|
- TẬP SAN
- NGHIÊN CỨU
PHẬT HỌC
- PHẬT GIÁO THỪA THIÊN - HUẾ
- Số 5 - Phật lịch 2546. Phổ
biến nội bộ.
- --- o0o ---
- NGÔI CHÙA TRONG TÂM TƯỞNG HAY
- MỘT THOÁNG
CỦA MÙA XUÂN VĨNH CỮU
THÍCH PHƯỚC AN
- ---o0o---
- –
I –
-
Dạo đó là vào những năm 1956 hay 1957 gì đó, nghĩa là
sau khi đất nước bị chia cắt khoảng 2 hoặc 3 năm. Làng quê tôi
và có lẽ nhiều làng quê khác cũng vậy. Sau gần hơn nửa thế kỷ
sống trong chiến tranh và ly loạn, nên mặc dù còn nghèo khổ mà
chừng như người dân ai cũng tha thiết với cuộc sống, mà họ vừa
tìm lại được.
-
Khi lớn lên ra sống tại các thành phố, tôi vẫn thường
đem 2 cuộc sống ra để so sánh, và những lúc ngồi một mình tôi
vẫn thường nghĩ vẩn vơ rằng, người dân ở thành phố yêu cuộc sống
là một điều chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, vì họ có của cải,
tài sản và nhiều thứ khác nữa để mà yêu. Hay nói đúng hơn là họ
chỉ yêu cuộc sống qua của cải và tài khoản cất ở ngân hàng, chứ
không phải yêu chính cuộc sống.
-
Nhưng trái lại khi những người dân quê yêu cuộc sống
thì tình yêu đó mới đúng là tình yêu vô điều kiện, vì họ chẳng
có gì cả, ngoài tấm lòng tha thiết mà họ muốn hiến dâng cho cuộc
sống.
-
Nhưng điều đáng buồn là, có lẽ hầu hết mỗi người trong
chúng ta, ai cũng đều yêu cuộc sống qua của cải, tài sản hay cao
hơn một chút nữa là địa vị và danh lợi. Chính vì thế mà mới có
đấu tranh, sát phạt lẫn nhau để dành phần thắng về cho mình. Và
rồi tôi cũng tự kết luận để nhắc nhở cho chính tôi rằng, nếu ta
chỉ yêu cuộc sống mà không qua bất cứ trung gian nào thì có lẽ
cuộc đời của ta và cả thế giới này nữa sẽ bớt đi rắc rối và phức
tạp như hiện nay chăng?
-
Hồi ấy tôi mới lên tám hoặc chín tuổi, vẫn thường vào
chơi trong một ngôi chùa. Chùa nằm ngay dưới chân núi sau làng.
Ngôi chùa này vốn là do em của ông Sơ tôi lập nên, và hiện do
người chú ruột của tôi làm trụ trì. Sư chú tôi vẫn thường kể lại
một cách say sưa cho tôi nghe về những ngày đầu của ngôi chùa
như thế này:
-
Em của ông Sơ tôi (mà có lẽ Sư chú tôi phải gọi đến
ông Cố Thúc, còn tôi thì phải gọi đến ông Sơ Thúc?), đi tu hồi
chưa đầy lên 10. Về mặt trí tuệ thì chẳng có gì xuất sắc, nhưng
về phương diện tu trì thì tất cả các bạn đồng tu đều phải kính
nể. Sau khi đắc pháp với một cao tăng được xem là thông tuệ nhất
trong tỉnh thời bấy giờ, thì sau đó ông Sơ Thúc của tôi được Bổn
Sư và Sơn Môn cung thỉnh về giữ chức trụ trì tại một ngôi chùa
nổi tiếng là đẹp nhất của tỉnh. Chùa rất giàu có, có đến mấy
trăm mẫu ruộng do các quan lại địa phương và những phật tử giàu
có hiến cúng. Sỡ dĩ các quan lại địa phương tích cực hỗ trợ cho
chùa như vậy vì ngoài là một ngôi chùa đẹp ra, còn có một lý do
khác nữa, đó là có một thời một vị quan hàng đầu của triều đình
Huế vốn quê quán ở đây về nhập thất tu Thiền tại chùa này hơn 2
năm. Vị quan này không chỉ nổi tiếng về đức thanh liêm, mà còn
là một nhà soạn tuồng, một nhà thơ tài hoa nữa. Có hai câu thơ
đầy hào khí của vị quan đi ở ẩn này mà tôi đã nghe và thuộc lòng
từ thời còn để chỏm:
-
- Lao xao sóng bủa ngọn tùng
-
Gian nan là nợ anh hùng phải mang
-
(Ðào Tấn)
-
Nhưng ông Sơ Thúc của tôi đã từ chối làm trụ trì ngôi
chùa nổi tiếng giàu có và nhiều thế lực này, âm thầm về lại làng
xưa, một mình lặng lẽ vào sâu trong chân núi dựng một thảo am để
tu trì.
-
Vùng núi này rất nhiều cọp, có hôm trời mới nhá nhem
tối mà cọp đã ra tận ngoài làng để bắt trâu bò, ít nhất đã có
một người trong làng bị cọp bắt mang đi rồi mất xác luôn. Mối lo
sợ như bao trùm cả xóm làng, nên cứ mỗi khi chiều đến là các cửa
đều đóng kín mít, làng xóm không một bóng người qua lại. Nhưng
từ khi ông Sơ Thúc của tôi về dựng thảo am dưới chân núi, thì
cọp gần như không xuống làng để rình mồi nữa, dù thỉnh thoảng
dân làng vẫn còn nghe tiếng cọp gầm gừ từ núi cao vọng về.
- Từ
đó, cứ đêm đến là dân làng lại hướng về rặng núi, mà trước kia
đối với họ như một hung thần chỉ chờ giáng tai họa xuống trên
đầu họ. Nhưng từ ngày có bậc chân tu về tu hành thì rặng núi đối
với họ lại trở thành một đám mây lành che mát cho cả dân làng.
- Tất
nhiên, người nhà quê với đầu óc chất phát, ít phân biệt thế nào
là đúng thế nào là sai, nên có thể họ đã phóng đại những điều mà
họ đã nghe kể, và cứ khăng khăng cho đó là chuyện có thật.
-
Nhưng có một điều mà tôi tin chắc là có thật. Ðó là
ngọn núi sau chùa rất nhiều cọp. Khi tôi vào chùa, nghĩa là cách
ông Sơ Thúc của tôi đến hơn cả trăm năm rồi vậy mà vẫn còn rất
nhiều cọp.
-
Tôi vẫn còn nhớ có một đêm vào mùa đông, trời đất tối
tăm mù mịt , khoảng nửa đêm bỗng đâu có 2 con cọp, chắc là đi
tìm mồi trên dường trở về núi, cọp dừng lại sau chùa rồi rống
lên, tiếng rống của cọp làm kinh động cả núi rừng. Lúc đó tôi
đang ngủ nơi nhà Tây của chùa, vách chùa lại mỏng quá vì chỉ
trét bằng rơm và đất. Tôi sợ quá, nhưng không biết trốn ở đâu
nên đành lấy chiếu trùm kín cả đầu để cho bớt sợ.
-
Tuổi thơ của tôi vốn đã hoang lạnh, nên khi nghe tiếng
rống của cọp vang lên trong đêm, tôi lại càng thấy tuổi thơ của
mình bơ vơ lạc lõng hơn nữa trên cuộc đời này.
-
Sở dĩ Sư chú tôi thường đem chuyện tổ Khai Sơn của
chùa ra để kể cho tôi nghe là để ông khuyến khích việc đi tu của
tôi. Vì sau mỗi lần kể ông đều than thở rằng: “Ông Bà mình thì
tu hành như vậy, mà con cháu bây giờ chẳng biết gì đến chuyện
phước đứa hết, chỉ đợi đến ngày giỗ là giết gà giết vịt đặt lên
bàn cúng cho có chuyện, rồi dọn xuống ăn uống, nói chuyện nhảm
nhí, lại cứ nghĩ rằng là báo đáp ân đức cho Ông Bà”.
-
Mặc dù còn quá nhỏ, cái tuổi chưa thể rời mẹ để vào ở
hẳn trong chùa được, nhưng sở dĩ Sư chú vẫn muốn tôi vào chùa vì
ông sợ tôi nhập bọn với lũ trẻ ngoài làng lang thang lêu lỏng mà
bỏ bê việc học hành. Tôi biết đó là tình thương đặc biệt mà Sư
chú tôi đã dành riêng cho tôi, vì tôi vẫn thường nghe ông nói
với Bổn Ðạo của chùa “Tội nghiệp thằng nhỏ chưa sanh ra đời mà
đã mồ côi cha”.
-
Nhưng Sư chú tôi đâu biết được rằng, cái không khí
tĩnh mịch của ngôi chùa cùng núi rừng đã bắt đầu ảnh hưởng đến
tuổi thơ tôi. Tôi có thể ngồi chơi một mình mà không cần nhập
bọn quậy phá ồn ào với bọn trẻ nữa. Thay vì buổi trưa rủ nhau đi
tắm sông hoặc bắt chuồn chuồn, châu chấu, cào cào đem về cho
chim con ăn, thì tôi có thể ra ngồi dưới gốc cây xoài trước chùa
để ngăm bầu trời cao rồi tha hồ nghe tiếng hót của các loài
chim, nào chim chìa vôi, chích choè, chớp quạch, khứu, ..v...v..
Thỉnh thoangt lại nghe tiếng tu hú gọi bầy từ núi cao vọng xuống
nữa, nhưng thích nhất vẫn là tiếng gáy của cu cườm. Chúng thường
bay về đây từng đàn, đặc biệt là mùa gặt từ tháng 2 đến tháng 3.
Con cu cườm ít đứng trên cây mà lại thường đứng trên các tảng đá
sau chùa rồi cùng nhau gáy vang cả núi rừng trong những buổi
trưa hè tĩnh mịch. Nhưng tôi lại ít thích nghe cu cườm gáy từng
bầy, mà lại thích nghe từng con gáy. Nếu cu đứng càng xa thì
tiếng gáy của nó cang mê hoặc đối với người nghe hơn nữa.
-
Một buổi trưa, có lẽ là mùa hè, Sư chú tôi từ trên nhà
Tây đi xuống gặp tôi ông liền nói: “ Hồi trưa có con cu cườm ở
đâu bay đến đậu nơi cây mít gần cửa sổ mà gáy. Tiếng gáy của nó
nghe thanh tịnh quá!”.
-
Câu nói vô tình cúa Sư chú tôi, một tu sĩ suốt đời chỉ
quanh quẩn ở thôn quê, chưa hề đọc bất cứ một quyển sách nào nói
về cái đẹp của thiên nhiên, nghĩa là chưa hề biết cái đẹp theo
nghĩa trong sách vở là gì hết, vậy mà câu nói mộc mạc ấy đã đeo
đuổi tôi đến tận bây giờ, nhất là bốn chữ cuối “nghe thanh tịnh
quá”. Mahatma Gandhi có nói đâu đó rằng:” Cái gì mà tuổi thơ ta
đã sông thì cái đó sẽ điều động ta suốt cuộc đời”.
-
Ðúng là như vạy rồi. Trước đây cũng như bây giờ mỗi
lần đi giữa phố bất chợt nghe được tiếng gáy của cu cườm từ một
ngôi nhà nào đó vọng ra là tự nhiên tôi phải đi chậm lại để nghe
cho kỳ được. Dù tiếng gáy của cu cườm bị tiếng động của xe cộ
cùng sự ồn áo huyên náo của con người thành phố lấn át nhưng tôi
vẫn có thể lắng nghe được tiếng vọng xa xôi từ một vùng quê tĩnh
mịch của tuổi thơ dạo nào. Nơi đó, có ngôi chùa cổ vẫn đứng đó
trầm mặc giữa bầu trời cao của mùa hạ.
-
Có một nhà thơ Việt Nam hiện đại, buổi trưa nằm nghe
cu cườm gáy cũng nhớ đến một cái gì xa xôi heo hút và mơ hồ như
vậy:
- - Một
buổi trưa không biết tự thời nào
- Như
buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
- Có cu
gáy, có bướm vàng nữa chứ!
-
(Huy Cận)
-
Nhưng có lẽ cái xa xôi heo hút mà thi nhân nghe được
đó cũng chỉ là cái xa xôi heo hút của tuổi thơ mà thi nhân (cũng
như tất cả chúng ta) đã đánh mất mà thôi chứ không phải cái xa
xôi heo hút mà tôi đã thoáng thấy dù rất mong manh trong những
năm tháng của tuôir thơ sống trong ngôi chùa cổ ấy.
- Nhưng
có một điều lạ lùng là, khi tôi đọc được tác phẩm của một triết
gia Tây Phương người Ðức ở cuối thế kỷ 19, thì tôi lại thấy được
cái buổi trưa như tôi đã thoáng thấy nơi ngôi chùa cổ từ dạo
tuổi thơ xa xôi. Chỉ có khác là nơi tác phẩm của triết gia ấy
không có ngôi chùa cổ cùng tiếng gáy của cu cườm mà thôi.
-
Ðó là Nietzsche, triết gia mà trước 1975, những người
trẻ tuổi sống ở các thành phố miền Nam qua các bài viết của Phạm
Công Thiện, Ngô Trọng Anh, Trần Xuân Kiêm, Lê Tôn Nghiêm, ...
Trên tạp chí Tư Tưởng của Ðại học Vạn Hạnh, một tạp chí được xem
như hấp dẫn nhất của trí thức trẻ thời bấy giờ, đều xem
Nietzsche như một thứ Bồ Ðề Ðạt Ma, hay một thiền sư ngang ngược
của Phật Giáo đã xuất hiện để làm một cuộc đảo hoán mọi giá trị
của truyền thống tư tưởng Tây Phương.
-
Theo Trần Xuân Kim, trong bản dịch Zara thustra đã
nói như thế
(1) thì khi bắt đầu phác hoạ dự tính viết một bản
trường thi dài gồm 4 phần, liên quan đến nhà tiên tri Zara
thustra thì Nietzsche lấy tên là Ngọ Thiên và Vĩnh Cữu
(Mittag und Ewigkeit). Nhưng rồi cuối cùng Nietzsche đã quyết
định đặt tên cho bản trường thi ấy là Zara thustra đã nói như
thế nghĩa là đồng vọng lại lời mở đầu trong các bộ
kinh của Phật Giáo: Như thị ngã văn (Tôi đã nghe
như thế).
-
Khởi đầu chương viết về buổi Ngọ Thiên
(Mittag), Nietzsche để Zara thustra cất bước chạy dưới buổi
trưa, trong khi Zara thustra chạy mà “Không gặp bất cứ một ai,
hắn cô thân độc ảnh và tự tìm gặp lại chính mình, hưởng thụ sự
cô đơn, nếm nhấp sự cô đơn đó và nghĩ đến những điều tốt đẹp
suốt mấy giờ liền”. Zara thustra trong lúc đang chạy thì gặp một
cây cổ thụ có treo lủng lẳng những chùm nho chín mọng như muốn
hiến dâng cho lữ khách qua đường. Zara thustra có ý định làm dịu
cơn khát bằng cách hái những chùm nho đó nhưng khi vừa đưa tay
lên hái thì “lòng hắn lại nổi lên một khát vọng khác, mãnh liệt
hơn: ước vọng được nằm dài ngủ dưới gốc cây trong buổi Chánh Ngọ
của đất trời”. Và rồi:” Zara thustra đã nằm dài trên mặt đất,
trong nỗi im lặng tịch mịch cùng niềm bí ẩn của cỏ dại muôn
màu”.
-
Và rồi Nietzsche đã để cho Zara thustra thì thầm những
lời bí ẩn giữa buổi Ngọ Thiên:” Ồ hạnh phúc! Hỡi linh hồn ta, có
gì mà mi không ca hát chứ? Mi đang yên nghĩa giữa lòng cỏ dại.
Nhưng bây giờ là giờ phút bí mật và trang trọng...” và :”Hãy coi
chừng! Buổi Ngọ Thiên thiêu đốt, đang ngủ yên trên những đồng
cỏ. Ðừng ca hát, “Hãy im lặng! Thế giới đã thành tựu...””.
-
Và câu trên được Nietzsche lặp đi lặp lại trong suốt
chương viết về buổi Ðại Ngọ Thiên:
- “...
Im lặng! Im lặng! Thế giới há chẳng phải vừa thành tựu đó sao?
Việc gì đang xảy đến cho ta đây”
.
-
Và đó có lẽ cũng là câu mà tôi đã cảm nhận được dù rất
mơ hồ từ những buỏi trưa tĩnh mịch và thanh tịnh nơi ngôi chùa
cổ của thời thơ ấu đã xa.
- Dường
như nơi mỗi người trong chúng ta, vào những giờ phút vắng lặng
nhất, ít nhất một lần nào đó trong đời cũng đều bắt gặp giây
phút đó. Nên gọi giây phút đó là giây phút gì? Không thể nào
diễn tả được. Ta chỉ biết đó là giây phút mà trái tim ta đã đập
rộn ràng cùng với nhịp đập của thiên thu vĩnh cửu.
-
Ðối với Phật Giáo, chẳng phải từ 2546 năm nay giờ Ngọ
đã là giờ thiêng liêng nhất sao? Vì vào giờ ấy, sau khi đi khất
thực về, Ðức Phật đã lặng lẽ thọ trai, thuyết pháp rồi đi vào
thiền định.
-
Nếu như những buổi trưa tĩnh mịch ngôi chùa đã dạy cho
trái tim tôi biết rung động với đất trời mênh mông, thì khi đêm
tối đến, ngôi chùa như cũng đã thì thầm với tôi rằng, hãy kiên
trì, hãy nhẫn nại như mặt đất, như lời kinh tiếng kệ được vang
lên vào mỗi đêm, rồi một lúc nào đó thì đêm tối của cuộc đời này
cũng sẽ tan mất mà thôi.
-
Bởi vậy, khi đêm đến tôi còn có một đam mêm khác nữa,
niềm đam mê mà tôi vẫn tự hào rằng, những đứa trẻ cùng tuổi với
tôi ngoài làng sẽ không bao giờ biết được, hay nói đúng hơn thì
chúng chẳng thấy có cái gì gọi là vui trong đó hết. Ðó là tôi
rất thích được nghe tụng kinh Lăng Nghiêm vào 4 giờ sáng.
-
Cứ mỗi lần tụng xong bước ra khỏi Chánh Ðiện là Sư chú
tôi đều thấy tôi ngồi ngoài hành lang để nghe tụng kinh, gần như
không có khuya nào vắng cả. Chính vì khuya nào cũng nghe tụng,
nên khi chính thức xuống tóc đi tu và bắt đầu học kinh Lăng
Nghiêm thì đâu chỉ chừng 2 tuần là tôi thuộc cả 5 đệ Lăng Nghiêm
cùng Ðại Bi Thập Chú. Sư chú tôi rất mừng, nên mỗi khi có ai đến
thăm chùa nhất là quý thầy trong Sơn Môn, thì ông đều đem tôi ra
để khoe rằng tôi học rất sáng. Riêng tôi thì chẳng thấy hãnh
diện gì cho lắm, vì đã nghe tụng đến hơn cả 2 năm trời thì học
thuộc trong 2 tuần là chuyện tất nhiên rồi.
-
Thỉnh thoảng ngoài làng có người bệnh, thì họ lại đem
tên vào đê nhờ Sư chú tôi tụng kinh cầu an. Những lúc ấy tôi lại
còn được nghe ông trì chú Chuẩn Ðề nữa.
- Tuổi
thơ vốn rất sợ ma, mà đã sợ ma thì tất nhiên phải sợ bóng tối,
nên tôi cứ trông sao có người vào xin cầu an, để được nghe Sư
chú tôi trì tụng chú Chuẩn Ðề, nhất là câu Lục tự đại minh
chơn ngôn án ma ni bát di hồng được liên tục đọc lên giữa
đêm khuya khiến tôi cảm thấy bớt sợ và thấy như có thêm sức mạnh
khi bị bắt buộc phải đối diện với bóng tối quanh chùa.
-
Vì Sư chú tôi còn là một vị Gia Trì nổi tiếng, nên các
thầy thỉnh thoảng đến xin học chẩn tế. Buổi học thường diễn ra
sau khi tụng kinh xong, nghĩa là khoảng sau 8 giờ, với thôn quê
giờ ấy là đã khuya lắm rồi. Tôi ngồi lắng nghe các thầy học
thỉnh 12 câu trong khoa, khi thỉnh đến những câu như:
-
Trường dạ man man hà nhật hiểu
-
U quang ẩn ẩn bất tri xuân
-
(Ôi thôi! Ðêm trường thăm thẳm bóng
ma
-
Cửa mù thiu thỉu như trời thu đông )
-
Hoặc câu:
-
Kinh song lãnh thẩm tam canh nguyệt
-
Thiền thất hư minh bán dạ đăng
-
( Ôi thôi! Kinh song trăng thẳm lạnh lùng
-
Nhà Thiền leo lét đèn chong canh dài
)
- Thì
tôi thấy cảnh trong lời thỉnh sao giống y như cảnh mà tôi đang
sống ở đây quá, cũng những ngọn đèn dầu leo lét giữa đêm khuya
mù mịt, ngoài trời thì từng đàn đom đóm bay lập loè trên các
ngôi mộ giống như những oan hồn đang trở về vì còn nhớ thương
dương thế.
-
Trong Khoa có bài tán Khô Lâu có những câu để cảnh
tỉnh những oan hồn vất vưởng như thế:
-
“... Xiết than người thế ra chi,
kiếp phù sinh gởi tháng ngày bao lăm. Ác vàng thỏ bạc xâm xâm,
bóng quang âm thoắt trăm năm mấy hồi. Dần dà chi nữa người ơi,
sớm lìa bể khổ cho rồi kiếp ma...”
-
Có lẽ đó là quyển sách đầu tiên mà tôi đã học được về
những thống khổ của kiếp người, và vị thầy đầu tiên giảng cho
tôi hiểu quyển sách thống khổ ấy không phải là một vị giáo sư
cầm phấn đứng trước bảng đen mà chính là đàn đom đóm bay lập loè
trên những ngôi mộ trước sân chùa mà tuổi thơ tôi đã từng nơm
nớp lo sợ mỗi khi bóng đêm bắt đầu đổ xuống ở núi rừng thuở ấy.
-
Chính vì nhờ học được những gì từ trời cao đất rộng
như vậy, nên tôi vẫn nghĩ rằng, nếu chỉ học Ðạo giữa bốn vách
tường an toàn thôi thì khi thỏng tay đi vào chợ đời sẽ dễ bị lợi
danh của chợ đời quyến rũ. Ðó là bài học đau lòng mà ta có thể
thấy được không phải từ đâu xa mà ở nơi đây, ngay tại đất nước
này. Vậy ta phải học Phật như thế nào? Hay nói đúng hơn hạt
giống bồ đề nên gieo ở đâu? Một nhà Phật học của Phật giáo Việt
Nam hiện tại đã viết:” Hạt giống Bồ Ðề không được gieo vào một
cánh đồng trừu tượng nào xa xôi, cũng không chỉ đợi để được gieo
vào một vùng đất hứa nào khác, mà nó được gieo xuống ngay trên
sa mạc sanh tử này, khô cằn với những đau khổ triền miên của
chúng sanh này...”
.
-
Và bởi vậy:” Bồ Ðề Tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của
một chúnh sanh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm, giữa
đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng không những để
giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải
thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ Ðề Tâm, đó là ý
chí kiên cường bất khuất của một người bị cột trói trên ngọn lửa
rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc của tham vọng
điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh
ta. “ Vui cười gì, thích thú gì, giữa những ngọn lửa không ngừng
thiêu đốt? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm ngọn
đuốc”
.
-
Làm sao có thể viết được những lời trên nếu người viết
chưa một lần thể hiện “ý chí kiên cường bất khuất của một người
bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy?”
-
- - II -
-
-
Chúng ta, những con người ngụ cư trên mặt đất phù du
này thật là tội nghiệp. Sống thì lúc nào cũng mong đợi một tin
vui , một chút hạnh phúc dù rất mong manh. Nhưng khi niềm vui
hay hạnh phúc đó đến rồi thì chúng ta lại lo sợ cái hạnh phúc đó
sẽ mất:
-
Xuân đang đến, nghĩa là Xuân đang qua
-
Xuân còn non, nghĩa là Xuân sẽ già
-
Mà Xuân hết thì đời tôi cũng hết
-
(Xuân Diệu)
-
Dù có những người cố vui, cố níu kéo một chút hạnh
phúc mong manh ấy, xem như không có gì xảy ra cả. Nhưng trong
cách nói của họ dường như vẫn không giấu được nỗi sợ hãi:
-
Ôi người ta đi hóng Xuân
-
Cho tôi theo với, kéo tôi gần!
-
Rộn ràng bước nhịp hương vương gót
-
Nhựa mạnh tuôn trào tưởng dính chân
-
(Huy Cận)
-
Tất nhiên thi nhân là kẻ hiểu hơn ai hết vì sao họ
lại phải níu kéo cái đẹp một cách tuyệt vọng đến như vậy:
-
Về đâu, về đâu thời gian đã
-
In dấu mong manh trên cánh đào
-
(Huy Cận)
-
Vì luôn luôn bị ám ảnh bởi sự tàn phá của thời gian,
bởi cái chết đè nặng trên tâm hồn nên họ thấy cuộc đời chỉ là hư
vô, là ngõ cụt, ngay cả cái đẹp cũng vô nghĩa như vậy:
-
Xuân lan Thu cúc thành hư sự
-
Hạ thử Ðông hàn đoạt thiếu niên
-
(Lan mùa Xuân, cúc mùa Thu đã trở
thành chuyện hão
-
Vì mùa Hạ nóng mùa Ðông lạnh đã cướp
tuổi xanh mất rồi )
-
(Nguyễn Du)
-
-
Ðây có lẽ là vấn đề trọng đại nhất mà Thiền, qua các
Thiền sư đã nỗ lực hết mình để giải quyết cho kỳ được.
-
Ta thử xem các Thiền sư thi sĩ đã giải quyết các vấn
đề sống chết này bằng cách nào?
-
Một hôm vua Lý Nhân Tông đến viếng một ngôi chùa ở
huyện Tiên Du (Bắc Minh) gặp Thiền sư Thiền Lão, nhà vua hỏi:
-
-
Hàng ngày Thiền sư làm việc
gì?
-
Thiền Lão đáp:
-
Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
-
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chơn
-
(Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
-
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân )
-
(Mật Thể dịch)
-
Rồi nhà vua liền hỏi tiếp:
-
-
Vậy Thiền sư ở chùa này đã bao
lâu rồi?
-
Thiền Lão cũng trả lời lại bằng hai câu thơ:
-
Ðản tri kim nhật nguyệt
-
Thùy thức cựu Xuân Thu
-
( Sống ngày nay biết ngày nay
-
Còn Xuân Thu trước ai hay làm gì!)
-
(Mật Thể dịch)
-
Bốn câu thơ trên là những câu Kệ được
hỏi và đáp theo cách của Thiền. Nghĩa là người bị hỏi phải trả
lời ngay tức khắc, không do dự cũng như không kịp suy nghĩ.
-
Ðiều đó chứng tỏ tâm hồn của vị Thiền
sư đời Lý này của quê hương đã vượt qua mọi rào cản, mọi giới
hạn, không còn phân biệt nội giới cũng như ngoại giới nữa. Chẳng
hạn như cây trúc xanh biếc, bông cúc đang nở rộ vàng rực trước
sân chùa hay mây trắng trăng sáng trên đỉnh núi vào những đêm
rằm kia đâu phải là cái gì xa lạ ở bên ngoài ta, mà chính là sự
phản chiếu của một tâm hồn đã an vui, một tâm hồn đã đến được
trung tâm điểm của Ðạo, của vũ trụ hồn nhiên như nhiên. Và như
vậy ý niệm về thời gian như quá khứ, hiện tại và vị lai do ý
thức của con người phân chia tất nhiên cũng phải chấm dứt theo.
-
Cố giáo sư Nguyễn Ðăng Thục viết “ Khi đã có tâm hồn
vui đạo, luôn luôn cảm thông với nguồn sống thiên nhiên siêu
nhiên tràn ngập trong không gian thời gian thì làm sao còn lo
nghĩ đến sống chết, quá khứ và vị lai. Bất cứ lúc nào cũng hiện
tại, mà chỉ có hiện tại thôi, vì hễ có sự hiện diện của Ðạo thì
một khoảnh khắc cũng là cả một vĩnh cữu vô thủy vô chung vậy.
Cho nên bảo phải biết sống lúc đang sống là đầy đủ không phải lo
nghĩ đến cái đã qua cũng như cái gì sắp tới...”
-
Vậy là đúng như lời của Thiền Sư Khánh Hỷ cũng ở đời
Lý:
-
Ðạt thời biến cảnh túc
-
Bất ngộ vĩnh quai sơ
-
(Khi đạt thì đâu cũng là cảnh tượng đầy đủ
-
Không ngộ thì mãi mãi sai lầm )
-
Vua Trần Nhân Tông hồi còn trai trẻ cũng đã từng đam
mê rồi đau khổ khi thấy những mùa Xuân chóng qua cùng với tuổi
trẻ của mình:
-
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
-
Nhất Xuân tâm tại bách hoa trung
-
Như kim khám phá đông hoàng diện
-
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng
-
( Niên thiếu chưa từng hiểu Sắc,
Không
-
Xuân sang hoa sắc vướng tơ lòng
-
Diện mục Xuân nay từng khám phá
-
Thiền tọa an nhiên ngắm rụng hồng)
-
(Nguyễn Lan dịch)
-
Câu: Nhất Xuân tâm tại bách hoa trung
-
(Xuân sang hoa sắc vướng tơ lòng)
-
Nghe chan chứa tình người làm sao!
-
Ta có thể hiểu rằng đó là Trần Nhân Tông muốn nói lên
niềm đam mê cái đẹp mong manh khi còn trai trẻ của chính mình.
Nhưng nếu hiểu đó là tình thương bao la của Thiền sư thi nhân
đối với cái đẹp mong manh tội nghiệp mà tất cả chúng ta đang
nâng niu một cách tuyệt vọng thì cũng không sai mấy.
-
Dường như tất cả những tâm hồn vĩ đại đều khởi đầu
bằng tình thương rất người này.
-
Trần Nhân Tông chắc cũng chẳng ra khỏi ngoại lệ đó?
Không còn hồ nghi gì nữa, chính tình thương vô hạn đối với sự
thống khổ của con người mà Trần Nhân Tông mới đủ sức mạnh tinh
thần để đẩy lùi hai cuộc xâm lăng của một đế quốc hùng mjanh
nhất thời bấy giờ, và cũng chính vì tình thương này mà Trần Nhân
Tông mới đủ can đảm vứt bỏ ngai vàng cùng với tất cả những vinh
hoa phú quý bọt bèo lại sau lưng để đi lên tận đỉnh núi Yên Tử
mà Tham Thiền Nhập Ðịnh. Ðể rồi cuối cùng đã tìm thấy một mùa
Xuân vĩnh cửu cho chính mình, một mùa Xuân không bao giờ sợ phải
tàn phai nữa.
-
Và phải chăng cuộc từ bỏ vĩ đại này cũng đã nuôi dưỡng
sức mạnh tâm linh cho toàn thể dân tộc Việt từ đó cho đến bây
giờ và sẽ còn tiếp tục cho đến những thế kỷ sau nữa?
- Có
một Thiền sư Nhật Bản ở thế kỷ 12 tên là Saigyo, Thiền sư thi sĩ
này được thi ca Nhật bản tôn là nhà thơ của hoa Anh Ðào (nở vào
mùa Xuân). Saigyo chắc cũng đã vượt qua được nỗi sợ hãi về cái
chết và sự tàn phá của thời gian?
-
Trong thi phẩm Nhà trên núi (Sankashu), có một
bài thơ Thiền sư ước ao được chết cùng với hoa Anh Ðào trong một
đêm trăng rằm nào đó:
-
Ước vọng của tôi
-
Là được chết
-
Dưới cội hoa Anh Ðào
-
Vào đêm trăng rằm
-
Trong ánh mùa Xuân
-
(Nhật Chiêu dịch)
-
Ước vọng ấy của Saigyo đã thành sự thật. Thiền sư đã
tịch vào ngày rằm tháng 2 âm lịch nhằm vào năm 1190, nghĩa là
đúng vào ngày vía Ðức Phật nhập Niết Bàn, giữa mùa trăng và mùa
hoa Anh Ðào đang nở rộ.
-
“ Hãy dâng hoa Anh Ðào lên cúng Phật, khi nào còn
nghĩ đến tôi”
-
Ðó là câu nói cuối cùng mà Thiền sư Saigyo đã gởi lại
cho hậu thế.
-
Ðó có thể gọi là chết không? Hay chỉ là một cuộc lên
đường để đến một nơi mà như lời thỉnh trong nghi cúng linh của
Phật Giáo:
-
Viễn quan sơn hữu sắc
-
Cận thính thủy vô thanh
-
Xuân khứ hoa hoàn ngự
-
Nhân lai điểu bất kinh
-
(Màu non lờ lạt
-
Giọng núi thầm thì
-
Xuân đi rồi hoa vẫn còn đây
-
Người đến đó chim rày đã dạn)
-
(HT. Bích Liên dịch)
-
Như vậy chắc chắn đó không phải là cái chết theo
nghĩa thông thường mà mỗi chúng ta đều nơm nớp lo sợ, mà chính
là một sự trở về cõi tịch mịch vô ngôn của thực tại như hai câu
kệ trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa đã mô tả:
-
Chư pháp tùng bổn lai
-
Thường tự tịch diệt tướng
-
(Các pháp xưa nay
-
Vốn thường tự vắng lặng)
-
Nếu như Thiền sư Saigyo của Nhật Bản
đã đưa hoa Anh Ðào vào thi ca của mình, thì tại Việt Nam Thiền
sư Mãn Giác ở đời Lý trong một bài thơ cũng đã nói về một nhành
mai. Chỉ khác nhau ở chỗ là hoa Anh Ðào của Thiền sư Saigyo nở
đúng vào mùa Xuân, còn nhành mai của Thiền sư Mãn Giác thì không
nở vào mùa Xuân mà cứ theo bài thơ thì mùa Xuân lúc ấy đã đi qua
rồi. Vậy mà thật bất ngờ trong một đêm Thiền sư đã bất chợt thấy
một nhành mai đang nở rộ trước sân chùa:
-
Xuân khứ bách hoa lạc
-
Xuân đáo bách hoa khai
-
Sự trục nhãn tiền quá
-
Lão tùng đầu thượng lai
-
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
-
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai
-
(Xuân đi trăm hoa rụng
-
Xuân đến trăm hoa lại nở
-
Việc đời cứ như vậy mà đi qua trước
mắt
-
Tuổi già đã hiện đến trên mái đầu rồi
-
Ðừng tưởng rằng mùa Xuân đi qua thì
hoa rụng hết đâu
-
Ðêm qua, một cành mai đã nở rộ trước
sân )
-
Nhành mai ấy phải chăng là biểu tượng của cái đẹp vĩnh
cửu mà Thiền sư Mãn Giác muốn gởi đến cho tất cả chúng ta những
con người luôn luôn sống trong nỗi bất an và lo sợ trên mặt đất
đau thương này?
-
“Chân lý nào cũng mang bộ mặt khủng khiếp, đằng sau
cái bề ngoài thanh thản mênh mông. Cuộc sống nào cũng trùng
trùng dâu biển, những tang thương. Chỉ có con người an nhiên nơi
trí tụê, mới có tín tâm kiên quyết tin rằng:
- Ðình
tiền tạc dạ nhất chi mai
-
( Trước sân, đêm rồi, đã nở một cành mai )
-
Phật Giáo đáng yêu ở chỗ đó, vừa tố giác tính chất vô
thường biến dịch của cuộc sống, vừa đặt bước thênh thang tự tại
trên những đoá mai vô thường chớm nở, để thành đạt cái đẹp, đồng
thời là chân tánh của cuộc đời”
-
Ðó là lời của Hoà thượng thi sĩ Thích Mãn Giác (Huyền
Không). Một người mà từ hơn nửa thế kỷ nay, hồn thơ lúc nào cũng
cứ lận đận mãi với những khóm mai già trong những ngôi chùa của
quê cha đất tổ.
-
- - III -
-
-
Phong đả tùng quang nguyệt chiếu đình
-
Tâm đầu cảnh sắc cộng thê thanh
-
Cá trung tư vị vô nhân thức
-
Ðương giữ sơn tăng lạc đáo minh
-
(Gió đập hiên tùng nguyệt dọi sân
-
Tình này cảnh ấy luống bâng khuâng
-
Mùi Thiền trong đó nào ai biết
-
Thức suốt đêm trường vui với Tăng)
-
(Mật Thể dịch
)
-
Không hiểu sao cứ mỗi lần ngồi nhớ ngôi chùa nơi rặng
núi ở quê nhà tự thời tuổi thơ xa xôi thì bài thơ ấy của Trần
Thái Tông lại hiện đến trong trí nhớ của tôi, và tôi đã tự đọc
cho chính mình nghe để đỡ nhớ.
-
Có thể đấy chính là vì cái không khí tĩnh mịch và vắng
vẻ mà bài thơ đã nói lên được. Chính cái không khí tĩnh mịch này
mà tâm hồn ta mới dễ giao cảm với đất trời, cái tĩnh mịch mà thi
ca Nhật Bản gọi là vĩnh tịch (Sabi). Trạng thái vĩnh tịch ấy chỉ
có những người đã từng sống qua rồi thì mới có thể cảm nhận
được. Ðúng như câu thứ 3 trong bài thơ:
-
Cá trung tư vị vô nhân thức
-
Mà hòa thượng Mật Thể đã dịch là:
-
Mùi Thiền trong đó nào ai biết.
-
Nhưng có điều lạ lùng là mỗi khi về lại ngôi chùa của
tuổi thơ dạo ấy thì tôi không bao giờ tìm lại được cái không khí
tĩnh mịch và vắng lặng như cái tĩnh mịch và vắng lặng như ngôi
chùa mà trên bước đường lưu lạc lúc nào tôi cũng nhớ thương da
diết trong tâm tưởng của mình. Dù bề ngoài thì chùa vẫn vậy,
nghĩa là chùa vẫn đứng đó, vẫn âm thầm chịu đựng những cơn gió
buốt lạnh từ núi cao đổ xuống trong những ngày Ðông mưa gió lê
thê. Vẫn đứng đó cùng với những tia nắng vàng yếu ớt mong manh
của những ngày cuối thu như ngậm ngùi cho những tang thương dâu
bể của cuộc đời. Vẫn đứng đó trong bầu trời cao tĩnh mịch của
những ngày tháng Năm mùa Hạ, vẫn đứng đó với những bông hoa
rừng, bông vạn thọ nở vàng cả lối đi trong những ngày Xuân rộn
ràng tiếng chim kêu ríu rít.
-
Nhưng tại sao tôi vẫn thấy xa lạ ngay
cả khi tôi đang ngồi trong chính ngôi chùa ấy? Vì nhớ tuổi thơ
chăng? Có lẽ chỉ đúng một phần nào thôi, vì ai mà chẳng nhớ đến
tuổi thơ hồn nhiên trong trắng của mình. Vậy thì tại sao? Chắc
phải có một lý do nào đó chăng?
-
Trong tác phẩm quan trọng của văn hào Nhật Bản Yukio
Mishima, tác phẩm Kim Các Tự (Kinkakuji) qua nhân vật chính kỳ
lạ có tên là Mizaguchi. Ngay từ khi còn nhỏ Mizaguchi vẫn thường
nghe cha của mình kể về cái đẹp của Kim Các Tự. Từ đó ngôi chùa
gần như cứ ám ảnh mãi trong tâm hồn tuổi thơ của Mizaguchi. Và
từ đó, ngôi chùa đã trở thành biểu tượng cho cái đẹp, mà cái đẹp
theo Mizaguchi là vấn đề sống chết mà Mizaguchi phải đối phó
”... Thực không phải nói quá lời khi bảo rằng vấn đề tối sơ mà
tôi thực sự phải đối phó trên đời là vấn đề cái đẹp...”
-
Nhưng thế nào là cái đẹp?
-
Nhân vật chính trong tiểu thuyết của Yukio Mishima suy
nghĩa theo cách nghĩ của riêng mình: “... Một đứa bé như tôi,
không thể nghĩ đến cái đẹp như một cái gì nho nhỏ hoặc lớn lớn
nhưng là một sự vật vừa phải. Vì thế khi nhìn thấy những bông
hoa mùa hè bé nhỏ đượm sương mai, có vẻ như đang toả ra một ánh
sáng mơ hồ, tôi thấy chúng cũng đẹp như ngôi chùa Kim Các Tự
vậy. Lại nữa, khi những đám mây ảm đạm chất đầy sấm sét ùn ùn
chồng chất bên kia dãy núi đồi, chỉ có những viền ngoài lấp lánh
ánh vàng vẻ tráng đại của chúng cũng làm tôi nhớ đến ngôi chùa
Kim Các Tự. Cuối cùng đến nỗi ngay cả khi nhìn thấy một cái gì
đẹp đẽ khác, trong lòng tôi cũng vụt nhớ đến Kim Các Tự và nỗi
lên một sự so sánh:”Ðáng yêu như Kim Các Tự”. Hoặc có những khi
đứng nhìn mông lung vào đêm tối mịt mùng Mizaguchi vẫn thấy “Kim
Các Tự đang băng mình qua một đêm như dài vô tận”.
-
Rồi nhân vật Mizaguchi băn khoăn tự hỏi:”Tôi không sao
ngăn được một cảm giác bứt rứt và bực bội khi nghĩ rằng vẻ đẹp
này đã tồn tại trên đời từ lâu mà tôi chẳng hề biết. Nếu quả
thực cái đẹp đã tồn tại ở đó, điều ấy có nghĩa là chính sự tồn
tại của tôi xa lạ với cái đẹp...”
-
Và rồi Mizaguchi tự đưa ra một kết luận:”Cái đẹp vì
thế là một đối tượng mà người ta có thể sờ mó bằng ngón tay, có
thể thấy phản ảnh rõ ràng trong đôi mắt. Tôi biết và tôi tin
rằng giữa tất cả những đổi thay của thế giới, Kim Các Tự vẫn còn
ở đó an toàn và không bao giờ thay đổi”.
-
Thế nhưng khi người cha quyết định dẫn Mizaguchi đến
Kim Các Tự để gởi cho Viện chủ thì Mizaguchi lại trù trừ do dự,
vì lý do giản dị là sợ những gì mình đã tưởng tượng về Kim Các
Tự có thể sụp đổ hết khi phải đối diện với Kim Các Tự thực.
Mizaguchi lo sợ điều ấy sẽ xảy ra nên đã tự lý luận để trấn an
trước: “Dù thế nào đi nữa, điều cốt yếu là Kim Các Tự phải thật
đẹp đẽ. Do đó, tôi đem đánh đổi tất cả không phải lên cái đẹp
khách quan của chính ngôi chùa cho bằng cái đẹp khả năng tưởng
tượng ra vẻ đẹp của nó nới riêng tôi”.
-
Dù đã cố lý luận để trấn an như vậy, nhưng cuối cùng
khi đến Kim Các Tự, Mizaguchi đã thật sự thất vọng “tôi ngạc
nhiên tự hỏi có lẽ nào cái đẹp lại là một sự vật không đẹp đẽ
như thế này sao?”.
-
Nhưng khi từ giã Kim Các Tự để trở về thì cái đẹp của
Kim Các Tự lại tiếp tục ám ảnh tâm hồn của Mizaguchi “sau khi
trở về Yakuoka, Kim Các Tự đã từng làm tôi thất vọng biết bao
nhiêu khi nhìn thấy lần đầu, đến lúc này lại gợi lại vẻ đẹp của
nó trong lòng tôi càng ngày càng sâu đậm cho đến lúc trở thành
một Kim Các Tự đẹp đẽ hơn là trước khi tôi được nhìn thấy”.
-
Dường như nơi mỗi người trong chúng ta không nhiều
thì ít cũng đều có một Kim Các Tự của Mizaguchi trong tận đáy
hồn sâu thẳm của mình?
- Với
tôi, đó là ngôi chùa cổ mà tuổi thơ tôi đã sống. Thực ra, ngôi
chùa ấy cũng chỉ là biểu tượng (như Yukio Mishima) đã lấy Kim
Các Tự làm biểu tượng cho cái đẹp, cái đẹp mà ít nhất một lần
nào đó trong đời ta đã bất ngờ nhìn thấy dù rất mong manh. Rồi
từ đó ngôi chùa ấy cứ ám ảnh ta mãi.
-
Thi sĩ Quách Tấn của Việt Nam mà trong toàn thể thi
nghiệp của mình cũng đã từng thể hiện nỗi nhớ thương da diết về
một ngôi chùa trong mộng tưởng như vậy:
- Mây
nước nhiễm phong trần
- Nơi
đâu tình cố nhân
- Những
đêm buồn tỉnh giấc
- Chùa
cũ tiếng chuông ngân
-
“Chùa cũ” mà thi nhân nhớ thương đó ở nơi nào? Tại một
đỉnh núi cao? Hay một thảo nguyên xa xôi nào đó của thời mà
thiên nhiên còn man dại, như thuở vũ trụ còn hoang sơ?
- Sông
dài bãi vắng núi chênh vênh
- Chùa
khuất sau mây tiếng trống rền
- Gió
nước nôn nao lòng đãi độ
- Lạnh
lùng sương xuống bến trăng lên
-
Hay là ngôi chùa ấy chỉ có trong tâm tưởng của thi
nhân trong những đêm trăng sáng giữa một mùa thu mênh mông:
- Neo
thu bến tạnh thuyền sương sóng
- In
bóng chùa xa trăng nửa hiên
-
Ta không thể nào biết được. Chỉ biết rằng thi nhân đã
đi tìm, và cuối cùng cũng đã gặp ngôi chùa ấy trong một thoáng
giây tuyệt đẹp:
-
Thoảng tiếng chuông chùa vọng
- Bóng
đèn khuya rung rinh
- Nao
nao lòng giếng quạnh
- Hơi
thu tràn hư linh
-
Ðọc hai câu cuối:
- Nao
nao lòng giếng quạnh
- Hơi
thu tràn hư linh
-
Ta có cảm tưởng như trong giây phút đó thi nhân đã
vượt qua được thứ thời gian do ý thức nhị nguyên của con người
tạo ra, và đã tiến gần đến thời gian của vĩnh cửu.
- Nhưng
thế nào là thời gian? Và có cái gọi là thời gian vĩnh cửu không?
-
Trong tác phẩm Ðối thoại giữa triết học và Phật
Giáo, của hai tác giả là Jean Fancois Revel và Matthieu
Ricard. Theo Matthieu Ricard thì: “Thời gian chỉ là một quan
niệm dính liền vào chuỗi khoảnh khắc được nhận ra bởi một người
quan sát. Thời gian không tự nó có được vì lẽ người ta không thể
nắm bắt một khoảng thời gian và không gian riêng biệt nào cả.
Thời gian và không gian chỉ có tương đối cho những hệ thống tham
khảo riêng biệt, và cho những kinh nghiệm của chúng ta mà thôi”.
-
Như vậy vẫn theo Matthieu Ricard “Ngoài hiện tượng ra
không có thời gian. Nếu không có hiện tượng lấy đâu ra thời
gian. Thời gian dính liền với thay đổi. Quá khứ đã trôi qua,
tương lai thì chưa tới mà dòng thời gian không thể nắm bắt được
trong giấy phút hiện tại”.
-
Còn thời gian vĩnh cửu?
-
Vẫn theo Matthieu Ricard “thì trong siêu hình Phật
Giáo người ta nói đến một thời gian thứ tư, vượt trên quá khứ,
hiện tại và vị lai. Ðó là thời gian vĩnh cửu”.
-
Vĩnh cửu, như vậy theo Matthieu Ricard:”Thời gian thứ
tư này không thực sự là thời gian mà chỉ là từ để ngụ ý rằng
vĩnh cửu ở bên kí thời gian, vì thời gian chỉ liên quan với thế
giới hiện tượng”
-
Phải chăng đây cũng là một định nghĩa khác về vĩnh
cữu?
-
“Cái nhìn của con mắt thịt không bao giờ có thể vượt
ra ngoài hạn chế của không gian. Nhưng cái nhìn của con mắt tình
yêu thì không hề biết đến giới hạn như thế. Tình yêu có khả năng
thực hiện những phép lạ, những thần thông biến hóa vượt ngoài
ước lượng và hiểu biết của một tâm hồn khô héo. Làm sao người ta
có thể nghe được những lời ngọt ngào của suối rừng, của gió núi,
khi mà tâm tư không gợi chút xao xuyến của tình yêu”
-
Chính cái nhìn không giới hạn này, nên mặc dù mùa
Xuân của đất trời đã qua rồi, vậy mà Thiền sư Mãn Giác của chúng
ta ở đời Lý trong một đêm tối trời vẫn bất chợt thấy được một
cành mai đang nở rộ trước sân chùa.
-
Phải chăng nhành mai ấy chính là biểu tượng của tình
yêu?, và một khi trái tim của kẻ nào đã tràn ngập tinh yêu thì
nhất định kẻ đó sẽ gặp một mùa Xuân không bao giờ tàn phai nữa,
mùa Xuân của vĩnh cửu chăng?
-
THÍCH PHƯỚC AN
-
Mùa Ðông 2002
-
-
Zara
thustra đã nói như thế ,
An Tiêm, 1971. Tr.13
-
Trần Xuân Kim dịch, sdd Tr.557
-
HT Bích Liên dịch
-
Tuệ Sỹ, Thắng Man giảng luận, Tr. 33,34.
-
Tuệ Sỹ, Thắng Man giảng luận, Tr. 33,34.
-
Thiền học Việt Nam ,NXb THUẬN HÓA 1997 TR 241
-
Phật học, Thiền học và thi ca, Tu thư Vạn Hạnh 1974, lời
tựa.
-
Kim Các Tự, An
Tiêm, Ðỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch. Trích rải rác
-
-
Tuệ Sỹ, Thắng Man giảng luận, Tr. 31
--o0o--
|
|