-
Cây Ưu Đàm
-
Đinh Công Bảy
---o0o---
-
Theo truyền thuyết Phật giáo, hoa Ưu đàm gọi là hoa Linh thụy,
3000 năm mới xuất hiện một lần. Khi hoa Ưu đàm xuất hiện thì Kim
Luân Vương xuất hiện. Hoa Ưu đàm được dùng để chỉ những việc
hiếm thấy.
-
Cây Ưu đàm (ưu đàm thụ) tức cây sung, còn gọi là vô hoa quả, tên
khoa học Ficus racemosa L., thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
-
Cây thân gỗ, cao trung bình, có khi tới 15-20m. Lá hình ngọn
giáo hay bầu dục, hơi có lông nhung trên cả hai mặt lá khi còn
non, cứng, nguyên hay hơi nhăn nheo, dài 8-20cm, rộng 4-8cm; mọc
so le; thường bị sâu ký sinh tạo thành mụn nhỏ (gọi là lá sung
tật). Quả loại sung (tức là cụm hoa bao gồm hoa đực, hoa cái
trên một đế hoa lõm làm thành quả giả) trên những nhánh không có
lá nằm trên thân, dạng quả lê không cuống; khi non có màu lục,
khi chín có màu đỏ nâu. Toàn cây có nhựa màu trắng.
-
Sung phân bố ở Ấn Ðộ, Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Việt Nam, thường mọc hoang ở những nơi ẩm ướt và cũng
được trồng quanh bờ ao hoặc ven sông. Người ta dùng quả sung, lá
sung làm thực phẩm và dùng cả nhựa, lá, vỏ cây để làm thuốc.
-
Trong 100g quả sung có chứa các chất sau: Protéin 1g, chất béo
0,4g, đường 12,6g, Ca 49mg, P 23mg, Fe 0,4mg, caroten 0,05mg,
vitamin B1 0,04mg, B2 0,03mg, PP 0,3mg và C 1mg.
-
Trong 100g lá sung tươi có các thành phần sau: nước 75,0g,
protein 3,4g, lipid 1,4g, cellulose 4,8g, dẫn xuất không protein
12,3g, khoáng toàn phần 3,1g.
-
Quả sung thường dùng muối ăn như cà muối, luộc ăn với nước chấm
hoặc kho. Lá sung non có thể ăn sống như rau, lộc sung dùng gói
nem.
-
Theo Ðông y, quả sung có vị ngọt, hơi chát, tính mát, tác dụng
thông huyết, lợi tiểu, chỉ thống, tiêu đàm, tiêu thủng, tiêu
viêm, sát trùng, bổ huyết. Quả còn xanh dùng cầm tiêu chảy. Quả
sung và lá non ăn giúp lợi sữa cho sản phụ.
-
Nhựa mủ dùng bôi ngoài chữa các chứng sang độc, chốc lở, đinh
nhọt, bỏng, các loại ghẻ. Cành lá và vỏ cây sung dùng chữa phong
thấp, sốt rét, sản phụ ít sữa. Liều dùng 10-20g, sắc uống.
-
Trong sách Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã dùng nhựa sung chữa
các loại đinh nhọt và dùng lá sung non chữa trẻ em bị lở ghẻ.
Trong sách Bách gia trân tàng, Hải Thượng Lãn Ông dùng lá sung
tật nấu nước cho uống và xông rửa mặt chữa trên mặt bị nổi từng
cục u nhỏ sưng đỏ.
-
Ở Ấn Ðộ, rễ sung dược dùng chữa lỵ, nhựa rễ cây dùng chữa tiêu
khát (đái tháo đường); lá sung sấy khô, tán bột, trộn với mật
ong chữa bệnh túi mật; quả dùng chữa rong kinh, khạc ra máu;
nhựa sung dùng chữa bệnh trĩ và tiêu chảy. Ngày nay, cây sung
còn được trồng trong bồn, chậu non bộ làm cảnh rất được ưa
chuộng. Người ta nhân giống bằng hạt (nhân hữu tính) hoặc bằng
cách chiết cành, giâm cành (nhân vô tính). Thường nhân bằng hạt
được thực hiện nhiều hơn vì tạo ra cây con khỏe hơn.
-
Muốn có hạt để gieo, cần chọn các quả đã chín mềm bổ lấy hạt rồi
chà xát để lớp vỏ hạt sạch nhớt, sau đó đem gieo ngay hoặc ủ hạt
nơi ẩm để hạt dễ mọc. Ðất gieo cần nhỏ, mịn, sạch cỏ rác. Sau
khi gieo, tủ rơm rác mục, tưới nhẹ và ít tưới dần. Khi cây đạt
chiều cao 15-20cm có thể bứng đi trồng.
-
Sung là cây ưa sáng song sinh trưởng kém khi ánh sáng gay gắt
hoặc cường độ ánh sáng tán xạ làm lá bị mỏng, ít phân cành và
các cành nhánh vươn dài. Cây không có yêu cầu khắt khe về đất
đai; thích hợp trên nhiều loại đất, miễn sao đừng bị khô hạn là
được.
-
Mùa hoa tháng 6-8, mùa quả tháng 9-11.
-
Ðặc biệt, người dân Nam Bộ còn dùng quả sung chưng trên mâm quả
ngày Tết cùng với các loại quả khác như mãng cầu, đu đủ... với
ước mong được sung mãn, đầy đủ suốt năm.
-
Ở phương Tây, vùng Ðịa Trung Hải, người ta dùng một loại sung
gọi là sung ngọt (Ficus carica L.) có thân gỗ nhỏ, dạng bụi cao
trung bình 3-4m, lá có hình chân vịt với 5-7 thùy cách nhau bởi
những góc lõm sâu. Cây sung ngọt này mới được nhập trồng ở Phú
Yên, Khánh Hòa. Cây chịu vùng nắng khô.
-
Quả sung ngọt có vị ngọt, tính bình, tác dụng thanh nhiệt, làm
mạnh dạ dày, trừ ho, cầm máu, trừ lỵ, tiêu thủng và nhuận phế.
Nạc quả khi chín ngọt, phơi khô có vị ngọt như chà là. Người Ấn
Ðộ dùng quả sung ngọt để giải khát, làm dịu và bổ dưỡng. Người
Trung Quốc dùng làm thuốc chữa táo bón, viêm ruột, hầu họng sưng
đau, bổ dạ dày, giải độc. Sung ngọt còn dùng chế biến thành mứt
ăn bổ huyết. Ngoài ra, còn có cây vả tức cây ngõa (Ficus
auriculata lour) có quả phức to, xếp dày đặc trên thân cây, hình
cầu dẹp, có nhiều lông thưa; khi non có màu xanh lục, khi chín
có màu đỏ thẫm. Mùa hoa quả tháng 12 đến tháng 3. Vả cũng được
gọi là vô hoa quả.
-
Quả vả có vị ngọt, tính bình, tác dụng làm mạnh dạ dày, nhuận
trường, điều hòa hoạt động ruột, lợi tiểu. Thường dùng làm rau
ăn, ăn sống hoặc luộc chín đều được. Quả chín ăn ngọt, ngon,
thơm, được dùng để làm mứt khô hoặc chế thành rượu. Người ta
dùng quả vả để chữa kiết lỵ, lòi dom, táo bón, trừ giun.
-
Rễ và lá vả có tác dụng giải độc, tiêu thủng. Nhựa dùng bôi chữa
mụn đỏ mọc trên mũi nam giới.
-
Source : Báo Giác Ngộ, số đặc biệt, Xuân Nhâm Ngọ - 2002