nhưng nếu theo lý,
phải hiểu rằng, Bổn tôn Địa Tạng xuất hiện nguyên hình, cái
nguyên hình mà từ vô thủy đến vô chung chúng ta đều có mà lại
quên đi. Đó là cái tâm thanh tịnh, cái tâm giác ngộ ứng hiện ra
bên ngoài thành cái thấy, nghe, hay, biết của chúng ta. Nếu nhìn
các pháp mà chúng ta không có một chút vọng tưởng điên đảo nào
hết, thì Bồ tát Địa Tạng hiện tiền, các pháp đều trở thành vi
diệu. Nếu nói theo tinh thần kinh Pháp Hoa, là khai thị cho
chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật; còn theo kinh Địa Tạng, đó là
khai thị cho chúng sanh nhận ra cái Bổn tôn Địa Tạng của chính
mình. Đây là mục đích duy nhất của chư Phật khi ra đời. Nếu hiểu
được nghĩa lý thâm sâu của sự kiện Bồ tát Địa Tạng xuất hiện,
chúng ta sẽ sáng tỏ được hai câu kế tiếp :
-
"Ba đời Như Lai đều kính ngưỡng,
-
Mười phương Bồ tát trọn quy y"
-
Hiểu theo sự, chúng ta sẽ thấy vô lý. Phật làm sao kính ngưỡng
Bồ tát là vị có trình độ giác ngộ, trình độ tâm linh kém hơn ?
Cho nên, chúng ta phải hiểu theo nghĩa lý thâm sâu của nó. Kinh
Bát nhã đã nói : Bát Nhã là mẹ chư Phật mười phương ba đời. Bát
nhã là chánh nhơn tu hành của Bồ tát, là nguồn cội của tất cả
mọi sinh linh hữu tình. Nếu hiểu Bát nhã như vậy, mới hiểu được
vì sao Địa Tạng lại được ba đời Như Lai kính ngưỡng. Bồ tát Địa
Tạng ở đây là bản tâm của chính mình, mà bản tâm thì ở chư Phật,
Bồ tát đều bình đẳng như nhau. Phật ố Phật đồng đẳng ở bản tâm.
Phật ngộ là ngộ tâm, chứng là chứng tâm. Đã ngộ tâm chứng tâm,
thì chư Phật kính ngưỡng bản tâm là điều hợp lý.
-
"Nay con đầy đủ nhân duyên lành
-
Tán dương công đức chân thật của Địa Tạng".
-
Tán dương mà hiểu được Địa Tạng là bản tâm thanh tịnh của chính
mình, thì mới là tán dương chân thật, mới gọi là đầy đủ nhân
duyên lành.
-
"Ngài là hiện thân của Từ bi, của mọi điều lành,
-
Ngài thệ cứu độ tất cả chúng sanh"
-
Từ
bi có ở ngoài tâm không ? ố Từ bi là ở nơi tâm, là dụng của tâm,
nên nói Ngài là hiện thân của từ bi. Làm tất cả mọi điều lành,
tạo bao nhiêu công đức cũng không ngoài tâm để tạo, nên nói Ngài
là hiện thân của mọi điều lành. Và theo lời nguyện của Ngài :
"Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương
chứng Bồ đề". Khi độ sạch hết chúng sanh tâm vào vô dư Niết bàn,
theo tinh thần kinh Kim Cang, thì mới triệt chứng Bồ đề. Nếu còn
một chúng sanh tâm, nghĩa là địa ngục chưa hoàn toàn trống, thì
chưa thành Phật được.
-
Bây giờ nói đến biểu tướng của Ngài Địa Tạng :
-
"Tích trượng cầm trong tay mở toang cửa địa ngục,
-
Trên tay có hạt minh châu lóng lánh ánh sáng soi khắp đại thiên
thế giới". Đây là một hình ảnh lung linh huyền diệu nữa. Chúng
ta thấy, tích trượng của Ngài có bốn cái vòng, đó là tượng trưng
cho Tứ đế, có mười hai khuy, tượng trưng mười hai nhân duyên.
Ngài cầm tích trượng trong tay có nghĩa quán triệt được Tứ đế và
Thập nhị nhân duyên. Tích trượng cũng tượng trưng ý chí kiên
cường, khi có đủ ý chí đại hùng đại lực, mới mở toang được cánh
cửa địa ngục tham, sân, si của tự tâm. Hạt minh châu lóng lánh
tức hòn ngọc như ý, tượng trưng bản tâm thanh tịnh, có ánh sáng
soi khắp đại thiên thế giới, nghĩa là tính thường chiếu của tâm,
soi sáng cùng khắp. Do đó khi tỏ được lý Tứ đế và Thập nhị nhân
duyên, rồi nhận ra bản tâm thanh tịnh, thì đủ sức phá tan địa
ngục tham, sân, si trong tự tâm, đạt đến cứu cánh giải thoát.
-
"Ngài chính là Diêm Vương trên điện".
-
Diêm Vương là vị vua xử tội chúng sanh ở âm phủ, tại sao Bồ tát
Địa Tạng lại là Diêm Vương ? Nếu ai làm việc phạm pháp hay tạo
tội ác, dù đôi khi giấu được mọi người, trốn tránh được pháp
luật, nhưng không thể giấu được tòa án lương tâm của mình. Như
vậy, chính lương tâm, lương tri, tức Bồ tát Địa Tạng, là Diêm
Vương xử tội cho chính mình. Mình vừa khởi một niệm ác, niệm ấy
liền in vào A-lại-da thức, thành nghiệp ác.
-
"Ngài chính là gương nghiệp trước đài"
-
Nghiệp giống như gương soi, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán.
Khi bản tâm thanh tịnh, các pháp hiển bày thể tánh, khi còn vô
minh, nghiệp in vào A-lại-da thức như vật hiện trong gương, lưu
ảnh trước đài. Như vậy, tạo tội là do mình, tạo phước cũng do
mình, chúng ta từ đây trở đi có dám tạo tội nữa không? Bởi chính
mình vừa là gương nghiệp, vừa là Diêm Vương, thì trốn đâu cho
khỏi ? Sự tu hành rất là sòng phẳng, có phải vậy không ?
-
"Vì chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Đề
-
Bậc giáo chủ chứng minh mọi công đức"
-
Tự
tâm của mình sẽ chứng minh mọi công đức cho mình. Chúng ta thấy,
chính tâm là nguồn cội của mọi công đức, mà cũng là gốc rễ của
tội lỗi; chính tâm là căn bản của giải thoát sinh tử, mà cũng là
gốc của luân hồi. "Công vi thủ, tội vi khôi" là như thế.
-
"Nay thành tâm kính lễ
-
Đại bi, Đại nguyện, Đại thánh, Đại từ
-
Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát".
-
Xin được nhắc lại, Bồ tát Địa Tạng nếu nói về lý, là một nhân
vật tượng trưng, ngầm chỉ cái cực tôn quý sẵn có nơi mỗi chúng
ta. Cho nên, khi đến chùa đảnh lễ Bồ tát Địa Tạng, nên nhớ đến
Địa Tạng tự tánh của chính mình. Chỉ có Địa Tạng này mới đủ năng
lực phá đổ tường thành vô minh và cứu vớt mình khỏi địa ngục
tham, sân, si tối tăm. Cái gọi là thiên đường không có ở ngoài
tâm, địa ngục cũng không ngoài tâm mà có. Tâm như người thợ vẽ,
tạo hoàn cảnh chánh báo và y báo của mỗi chúng sanh, tạo nên tất
cả sự vật trên thế gian, tạo cả sáu đường ba cõi. Cho nên, người
ngộ được tâm và sống viên mãn với tâm, người đó được gọi là
Phật. Phật là giác, nghĩa là giác cái tâm sẵn đủ ở mình, chúng
sanh si mê nên thọ khổ, cũng là thọ khổ nơi tự tâm; Bồ tát Địa
Tạng cứu độ chúng sanh cũng phải là chúng sanh tâm. Đức Phật
thuyết kinh lúc nào cũng có sự và lý, sự dùng những hình ảnh để
làm phương tiện, lý nhằm hiển bày cái chân lý cứu cánh kia. Có
nhiều người đọc kinh điển Đại thừa, lại chấp vào sự mà không
hiểu lý, nên dễ rơi vào "mê tín Đại thừa". Vì vậy, chúng ta phải
khéo tư duy, khéo thâm nhập, mới thấy cái thú vị của kinh. Nếu
không, sẽ thấy kinh có vẻ lạc lõng, không phù hợp với thời đại
khoa học hiện giờ. Thực ra, cảnh giới của một người đã giác ngộ
rất khác với người thường: tất cả sự vật tầm thường đều đứng lên
diễn bày Phật pháp, như kinh Di Đà đã nói, tiếng suối reo, tiếng
chim hót đều là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tất cả pháp
luôn luôn mời gọi, nhưng vì chúng ta không lắng tâm lại để nghe,
mải chạy theo những vọng tưởng lăng xăng điên đảo, nên không
biết rằng tất cả tiếng đều là tiếng Phật. Trên mặt đất hiện thực
của cuộc đời này, nếu tâm ta thanh tịnh, ta sẽ thấy nơi nào cũng
có bảy báu, nước nào cũng là nước tám công đức, ở đâu cũng là
cõi Cực lạc.
-
Tất cả pháp đều hướng từ nơi tâm, tất cả cảnh giới đều do tâm
lượng mà biến hiện. Ví dụ, chỉ là một dòng sông, nhưng đối với
loài người thì đó là nước để sử dụng; đối với loài cá, là thế
giới cho chúng bơi lội sinh sống, là không khí cho chúng thở;
đối với loài ngạ quỷ, lại thấy đó toàn là máu; còn đối với chư
Thiên, thì do phước nghiệp nên các vị thấy là lưu ly pha lê
trong suốt. Như vậy, dòng sông đã lên tiếng tùy tâm lượng của
mỗi chúng sanh. Cho nên, cõi Tịnh độ hay thế giới Ta-bà cũng ở
tại đây, thiên đường hay địa ngục cũng tại đây hết.
-
Trong sự học Phật, nếu hiểu được kinh điển theo tinh thần lý sự
viên dung như thế, ta sẽ cảm thấy rất tự tin, không sống theo sự
mong cầu và ỷ lại vào tha lực. Tự nhiên sẽ hợp với lý nhân quả,
với lời Phật dạy "Tự thắp đuốc lên mà đi". Không ai có thể ăn
uống giùm, sống giùm cho ai. Nếu tự do tạo nghiệp ác rồi cầu
nguyện Bồ tát Địa Tạng, tin rằng Bồ tát có thể cứu mình, thì ý
nghĩ đó hết sức sai lầm và tai hại, đó hoàn toàn không có chánh
kiến và chánh tín.
-
Ở
đây, chúng ta cũng cần nhận định cho rõ, địa ngục không phải
hoàn toàn không có. Địa ngục là địa ngục tự tâm, nhưng đó cũng
là cảnh giới do nghiệp cảm đồng phận của chúng sanh. Nghiệp ác
giống nhau sẽ chiêu cảm một cảnh giới như nhau. Ví dụ, Phật ố Bồ
tát thấy cõi người là cảnh huyễn mộng, không thật; nhưng chúng
ta vẫn thấy đây là thật, do nghiệp người của tất cả chúng ta,
chưa giải thoát được sinh tử. Tương tự, cảnh giới địa ngục không
có thật đối với các bậc giác ngộ, nhưng vẫn là thật đối với
những chúng sanh tạo tội. Ở thế gian cũng thế, những người cùng
một nghiệp thường có khuynh hướng cùng tụ tập với nhau ở một môi
trường, một cảnh quan tương ứng : kẻ trộm cướp vào tù, những
người ham tu cùng nhau đến chùa tụng kinh, nghe pháp.
-
Tóm lại, địa ngục nghĩa là tham, sân, si phiền não của chúng
sanh. Địa ngục cũng chính là cảnh giới của ba nghiệp ác, từ
thân, khẩu, ý phát sinh ra. Địa ngục là sự tối tăm ám chướng, là
sự mê muội trong tâm thức của mỗi người. Đó chính là địa ngục tự
tâm. Phật nói kinh Địa Tạng là cốt cảnh tỉnh tất cả chúng ta dẹp
bỏ tham, sân, si nơi tự tâm, tu tập ba nghiệp lành nơi tự tâm,
rồi dứt nghiệp cũng nơi tự tâm và giải trừ vô minh tăm tối cũng
nơi tự tâm. Cuối cùng trở về với tự tánh Bổn tôn Địa Tạng của
chính mình. Đó là cương lĩnh của toàn bộ kinh Địa Tạng.
-
Về
phần chính văn trong bản kinh, đề nghị chúng ta đọc kỹ và hiểu
theo nghĩa lý sâu mầu của kinh. Rồi sẽ thấy kinh nói chuyện với
mình nhiều điều hết sức mới mẻ, mầu nhiệm. Khi hiểu rõ ý kinh,
sự trì tụng mới có đầy đủ ý nghĩa, đời tu của chúng ta mới đúng
theo quỹ đạo tu hành; nếu không, chúng ta có thể rơi vào đường
tà, vào mê tín, thì uổng một đời làm đệ tử của Phật. Chúng ta là
đệ tử Phật, tắm mình trong ánh hào quang của Phật, hào quang ấy
là trí tuệ Phật tâm sẵn đủ của chính mình. Chúng ta phải nương
hào quang ấy, khai phát ra, để trí huệ ngày càng sáng suốt,
tham, sân, si ngày càng thưa mỏng, nghiệp chướng ngày càng tiêu
trừ, những vọng tưởng điên đảo ngày càng giảm thiểu. Lúc ấy, Bồ
tát Địa Tạng sẽ xuất hiện, cửa địa ngục tham, sân, si sẽ bị phá
đổ. Mong rằng tất cả những người hữu duyên đều được lợi ích, và
hãy y cứ vào đó tu hành, từ đây cho đến ngày viên mãn.
- --o0o--
|
|