|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
-

-
LỄ ĐÔL-TA
-
Lễ Vu Lan Báo Hiếu
-
Của Người Khmer Ở Nam Bộ
-
Phala Suvanna - Danh Sol
-
---o0o---
-
-
Cũng như các dân tộc khác, người Khmer ở Nam bộ có cách thức làm
lễ báo hiếu riêng của mình và lễ đó được gọi là Đôl-Ta (lễ ông
bà). Lễ Đôl-Ta được tiến hành trong vòng 16 ngày kể từ ngày 16
đến ngày 30 tháng Bhaddapada (Phăt tăk bot, tương đương tháng 8
âm lịch). Từ ngày vào lễ (gọi là mùa lễ báo hiếu) 16 đến ngày 2
tháng Bhaddapada ấy, dân chúng thường đem nếp, gạo, vật thực,
trái cây... đến dâng cho chùa, song mỗi buổi sáng dân chúng lại
đến chùa để bưng cơm nếp, vật thực, hoa quả... đi nhiễu ba vòng
và bỏ cơm, vật thực ấy vào trên sàn những túp lều nhỏ được dựng
lên 8 hướng chung quanh điện Phật. Họ nhiễu Phật, rải cơm nếp
như vậy chỉ vào lúc trời chưa sáng lắm vì họ cho rằng nếu để tới
sáng thì tất cả thân ma quỷ, miệng ma quỷ thuộc thân bằng của họ
sẽ biến nhỏ đi bởi mãnh lực ánh sáng hoặc mãnh lực sợ hãi bởi sự
thấy biết của con người trên dương gian này. Buổi tối dân chúng
đến chùa thỉnh mời chư tăng tụng kinh chúc lành, cầu an, nghe
thuyết pháp giảng đạo... Để rồi công đức do tụng kinh nghe pháp
ấy hồi hướng cho người đã quá cố. Đến ngày 30 tháng Bhaddapada
là ngày cuối của mùa báo hiếu, hầu như tất cả dân chúng người
Khmer đều tập trung tại chùa, người bưng mâm cơm, người khay
bánh kẹo... để dâng cúng chư tăng, nhờ chư tăng tụng kinh hồi
hướng và chương trình buổi lễ hồi hướng Ph-Chum Benh hoàn mãn.
-
Ph-chum Benh là một tên gọi của lễ Đôl-Ta thường được ghi trong
sách vở. Ph-chum Benh nghĩa là lễ tụ hội phước đức, vì người
Khmer xem lễ này là lễ lớn nhất trong các lễ lộc tạo phước đức.
Từ "lễ" trong tiếng Khmer là "Pinda" hoặc "Punya" (nhân, tăng
thêm... hay Punna) nghĩa là công đức, phúc đức.... Người Khmer
làm bất cứ một lễ gì hầu như để tạo phước đức.
-
Truyền thống lễ Đôl-Ta của người Khmer ở
Nam
bộ đã có từ thời xa xưa nào không rõ lắm về nguồn gốc của nó,
tất nhiên nó đã có trước khi đạo Phật truyền vào xã hội người
Khmer. Nhưng đến khi đạo Phật truyền vào thì truyền thống lễ
Đôl-Ta vẫn được duy trì và phát triển lên theo tư tưởng truyền
thống đạo Phật tốt đẹp hơn. Những truyền thuyết về nguồn gốc của
lễ Đôl-Ta có nói đến như sau :
-
-
Người Khmer ở Nam bộ thường làm nghề nông, trồng lúa nước. Nghề
trồng lúa nước bắt đầu khoảng tháng 4 Âl là gieo mạ, tháng 6-7
đầu tháng 8 là nhổ mạ cấy lúa. Đến đây mùa cấy đã sắp xong và
mùa này cũng là mùa mưa, nước lũ lại đến. Sau mùa mưa rảnh rỗi,
những người nam nữ con cháu thường hay chống xuồng chèo ghe tìm
đến để thăm hỏi ông bà cha mẹ già yếu cộng thêm giữa mùa thiếu
hụt và mùa mưa lũ lụt này, có người phải chống xuồng chèo ghe đi
xa mới tới được nơi ở của ông bà cha mẹ, nên phải mang theo cơm
khô, gạo, trái cây, vật thực... để vừa dâng biếu cho ông bà cha
mẹ vừa là cho mình ăn theo dọc đường đi. Có người thì tìm gặp
được ông bà cha mẹ, người thì không gặp vì qua mùa nước lũ lụt,
tuổi già sức yếu, đã qua đời mà con cháu lo làm lụng không luôn
đến thăm hỏi nên không hay biết... Dần dần những người cùng đi,
họ hẹn hò gặp nhau ở một chỗ nào đó để làm lễ nhớ ơn chẳng hạn,
hoặc cùng chia buồn với bạn bè là người tìm không gặp ông bà cha
mẹ... Sau khi có chùa chiền Phật giáo thì họ hẹn hò nhau tụ hội
về chùa. Vậy là họ đã qui định với nhau rằng làm lễ Đôl-Ta từ
ngày 16 cho đến 30 tháng Bhaddapada. Tại sao họ kéo dài thời
gian thời gian lễ như vậy ? Vì rằng có người thì ở rất xa tận
trong rừng rú, nông thôn hẻo lánh và phương tiện đi qua lại
không có đầy đủ như chúng ta ngày nay. Vì vậy, họ phải kéo dài
thời gian làm lễ để cho mọi người Khmer ở Nam bộ có chỗ làm 15
ngày, chỗ làm 7 ngày hoặc 3 ngày và có chỗ chỉ làm 1 ngày đêm
thôi vì điều kiện phương tiện...
-
-
Truyền thống lễ Đôl-Ta bắt nguồn từ đạo Phật có câu chuyện đại
loại như vầy :
-
Trong thời Đức Phật còn tại thế, một hôm vào lúc đêm khuya,
trong hoàng cung của vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la) có tiếng than
khóc đói khát. Nhà vua sợ hãi và truyền lệnh cho cận thần mời
các nhà bói toán xem nguyên do. Những nhà bói toán thưa rằng :
"Đây là các ma quỉ chết oan, chết ức, không cha mẹ, không nhà
cửa anh em, nay họ đến xin ăn uống. Nếu Hoàng Thượng không lo
cúng tế e sợ có chuyện bắt 100 người nam, 100 người nữ và 100
con vật để làm lễ cúng tế. Nghe tin đó, bà hoàng hậu can gián :
"Nếu Hoàng Thượng làm như vậy, 200 người này bị chết oan ức,
những người thân của họ càng phẫn uất, vậy nó sẽ càng có hại cho
mình và vương quốc. Đức Phật là vị thông suốt cả chư thiên và
nhân loại, vậy mình đem việc này bạch với Đức Phật xem Ngài có
những dạy bảo gì ?". Sau khi nghe bà hoàng hậu có ý kiến như
vậy, vua đến chùa bạch thưa với Đức Phật, và sau khi nghe xong,
Đức Phật dạy rằng : "Đây là ma quỉ thuộc dòng tộc, thuộc những
người liên hệ đến nhà vua khi còn ở dương gian nhiều đời nhiều
kiếp trước, nay ở dưới âm phủ cực khổ thiếu ăn, thiếu mặc đến
cầu khẩn xin ăn uống nơi nhà vua. Nhưng ma quỉ chúng ta không
thể cho vật thực, đồ ăn trực tiếp được, mà phải dâng cúng vật
thực đồ ăn đến các vị có giới đức rồi nhờ các vị có giới đức ấy
tụng kinh hồi hướng thì các ma quỉ thuộc ân nhân đã quá cố mới
thọ hưởng được do phép hồi hướng đó". Ma quỉ được hưởng đầy đủ
vật thực nên đêm thứ nhất không có nghe tiếng rên khóc. Qua đêm
thứ hai nhà vua lại nghe tiếng rên khóc tiếp. Sáng sớm hôm sau,
nhà vua đến chùa chỗ Đức Phật ngự, bạch với Đức Phật. Đức Phật
dạy tiếp rằng : "Đêm trước ma quỉ được ăn no đầy đủ nên không
rên la. Đêm sau lại rên la tiếp là vì chỉ ăn uống đầy đủ mà chưa
có đồ mặc nên lại rên la tiếp vì bị rét lạnh". Nhà vua nghe
xong, về cho người chuẩn bị y áo cùng vật thực làm lễ dâng cúng
đến chư tăng và nhờ chư tăng hồi hướng tiếp. Nhà vua không còn
nghe tiếng rên than của ma quỉ nữa. Từ đó về sau mỗi năm cứ đến
mùa là nhà vua lại cho thỉnh mời chư tăng đến để làm lễ hồi
hướng cho ma quỉ và những người đã quá cố. Và cứ tiếp tục như
vậy, người Khmer cũng làm theo truyền thống đó của đạo Phật,
nhưng phần nào đã trở thành lễ Đôl-Ta Khmer hóa, chứ không còn
thuần thúy như thời vua Tần-bà-sa-la nữa
- --o0o--
|
|