|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
-

-
Thông Điệp Của Kinh Vu Lan
-
---o0o---
-
Ân cha hơn núi lớn
-
Nghĩa mẹ hơn đất dày
-
Hy sinh lòng chẳng quản
-
Mà vẫn không ngui ngoai.
-
Mẹ già hơn trăm tuổi
-
Vẫn thương con tám mươi.
-
Tình thương nào ngơi nghỉ,
-
Đến hơi thở cuối đời!
-
(Ân đức thứ 10, Thích Nhật Từ trích dịch từ Kinh Báo Ân Cha
Me)
-
---o0o---
-
I- Nguồn gốc của lễ hội Vu-lan trong đạo Phật
-
II- Sơ Lược ý nghĩa của Vu Lan
-
III- Tóm tắc nội dung Kinh Vu Lan
-
IV- Các vấn đề Phật học trong Kinh Vu Lan
-
1-
Đạo hiếu thảo
-
2- Thần thông, tha lực & nghiệp báo
-
3- Oai lực ca đạo đức cộng đồng
-
4- Phẩm vật và tấm lòng
-
5- Đối tượng giáo dục của Kinh Vu Lan
-
6- Giá trị đạo đức của Kinh Vu Lan
-
V- Kết luận
-
-
I. Nguồn gốc của lễ hội Vu-lan trong đạo Phật
[^]
-
Lễ hội vu-lan-bồn viết tắt là lễ vu-lan có nguồn gốc từ Kinh
Phật nói pháp vu-lan-bồn (Phật thuyết vu-lan-bồn kinh),
của Phật giáo đại thừa. Niên đại xuất hiện của kinh này không
rõ, nhưng trễ nhất là vào thế kỷ thứ 3 sau tây lịch. Kinh này
phát triển chủ yếu tại các nước theo Phật giáo Bắc tông, truyền
thống của Trung Quốc, chẳng hạn như Nhật Bản, Việt Nam, Triều
Tiên, Đài Loan v.v… Mặc dù tính chất nguyên thủy của bài kinh
còn trong vòng nghi vấn, nhưng giá trị giáo dục đạo hiếu và đạo
đức làm người trong kinh này là điều nổi bật và không thể phủ
nhận. Đó là đường hướng truyền bá Phật pháp chung của các kinh
điển đại thừa, nhấn mạnh đến tính giáo dục và đạo đức chứa tải
trong từng bài kinh hơn là lai lịch và xuất xứ của các bài kinh
đó.
-
II. Sơ lược ý nghĩa của Vu-lan
[^]
-
Thuật ngữ vu-lan viết đủ là vu-lan-bồn là từ dịch âm của người
Trung Quốc về chữ Phạn Ullambana. Một dịch âm khác nữa là
Ô-lam-bà-na tuy tương đối gần âm với chữ Phạn hơn nhưng chữ này
lại không thông dụng trong giới Phật giáo. Ý nghĩa của chữ
vu-lan-bồn còn trong vòng tranh luận. Theo quan niệm thông
thường, ullambana được ngài Trí Húc dịch nghĩa là "giải đảo
huyền" (Vạn 35/151B), về sau được diễn dịch thành "giải đảo
huyền, cứu thống khổ." Giải là động từ có ý nghĩa là cởi trói,
hay giải phóng ai ra khỏi một cái ách nào đó. Đảo là "ngược" hay
"dốc đầu xuống đất, chân chỏng lên trời," nhằm ám chỉ cho hình
thức nghiêm khắc và đau đớn tột độ của hình phạt. Huyền là
"treo." Như vậy giải đảo huyền có nghĩa là "tháo bỏ các cực hình
treo ngược" và "cứu thống khổ" là cởi trói ách đau khổ cùng cực
của chúng sanh trong các đường dữ. Theo tinh thần của kinh
vu-lan, cái khổ nguy khốn nhất của chúng sanh là bị sanh vào
cảnh giới quỹ đói. Do đó, tháo gở cái cực hình treo ngược là
tháo gở cái ách bị đày đọa trong cảnh giới ngạ quỹ và địa ngục.
Xin lưu ý thêm rằng cách giải thích chữ "bồn" với ý nghĩa là cái
chậu, cái thau để đựng đồ cúng dường trong ngày rằm tháng 7 của
chư tăng là cách giải thích dựa vào nghĩa chữ Hán của chữ "bồn",
vốn là từ phiên âm của thành tố "bana" chứ không có trong ý
nghĩa từ nguyên của từ ullambana. Cách giải thích như vậy rõ
ràng không có cơ sở và lạc dẫn, mặc dù trong suốt mạch văn của
kinh có đề cập đến việc sử dụng cái thau chậu để dâng cúng phẩm
vật cho các vị thánh tăng.
-
III. Tóm tắt nội dung kinh Vu-lan
[^]
-
Phật thuyết Vu-lan-bồn kinh là một bản kinh ngắn kể về nguyên
nhân và phương pháp báo hiếu của tôn giả Mục-kiền-liên đối với
thân mẫu của ngài. Đại ý của kinh gồm có 3 phần chính: (1) nói
về nguyên nhân của pháp báo hiếu vu-lan, (2) phương pháp báo
hiếu nhờ vào đạo đức cộng đồng và (3) báo hiếu là trách nhiệm
chung của những người con.
-
Duyên khởi của kinh như sau. Ngài Mục-kiền-liên vận dụng 6 phép
thần thông tìm thấy mẹ bị tái sanh trong cảnh giới ngạ quỹ, đói
khát, tiều tụy. Ngài liền lấy bát đựng cơm đem hiến dâng cho mẹ.
Do vì lòng tham, bà mẹ lấy tay trái che lấy cái bát, tay phải
vội vã vốc cơm. Nhưng cơm đã biến thành lửa, nên không ăn được.
Tôn giả sầu than trở về thưa Phật để cầu cách cứu mẹ ngài.
-
Đức Phật dạy rằng chỉ nhờ vào uy lực đạo đức tu tập của chư tăng
trong ba tháng an cư mới có thể độ được mẹ ngài Mục-kiền-liên.
Ngài Mục-kiền-liên đã y theo lời Phật dạy thiết lập trai đàn,
nhờ oai đức chuyển hóa nghiệp lực của chư tăng mà mẹ ngài được
thoát khỏi cảnh ngạ quỹ, tái sanh về cõi trời.
-
Nhân dịp đó, đức Phật đã khuyên tất cả những người con nên học
theo gương hiếu hạnh của ngài Mục-kiền-liên để báo đáp công ơn
sanh thành dưỡng dục của cha mẹ hiện tại và cha mẹ bảy đời qúa
khứ.
-
IV. Các vấn đề Phật học trong kinh Vu-lan
[^]
-
1. Đạo hiếu thảo
[^]
-
Điểm nổi bật và quan trọng nhất trong kinh vu-lan là đạo hiếu
như một phương pháp tu tập. Điều cần lưu ý ở đây là đương sự báo
hiếu của kinh là ngài Mục-kiền-liên, vị đệ tử lỗi lạc với thần
thông số một đã chứng qủa A-la-hán, chứ không phải là người phàm
phu. Giá trị giáo dục của ngụ ý này rất cao: một bậc thánh nhân
còn hiếu thảo với cha mẹ như vậy thì huống hồ là người phàm phu
tục tử chúng ta mà không chịu sớm lo báo đáp. Điều đó còn nói
lên rằng đạo hiếu là nền tảng của đạo làm người và đạo thánh
nhân. Thiếu hiếu thảo, tính cách đạo đức của con người đã bị phá
vỡ và do đó không thể trở thành các bậc hiền thánh để đời ca
tụng và học hỏi theo được. Chính vì thế mà kinh Nhẫn Nhục thuộc
hệ Đại thừa đã đẳng thức hóa "hiếu" với "điều thiện tối cao"
và "bất hiếu" là điều ác nguy hại: "Điều thiện tối cao là chí
hiếu, điều ác tối cao là bất hiếu." Kinh điển đại thừa cũng còn
khẳng định: "Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật" nhằm
xác quyết rằng đạo hiếu là con đường mà tất cả các bậc thánh
hiền, các bậc giác ngộ đã đi qua.
-
Nói cách khác đạo hiếu thảo là đạo làm người và đạo làm thánh.
Đây là bước khởi đầu của mọi đạo lý trên đời. Nếu tính cách
thiêng liêng của đạo hiếu đã bị phá vở thì tính cách đạo đức của
một cá nhân cũng không thành tựu được. Nghĩa là người bất hiếu
không phải là người hiền lương và đạo đức, và do đó không phải
là con người đúng với nghĩa là một động vật tiến hóa về ý thức
và đạo đức. Bằng cách đưa vai trò của chữ hiếu lên ngang hàng
với điều thiện cao cấp, Phật giáo đại thừa đã nhấn mạnh tinh
thần luân lý đạo đức của xã hội loài người như là điều kiện tiên
quyết của sự sống nhân loại.
-
2. Thần thông, tha lực và nghiệp báo
[^]
-
Các nhà Phật học Nguyên thủy dù khó tánh cách mấy cũng phải thừa
nhận điểm mấu chốt của kinh Vu-lan là "thần thông và tha lực
không thể thắng được nghiệp lực." Kinh Vu-lan còn đề cập đến sự
kiện 4 vị thiên vương hộ đời (Trì Quốc ở phương đông, Tăng
Trưởng ở phương nam, Quảng Mục ở phương tây, Đa Văn ở phương
bắc) cũng không thể giúp mẹ tôn giả Mục-kiền-liên ra khỏi quả
báo ngạ quỹ.
-
Đây là điểm nhất quán giữa hai hệ tư tưởng Phật giáo nguyên thủy
và đại thừa: thần thông và tha lực không thể giúp chúng ta thoát
khỏi luân hồi sinh tử được. Với 6 phép thần thông biến hóa và dù
cho có được sự trợ giúp (tha lực) của bốn vị thiên vương hộ đời,
vậy mà tôn giả Mục-kiền-liên đã không thể giúp cho mẹ ngài ăn
được bát cơm, huống hồ là cứu mẹ ra khỏi cảnh khổ hành hình của
ngạ quỹ.
-
Sáu phép thần thông bao gồm thần thông biến hóa, thiên nhãn
thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông và lậu tận
thông. Loại thứ nhất bao gồm các hình thức khinh thân, bay đi
đây đó, độn thổ, xuống nước lên mây không trở ngại. Loại thứ 2
là thị giác siêu việt, vô ngại. Loại thứ ba là thính giác siêu
việt, vô ngại. Loại thứ tư là biết được tâm lý của loài người và
chúng sanh khác. Loại thứ năm là nhớ biết chính xác kiếp trước
của mình và người. Và loại thứ sáu là nhổ sạch gốc rễ phiền não.
Năm thứ đầu không cần tu tập chánh pháp của Phật cũng có được.
Riêng lậu tận thông chỉ có các bậc A-la-hán trở lên mới có thể
thành tựu được. Đây cũng là điểm cho thấy đạo Phật đã vượt trội
lên các tôn giáo khác.
-
Sự kiện sáu phép thần thông của ngài Mục-kiền-liên mà không thể
cứu được nghiệp ngạ quỹ của người mẹ cho thấy rằng nghiệp của
chúng sanh chỉ có thể được cải tạo và chuyển hóa do chính nội
tâm và hành vi thiện ích của họ. Tất cả sự hỗ trợ nếu có của
người khác cũng chỉ là những chất xúc tác để giúp họ tự chuyển
hóa nghiệp của chính họ mà thôi. Nói khác hơn, rừng tiền biển
bạc không thể mua được sự an lạc và giải thoát. Chỉ có con đường
thiền định, phát triển đạo đức tâm linh mới thật sự giúp chúng
ta thoát khỏi các đau khổ đang hoành hành. Đây là thông điệp của
kinh Vu-lan nói riêng, kinh điển Phật giáo (nhất là Nguyên thủy)
nói chung trao tặng cho chúng ta.
-
3. Oai lực của đạo đức cộng đồng
[^]
-
Cách thức mà ngài Mục-kiền-liên cứu thoát mẹ ngài khỏi cảnh quỹ
đói là nhờ vào oai đức giáo hóa qua hình thức chú nguyện của
cộng đồng tỳ-kheo thanh tịnh và có đủ giới đức. Đây là điểm quan
trọng thứ hai trong kinh vu-lan. Oai đức của cộng đồng được xem
như là biển cả bao la (chúng đức như hải), có thể giúp chúng ta
hoàn tất các Phật sự một cách mỹ mãn: ở đây là giáo hóa và cứu
độ nạn nhân trong thế giới ngạ quỹ. Nội dung của bài kinh khuyến
khích và dạy bảo chúng ta nên sống nương tựa vào đạo đức cộng
đồng trong việc tu tập và làm Phật sự. Sự tách rời tập thể theo
tính cách cá nhân, muốn biến mình thành một "vô thượng sư" là
điều không những cấm k? trong giáo lý đạo Phật mà còn là điều
không thể nào thực hiện thành công được. Đạo Phật luôn khích lệ
đời sống cộng đồng. Do đó đạo đức cộng đồng được xem là giải
pháp của mọi vấn đề đạo đức và luân lý của thời đại.
-
Kinh điển Nguyên thủy và đại thừa đều có đề cập đến 6 phương
pháp tạo nên sự hoà hợp, đoàn kết và sức mạnh trong đời sống
cộng đồng là "thân hòa cùng ở, lời hòa không tranh cải, ý hòa
cùng vui, giới đức hòa đồng tu, quan điểm hòa cùng hiểu và lợi
hòa phân chia bình đẳng." 6 phương pháp này được xem là khuông
vàng thước ngọc cho đời sống tập thể. Nó một mặt hàn gắn sự đoàn
kết không thể phân ly của các thành viên trong một tổ chức, mặt
khác tạo thành sức mạnh bất khả chiến bại. Tương tự trong công
cuộc giáo hóa chúng sanh, chúng ta cần đến một sức mạnh đạo đức
tổng hợp và mang tính cộng đồng như vậy. Chính nhờ vào đạo đức
cộng đồng của các vị thánh tăng và cao tăng nghiêm trì giới
luật, mẹ ngài Mục-kiền-liên đã được "cảm hóa" rồi đi đến "tự
chuyển hóa" và nhờ đó bà được giải thoát.
-
Cần nói rõ thêm rằng, bà được thoát cảnh ngạ quỹ không chỉ đơn
thuần do sức chú nguyện của mười phương tăng. Thật chất là do
sức oai thần đạo đức của mười phương tăng đã cảm hóa được bà,
giúp bà tự chuyển hóa các nghiệp xấu ác của ngạ quỹ, phát huy
tối đa nghiệp thiện, tái sanh về cảnh giới tốt. Đây là một quy
trình vừa tâm lý vừa đạo đức trên nền tảng nỗ lực của nội tâm.
Nói cách khác nếu bản thân mẹ của Ngài Mục-kiền-liên không tự nỗ
lực để chuyển hóa nghiệp xấu ác của chính bà thì oai đức của chư
tăng cũng vô phương cứu chữa. Đó là mấu chốt của vấn đề cứu độ
trong kinh điển đại thừa nói chung, kinh Vu-lan-bồn nói riêng.
-
4. Phẩm vật và tấm lòng
[^]
-
Một vấn đề cần lưu tâm về kinh Vu-lan là vấn đề phương pháp báo
hiếu qua việc cúng dường trai tăng trong ngày rằm tháng 7. Kinh
văn chép đó là ngày Phật hoan hỷ và chư tăng thanh tịnh sau 3
tháng chuyên ròng tu tập thiền định và phát huy giới đức. Thực
ra, không phải chỉ có ngày rằm tháng 7 đức Phật mới hoan hỷ. Đức
Phật luôn hoan hỷ trong mọi tích tắc của thời gian. Nói cách
khác nơi nào và lúc nào có những người con hiếu thảo, cung kính,
nuôi dưỡng cha mẹ đúng pháp, nơi đó có sự hoan hỷ của Phật, nơi
đó có sự sống của đạo đức. Nơi nào con cái bất hiếu ngỗ nghịch
với cha mẹ nơi đó không có sự hoan hỷ, mà chỉ có mặt của đau khổ
và bất hạnh. Sở dĩ kinh văn nói đến rằm tháng 7 là ngày Phật
hoan hỷ là nhằm nhấn mạnh vào hành vi hiếu thảo của các người
con trong ngày mang tính chất biểu tượng đạo hiếu và báo hiếu
này.
-
Kế đến vấn đề cúng dường chư tăng, kinh văn có nói "sắm đủ mọi
thứ phẩm vật tươi tốt và thượng hạng." Đây là cách mô tả mang
tính ẩn dụ văn học trong kinh điển đại thừa. Cách mô tả của kinh
văn phản ánh một quan niệm rằng người con hiếu thảo phải sẳn
lòng vì cha mẹ không tiếc tiền của để báo đáp công ơn sanh thành
của cha mẹ. Sắm các thức ăn ngon và sang trọng phải được hiểu là
cách thể hiện lòng chí thành hay chân thành của người con đối
với việc chu lo cho cha mẹ, chứ không nhất thiết là các phẩm vật
thượng hạng trong thực tế. Một khi lòng đã chân thành rồi thì số
lượng và khối lượng vật chất dùng vào việc hiếu thảo không còn
là vấn đề nữa. Nói cách khác, khi có đủ lòng chân thành thì cúng
cho tam bảo một nén hương, một bát nước, một cành hoa, một trái
cây cũng là báo hiếu cha mẹ được. Thế mới biết trong đạo Phật
chữ tâm quan trọng đến thế. Tâm là tiêu chí đánh giá thiện ác và
là cái cân để đo lường các trị số đạo đức của hành vi, trong báo
hiếu nói riêng trong cuộc sống nói chung. Đạo Phật trong ý nghĩa
này được xem là đạo dạy về tâm, huấn luyện về tâm và tu tập về
tâm.
-
5. Đối tượng giáo dục của kinh Vu-lan
[^]
-
Khi nghiên cứu kinh vu-lan có một vấn đề cần đặt ra là đối tượng
giáo dục của kinh này là ai? Ngài Mục-kiền-liên? Mẹ ngài? hay
chúng sanh nói chung? Câu trả lời ngắn gọn là thông điệp của
kinh Vu-lan dành cho tất cả loài người, những người từng là con
và do đó phải có trách nhiệm đền đáp ân nghĩa sanh thành và nuôi
nấng của cha và mẹ. Kế đến thông điệp vu-lan còn hướng đến những
chúng sanh đang bị đau khổ, do bị nghiệp bất thiện gây ra trong
đời sống hiện tại cũng như trong quá khứ.
-
Do đó việc báo hiếu không chỉ dành cho hàng đệ tử tại gia mà còn
chung cho hàng xuất gia; việc cứu độ không chỉ dành cho người
còn sống mà còn cho người quá vãng. Với tinh thần cứu sanh độ
tử, đạo Phật đã thật sự đi vào ngỏ ngách của cuộc sống. Độ người
còn sống để giúp họ sống hạnh phúc ở hiện tại và tương lai. Độ
người đã chết để giúp họ sớm thoát khỏi cảnh giới xấu xa và đau
khổ. Nếu người hành trì đạo Phật muốn biến đạo Phật thành đạo
chỉ "độ người sống" mà không có "độ người chết" thì họ đã làm
cho đạo Phật trở nên không trọn vẹn. Ngược lại, nếu biến đạo
Phật thành đạo chỉ có độ người chết mà không có độ người sống
lại càng làm cho đạo Phật không còn là đạo Phật nữa. Nói cách
khác, đạo Phật quan tâm đến nhiều phương diện của đời sống, bao
gồm sống và chết, để từ đó hướng tới con đường niết-bàn chấm dứt
vĩnh viễn quy trình tái sanh của sống và chết. Các hình thức
nghi lễ cúng kiến cho người chết mà không thuyết pháp để độ
người còn sống sẽ biến đạo Phật thành một "đạo ma chay," điều mà
đức Phật đã từng lên án khi ngài còn tại thế. Mong sao những
người con Phật ý thức được việc làm của mình, không biến đạo
Phật từ một đạo vị nhân sinh sống động thành một đạo vì người
chết.
-
Một ý khác cần nói thêm là quan niệm báo hiếu của đạo Phật khác
xa với Nho giáo. Theo Nho giáo có ba loại bất hiếu, loại bất
hiếu nặng nhất là không có sinh con cái để nối dòng" (bất hiếu
hữu tam, vô tự vi đại). Quan niệm này thực chất là một hệ quả
của chủ thuyết thế tập, cha truyền con nối trong chế độ phong
kiến quân chủ ngày xưa. Sanh con nối dòng để kế thừa sự nghiệp
của cha ông, dù cho người con đó không xứng đáng về phương diện
đạo đức và trí tuệ. Đạo Phật bất đồng với quan niệm thế tập như
vậy. Theo Phật giáo, người con xuất gia, nghĩa là tuyệt hẳn
chuyện nối dòng, nếu tu tập đoàng hoàng cũng là một trong những
cách tốt để đền đáp công ân của cha mẹ. Ở đây đạo Phật khuyến
khích tinh thần tự do dân chủ trong lựa chọn và hướng nghiệp.
Mọi người phải quyết định lấy số mạng của mình, không nương tựa
và dựa dẫm người khác, không chạy theo các thế lực chính trị
v.v… Đời sống đạo đức và thiền định là những thành trì mà người
Phật tử có thể dựa vào một cách vững chắc, bền bĩ và an toàn
nhất.
-
6. Giá trị đạo đức của kinh Vu-lan
[^]
-
Nếu kinh Vu-lan-bồn là thông điệp hiếu kính cha mẹ thì mùa
Vu-la-bồn là mùa biểu tượng của đạo hiếu trong đạo Phật. Đó là
mùa gợi chúng ta nhớ đến công ơn sanh thành dưỡng dục của cha
mẹ. Mùa Vu-lan do đó đã trở thành mùa báo hiếu. Lễ hội vu-lan là
lễ hội của hiếu thảo, thương cha kính mẹ. Hiếu thảo với cha mẹ
thì chúng ta phải biết kính trọng cha mẹ, vâng lời cha mẹ dạy,
phụng dưỡng nuôi nấng cha mẹ, sớm thăm tối viếng khi cha mẹ đau
ốm, hướng dẫn cha mẹ qui y tam bảo, trở thành người Phật tử chân
chánh, nếu cha mẹ chưa trở về với chánh pháp. Nói chung, người
Phật tử phải biết đền ơn cha mẹ hiện đời cũng như cha mẹ trong
các đời quá khứ. Đạo lý của vu-lan như vậy là đạo lý vì con
người, vì sự an lạc của tất cả chúng sinh.
-
Từ phương diện xã hội, lễ vu-lan còn là dịp tốt để người Phật tử
phát tâm cúng dường tam bảo, làm việc nhân từ, phóng sanh giúp
vật v.v… Tinh thần vu-lan dạy chúng ta ý thức độ lượng, bao
dung, hướng đến và giúp đỡ người khác trong tinh thần vô vị lợi.
Ngoài ra, vu-lan còn là cơ hội tốt cho chúng ta phát tâm bồ-đề
hướng đến các chúng sanh ngạ quỹ đang đau khổ, làm các việc công
đức để hồi hướng cho họ. Một lễ hội có nhiều giá trị đạo đức và
luân lý như vậy cần được phát huy để cho sự sống của con người
hôm nay và mai sau thật sự an lạc trong đạo lý và tình người.
-
V. Kết luận
[^]
-
Nói tóm lại, bản kinh Vu-lan là một thông điệp gồm 3 nội dung:
(1) đề cao đạo đức chữ hiếu, (2) hướng dẫn phương pháp độ sanh
qua chuyển hóa tâm thức của đối tượng và (3) khuyến khích các
hình thức tôn kính và phụng sự tam bảo trong các dịp thích hợp.
-
Đề cao đạo đức chữ hiếu để cuộc đời có nhiều người con hiếu
thảo, bớt đi tình trạng suy thoái đạo đức trong dân gian, xây
dựng một xã hội an bình và hạnh phúc. Độ sanh qua chuyển hóa tâm
thức chúng sanh là phương pháp đề cao giáo lý nghiệp và tinh
thần tự lực của từng chúng sanh trong ba cõi. Chỉ có con đường
tự chuyển hóa tâm thức chính mình, qua sự hướng đạo của tam bảo,
hành vi và lời nói của chúng ta sẽ trở nên thiện. Đây là con
đường cứu độ bản thân và tha nhân có hiệu quả nhất. Mọi hình
thức trông chờ vào tha lực của người khác chỉ là phản ánh của
một nhận thức sai lầm về lý nhân quả "ai làm lấy chịu, ai tu nấy
chứng" của đức Phật và tệ hơn nữa là một sự đổ vỡ của đời sống
hướng thượng của bản thân. Khuyến khích các hình thức tôn kính
và cúng dường tam bảo một mặt gắn liền sự sinh hoạt của người
con Phật với đạo pháp, mặt khác phản ánh thái độ tôn kính chân
lý và đạo đức của những con người đã dầy công tu tập, quảng bá
chánh pháp vì lợi ích cho số đông, vì lợi ích cho chư thiên và
loài người.
-
Với một thông điệp gồm ba nội dung như vậy, kinh Vu-lan và lễ
hội báo hiếu đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống mãi trong đạo đức
chữ hiếu và đạo lý làm người, của tất cả con người trên hành
tinh này cho dù, nguồn gốc của nó còn trong vòng tranh luận. Nói
cách khác, các giá trị đóng góp của kinh vu-lan và lễ hội vu-lan
cho đạo đức cuộc sống của nhân sinh đã lấn át hoàn toàn các
nghiên cứu có tính cách lịch sử nhưng lại không phục vụ được gì
cho cuộc sống đầy đau khổ và thương tâm của con người hôm qua,
hôm nay và mai sau. Trong bối cảnh đó, kinh vu-lan đã nghiễm
nhiên chói sáng mãi như vị cứu tinh cho đời sống đạo đức, cho
đạo lý hiếu thảo, cho tình người hôm nay và mai sau!
- --o0o--
|
|