Thiền Sư Pháp Loa & Pháp
Chỉ Thẳng
Thích Đức Thắng
---o0o---
- Thiền sư Pháp Loa dạy:
"Mọi người nếu hướng vào Đệ nhất nghĩa mà nói thì suy nghĩ là sai,
mở miệng là lầm. Vậy thì làm sao sinh Đế, làm sao sinh Quán? Nay
thử căn cứ vào đầu Đệ nhị mà nói thì cũng chẳng được sao?"
- Nói về pháp dạy người,
thật sự đối với cá Thiền sư, xưa nay các ngài không có bất cứ một
pháp nào, khả dĩ làm tiêu chuẩn để trao cho mọi người cả. Bỡi vì
pháp dạy người đó, luôn luôn tùy thuộc vào căn bệnh của người đối
thoại mà các ngài cho thuốc. Như Tăng Chí thành hỏi Lục tổ Huệ
năng về pháp dạy người, Tổ dạy:
- "Nếu bảo rằng ta có pháp để trao
cho người, thì ta nói dối với nhà ngươi. Ở đây, chỉ tùy thuộc vào
chỗ bị trói mà cởi mở, tạm gọi là Tam muội."
- Như vậy, rõ ràng ở đây
các ngài chỉ làm một công việc là cho thuốc hay mở trói mà thôi.
Đây là phương pháp đối trị bệnh chấp ngã, chấp pháp do vọng tâm
điên đảo, phân biệt sinh ra, và tùy theo căn nghiệp của mỗi chúng
sanh mà các ngài cho pháp mở trói.
- Ngoài phương pháp này
ra, các Thiền sư cũng thường sử dụng phương pháp chỉ thẳng. Đây là
cốt tủy của Thiền tông trong: "Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh
thành Phật." Cả hai phương pháp này đều nhằm vào đầu Đệ nhị mà
sử dụng, vì trong cuộc sống của chúng ta, từ lời nói, cử chỉ, hành
động, mọi thi vi động tác đều phát xuất từ tự tâm của mọi người.
Do đó trong cuộc sống của chúng ta, các ngài y cứ vào sự thể hiện
bên ngoài mà mở trói, mà chỉ thẳng. Cũng trong chiều hướng này,
Thiền sư Pháp Loa tuy biết rằng đối với Đệ nhất nghĩa đế suy nghĩ
là sai, mở miệng là lầm; nhưng ngài vẫn đặt ra và tìm hướng giải
quyết theo chỗ thấy của ngài. Thật sự việc này đối với những gười
chưa ngộ đạo như chúng ta, thì khi khởi tâm suy nghĩ để mở miệng,
hay bất cứ thi vi động tác nào đi chăng nữa, thì việc làm đó đều
sai lầm. Đối với cảnh giới thực chứng của người đạt đạo; vì cảnh
giới này không lệ thuộc vào suy nghĩ, ngôn thuyết của thế giới
phân biệt chấp trước, thuộc vào hệ thống nhân qủa đối đãi nhị
nguyên của chúng ta. Thế giới thực chứng này, không tùy thuộc vào
hệ thống nhân qủa, mà chúng chỉ được nhận biết nếu được, qua hệ
thống duyên khởi mà thôi, vì tất cả mọi thi vi động tác ở đây đều
biểu thị chi trí vô phân biệt. Do đó đối với thế giới thực chứng
của người ngộ đạo, chúng ta không thể dùng luật tắc nhân qủa mà
đánh giá được. Gần đây chúng tôi nhận thấy có một số người có tham
vọng muốn dùng ngôn ngữ phân biệt tri thức, để khám phá thế giới
thực chứng của Thánh trí, đây là một việc làm sai lầm tai hại. Sai
lầm vì những kiến giải của chúng ta, những người chưa đạt đạo khác
nào kiến giải của bọn mù!? Ở đây, người chưa đạt đạo khi diễn tả
thế giới thực chứng của các bậc Thánh trí, cũng giống như người mù
từ lòng mẹ khi diễn tả thế giới quanh họ mà thôi, vì họ chỉ nghe
nói mà tưởng tượng theo cái tư duy trừu tượng để rồi thủ đắc chứ
không phải chính mắt họ nhìn thấy.
- Thế giới thực chứng
của Thánh trí là thế giới vô phân biệt, chỉ có người chứng ngộ mới
diễn tả được. Cũng bằng vào ngôn ngữ, cử chỉ, hành động như chúng
ta, nhưng ở đây ngôn ngữ, và động tác của các ngài không bị lệ
thuộc vào giá trị nhân qủa, chúng vượt thoát không bị trói buộc
vào bất cứ điều kiện nào của giá trị đối đãi nhân quả nhị nguyên.
Do đó, mọi đánh giá của chúng ta đều sai lầm, chỉ có những vị đạt
đạo mới có thẩm quyền nói về thế giới mà các ngài đã thân chứng.
Từ những đòi hỏi mà khả dĩ nhờ đó các ngài có thể dùng ngôn ngữ
của Thế đế để nói về thế giới thân chứng của Thánh trí mà không
mắc phải những sai lầm như chúng ta. Ngược lại mọi sinh hoạt trong
cuộc sống bị chi phối bỡi luật tắc nhân quả đối đãi của chúng ta,
theo các ngài chúng đều bị trói buộc ngăn cách, chướng ngại. Cho
dù, ngay những quan niệm thuộc về Chân-thiện, hay bất cứ bất cứ
quan niệm gì gì đi nữa chúng vẫn mang tính sai lầm. Vì vậy, tất cả
mọi hành động, cử chỉ, lời nói gì gì của chúng ta đều bị các ngài
khám phá ra tất cả, các ngài biết chúng ta đang bị kẹt ở chỗ nào,
và không bị kẹt ở chỗ nào trong cuộc sống, theo đó các ngài mở
trói hay cho thuốc đối trị.
- Như chúng ta biết, tất
cả mọi biểu tượng trong cuộc sống, qua cử chỉ, hành động của chúng
ta, đều phát xuất từ tự tâm, như chính đức Phật đã dạy trong kinh
Hoa Nghiêm: "Nhất thiết duy tâm tạo," thì trong cuộc sống chúng
ta, chúng được thể hiện qua hai biểu thị Vọng và Chân. Như thường
thường thì chúng ta chỉ nhận biết cái vọng qua pháp phủ định của
các ngài, để từ đó chúng ta nhận thấy cái sai lầm, chứ chưa hề
nhận thấy cái chân được thể hiện hằng ngày, và ở đây pháp chỉ
thẳng nhằm vào chúng.
- Ngoài phương pháp phủ
định các Vọng ra, các Thiền sư cũng thường sử dụng pháp chỉ thẳng,
và cũng theo đó Thiền sư Pháp Loa dạy:
- "Đại đạo rỗng
suốt nào có buộc, nào có ràng, bản tánh lặng trong không thiện
không ác. Bỡi do lựa chọn cho nên sinh ra tắt ngang lắm nẻo; chỉ
cần quáng mắt, cũng thành cách xa trời đất. Thánh phàm vốn cùng
chung một lối, phải quấy nào phải hai đường. Cho nên biết rằng tội
phước vốn không; cứu cánh nhân qủa chẳng thật. Mọi người đầy đủ,
kẻ kẻ trọn thành. Phật tánh với thân như hình với bóng, tùy ẩn tùy
hiện, chẳng tức chẳng ly. Lỗ mũi thẳng xuống, chân mày nằm ngang
mặt ở phía trên mắt, nhưng không dễ gì nhìn thấy. Cần phải truy
tầm, chẳng thấy nói sao: "Ba ngàn pháp môn cùng về vuông tấc, hà
sa diệu dụng thảy tại nguồn tâm."Nên bảo ba cửa Giới-định-tuệ các
ông không thiếu, cần phải quán nơi chính mình. Phàm những tiếng
ho, tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm chân đi, đó là
tánh gì? Khi biết được tánh này rồi thì đó là tâm gì? Tâm tánh đều
rỗng sáng. Vậy cái nào phải, cái nào chẳng phải?"
- Qua những lời dạy này,
Thiền sư Pháp Loa đã nói lên được hai mặt một thực tại, mà trong
cuộc sống chúng ta luôn luôn thể hiện, qua cử chỉ, hành động cùng
lời nói, chỗ nào bị vướng và chỗ nào không bị vướng. Ở đây, rõ
ràng Thiền sư Pháp Loa dùng lý Duyên khởi làm phương pháp phủ định
luật nhân qủa nhị nguyên như: Đúng-sai, thiện-ác, phàm-thánh,
tội-phúc v.v… do vọng tâm phân biệt đẻ ra, và chúng ta chấp nhận
nó như là một cứu cánh cho tư duy hành động, mà chúng ta không
biết rằng, những việc làm này là sai lầm; nên luôn luôn bị chúng
lôi kéo chạy theo, để rồi một ngày nào đó tự mình bỏ quên chính
mình, chính trong cuộc sống qua tiếng ho, tiếng tằng hắng, hay
trong những động tác nhướng mày, chớp mắt, tay cầm, chân đi, đó là
tánh gì? Khi đã biết được tánh này rồi, thì đó là tâm gì? Tâm tánh
đều rỗng sáng. Vậy cái nào phải, cái nào chẳng phải? Đây chính là
phần ngài Pháp Loa chỉ thẳng cho chúng ta. Vậy thì chúng ta đã
nhận ra cái Bản lai diện mục của ta chưa?
- Vì sao ở đây ngài Pháp
Loa, chỉ những động tác hằng ngày mà chúng ta coi thường không bao
giờ để ý đến nó, bảo chúng ta phải tư duy nó? Phải nhìn thấy nó,
phải biết nó là gì? Ở đây, nếu chúng ta nhận ra những động tác
như: tiếng ho, tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm chân
đi v.v… cho là Chân tâm, là Bản lai diện mục, thì cái thấy này sẽ
làm mù mắt chúng ta, vì tiếng ho, tiếng tằng hắng, nhướng mày,
chớp mắt, tay nắm chân đi, không phải là chân tâm, không phải là
diện mục. Cái được gọi là chân tâm, là bản lai diện mục nó chỉ thể
hiện bên trong, hay ở đàng sau tiếng ho tằng hắng, nhướng mày chớp
mắt, tay nắm chân đi v.v… vậy thì cái thể hiện qua các động tác
đó, vì sao gọi là Chân tâm, là Bản lai diện mục? Chúng ta hãy tự
tìm hiểu, tự tư duy nơi sự thể hiện của chúng. Ngược lại, nếu
chúng ta bảo nó không phải là chân tâm, không phải là bản lai diện
mục, thì cũng không được. Vì sao? Vì tất cả những thi vi động tác
nơi chúng ta thể hiện ra bên ngoài không ngoài tự tâm. Đây là hai
vấn đề mà ngài Pháp Loa muốn đánh thức cái tâm chân thật nơi chúng
ta, và phải nhìn như thật chính nó. Nghĩa là cái được thể hiện
trong những động tác đó không khác với cái thấy nơi chúng ta.
Chúng không phải hai cũng không phải khác, vì chúng luôn luôn tự
thể hiện bình đẳng vô phân biệt không có sự ngăn cách, chướng ngại
nào. Đó chính là pháp chỉ thẳng của ngài Pháp Loa trong pháp dạy
người của ngài đối với chúng ta. Và đây chúng ta tiếp tục nghe
Thiền sư Pháp Loa dạy:
- Một hôm sư nghe
đồ chúng tụng kinh, bè hỏi chúng đang làm gì?"
- - Có vị Tăng thưa:
- - Chùng niệm Phật tâm.
Nếu nói là tâm thì tâm không Phật, nếu bảo là Phật thì Phật không
tâm. --
- - Vậy cái nào
gọi là tâm?
- Sư bảo:
- - Vị Tăng không đáp
được; sư lại hỏi một vị Tăng khác nữa:
- - Chúng đang làm gì?
- Tăng thưa:
- - Niệm Phật
- Sư bảo:
- - Phật vốn không tâm
thì niệm cái gì?
- Tăng thưa:
- - Chẳng biết."
- Sư bảo:
- - Ngươi đã chẳng biết,
vậy Ai nói đó?
- Tăng không đáp được,
-
- Qua công án này Thiền
sư Pháp Loa đã dùng phương pháp Duyên khởi phủ định, để bít hết
mọi con đưòng nhân quả có thể có, theo lối kiến giải tri thức nhị
nguyên phân biệt của người đối thoại mà đả thông cho họ; nhưng căn
cơ của họ chưa lãnh hội được lý duyên khởi, nên chỉ có cách là chỉ
thẳng. Đây là cú đòn tối hậu đề lay chuyển, đánh thức cơ mê, và
chỉ cho gút trói mà tự mở vào. Nhưng than ôi! Thế là công dã
tràng, người đối thoại vẫn còn ngủ mê.
- Một hôm Huyền quang đứng hầu lúc
sư bị bệnh, trong lúc sư đang ngủ Huyền quang nghe sư hỏi: Hồng,
hồng… Huyền quang liền thưa:
- - Tôn giả mớ
chăng?
- Sư đáp:
- - Ngủ thì nói mớ còn
không ngủ thì chẳng nói mớ!
- Huyền quang thưa:
- - Không thể ngủ
với thức là một được?
- Sư bảo:
- - Ngủ với thức
là một.
- Huyền quang
thưa:
- - Không thể
bệnh cùng chẳng bệnh là một được.
- Sư bảo:
- - Bệnh có can
hệ gì đến Y, không bệnh cũng chẳng can hệ gì đến Y
- Cũng như trong
công án trên thiền sư Pháp-Loa trong pháp dạy người, cùng lúc đã
xử-dụng hai cách để đánh thức đệ-tử mình, nhưng người đệ-tử chưa
đủ lanh mắt đe tiếp nhận những lời dạy, nên giở trò đôi co với ông
tavà cuối cùng cũng phải dùng cách chỉ thẳng. Thế mà người đệ-tử
đầu tay của ngài vẫn không chuyển não.
- Ở đây, chúng ta đã
thấy được chổ chỉ thẳng của thiền sư Pháp-Loa qua từ "Y"trong câu:
"Bệnh cũng chẳng quan hệ gì đến Y." Từ Y ở đây không phải là một
từ tầm thường, vì nói vượt ra mọi liên hệ nếu có trong cuộc sống,
và đến khi nào muốn giải thoát thì phải tham thấu lọt qua khởi nó
mới được, còn nếu không thì luôn luôn trói-buộc trong khổ đau,
sanh-tử và dưới đây chúng tôi xin trích dẫn một công án cũng thuộc
loại chỉ thẳng của thiền sư Pháp-Loa nhân khi bệnh nặng trở lại
- Huyền Quang
thưa:
- - Xưa nay đến
chổ đó, không hay giữ cái nào tốt?
- Sư bảo:
- - Tất cả đều
không can-hệ.
- Huyền Trang
thưa:
- - Khi tất cả
đều không can-hệ thì thế nào?
- Sư bảo:
- - Tùy chổ mà an
sống.
- Vị đệ-tử thấy tình
trạng bệnh của thầy khó vượt qua, nên ướm thử lời bán rao sanh-tử
ra vào nhân quả để xem thầy mình như thế nào? Ở đây cả hai điều
ông muốn có đáp án chính xác nơi thầy, nhưng ông chả nhận được gì
qua lời đáp của thầy cả. Tất cả đều không can-hệ, đây là một trạng
thái hoàn toàn tự-tại, giải thoát không bị lệ thuộc vào luận-tắc
nhân quả của buông hay giữ. Vậy trạng thái này chỉ cho cái chi?
Nếu ở đây người đệ-tử thấy được nó thì có lẻ không bao giờ ông ta
buông ra câu hỏi tiếp để rồi nhận lãnh một đáp-án không như mình
mong muốn.
- Tóm lại để thay lời
kết-luận chúng tôi muốn liên hệ hai câu chuyện thiền, mà nó đã trở
thành một công-án đối với bất cứ người học thiền nào cũng đều biết
cả:
- "Từ pháp hội
Linh-Sơn đức Thế-tôn cầm cành hoa giơ lên. Bấy giờ mọi người làm
thinh, chỉ có ngài Ca-Diếp mặt rạng mỉm cười, Phật dạy:
- Ta có
chánh-pháp nhãn-tạng, diệu tâm niết bàn, thực-tướng vô minh, pháp
môn vi diệu. Nay trao lại cho Ma-Ha Ca-Diếp."
- Qua cành hoa đức
Thế-tôn cầm giơ lên, ngài Ca-Diếp đã lãnh-hội gì nơi đó? Có người
giải thích công án này là đức Phật nhằm truyền tâm cho ngài
Ca-Diếp qua Tánh Thấy theo kinh Lăng-Nghiêm.
- Ở đây chúng tôi không
đặt vấn-đề đúng hay sai, vì đúng hay sai đều lệ thuộc vào luật-tắc
nhân quả, nhưng chúng tôi muốn nêu vấn-đề Tánh Thấy này nó như thế
nào? Chúng ta đã thấy nó chưa? Hay nó chỉ là một danh động từ
không hơn không kém, có nghĩa là nó được hiểu nhờ vào dùng từ định
nghĩa-từ.
- Tánh thấy này nó ở nơi
cành hoa đức Phật giơ lên, hay nó ở nơi ngài Ca-Diếp? Nếu nói nó ở
nơi cành hoa đức Phật giơ lên nhằm trao cho ngài Ca-Diếp, thì cành
hoa này trở thành tướng (bị) thấy của ngài Ca-Diếp chứ không phải
tánh thấy của ông. Nếu bảo rằng ngài Ca-Diếp nhân cành hoa đức
Phật giơ lên mà thấy được Tánh Thấy của mình. Vậy thì Tướng thấy
kia nó phải như thế nào mới đủ khả năng tác động Tánh Thấy của
ngài chứ? Chúng ta nên biết Thiền-Tông tối-kỵ việc đem ngôn ngữ,
thuật ngữ của kinh giáo mà gán cho thiền, vì theo Thiền-Tông những
thuật-ngữ đó là những thuật ngữ chết khônh chyuên chở được gì
ngoài luật-tắc nhân-quả. Theo chúng tôi cái mấu chốt ở đây được
đức Phật thể hiện qua cành hoa, từ đó mới tác động lên cái nhìn
của ngài Ca-Diếp. Cái nhìn này là một cái nhìn xuyên suốt vở tung
cành hoa chứ không phải cái nhìn chạm tới bên ngoài của cành. Vậy
thì cái gì chứa đựng bên trong cành hoa đó? Đây là một dịp để
chúng ta suy nghiệm.
- Ngài A-Nan hỏi ngài
Ca-Diếp:
- - Ngoài bộ y
vàng Thế-tôn còn truyền chi cho ngài nữa:
- Ca-Diếp gọi:
- - A-Nan !
A-Nan:
- - Dạ !
- Ca-Diếp nói:
- - Hãy lật ngược
cây sát can ngoài cửa!
- Cũng như công án trên,
ở đây có người dùng tiếng "dạ"của ngài A-Nan để làm Tánh nghe
(theo kinh Lăng Nghiêm). Thật sự tiếng dạ này chúng ta tham thấu
lọt qua khỏi nó thì tánh nghe,tánh thấy gì gì đi nữa cũng trở
thành một trò hí-luận, vì chúng thể hiện cho tâm vô phân biệt qua
nó, chứ không phải tay cầm hoa hay tiếng dạ là cứu cánh. Đó cũng
là những gì Thiền-sư Phát-Loa muốn nhắn gởi những người hậu thế
chúng ta qua phương pháp chỉ thẳng qua ngài.
-
-
---o0o---
|