|
-
Mùa Xuân Trên Đỉnh Núi
-
Nhất Quán
-
--o0o--
-
-
Người Việt Nam đại đa số, nếu là Phật Tử thì khi nói đến núi Yên
Tử không ai là không biết đó là Trung Tâm Phật Giáo nổi tiếng từ
đời Nhà Trần. Núi Yên Tử, có rất nhiều vị thiền sư nổi tiếng,
nhưng có lẽ vị Thiền Sư được nhiều người nhắc đến nhiều nhất đó
là: Trúc Lâm Ðại Sĩ.
-
A- Tiểu Sử
-
a- Người Con Có Hiếu
-
Trúc Lâm
Ðại Sĩ chính là Trần Nhân Tông, vị vua anh hùng, triết gia, và thi
sĩ, tên là Khâm con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh
Thiên Cảm Hoàng Hậu, sinh năm ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ, Nguyên
Phong năm thứ 8 đúng năm Thái Tông và Thánh Tông đánh tan quân xâm
lược Nguyên Mông lần thứ nhất. Lúc mới sanh thuần túy đạo mạo, sắc
thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng cho nên Thái
Tông và Thánh Tông tức là ông nội và cha đều cho là lạ, vì thế nên
gọi là Kim Phật. Tuy nhiên tác giả sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư là
một nhà Nho không ưa Phật Giáo nên nói rằng: Ở hai cung mọi người
đều gọi Thái Tử là Kim Tiên Ðồng Tử. Mặt dầu đây là những chi tiết
không đáng kể, nhưng nếu thẩm định giá trị, thì cũng làm cho giảm
đi ít nhiều về phương diện trung thực của sử liệu. Ngài tuy ở địa
vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền Tôn từ thuở nhỏ. Năm 16 tuổi được
lập làm Hoàng Thái Tử, Ngài cố từ để nhường cho em, mà vua cha
không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc Mẩu cho Ngài tức
là Khâm Từ Thái Hậu sau nầy. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc mà
tâm Ngài vẫn thích đi tu.
-
Năm 21
tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng Ðế. Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn
giữ thanh tịnh để tu tập. Thường ngày đến Chùa Từ Phước trong đại
nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên môt
bông sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có
người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói:
-
- Biết ông
Phật nầy chăng? là đức Phật Biến Chiếu.
-
Tỉnh giấc
Ngài đem viêc đó tâu lên lên Vua cha. Vua Thánh Tôn khen là viêc
kỳ đặc. Ngày thường ăn chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy
thế làm lạ hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thanh Tông khóc
bảo:
-
- Nay ta
đã già, chỉ trong cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao
gánh vác được sự nghiệp của Tổ Tiên. Nghe vua cha dạy như thế,
Ngài cũng rơi nước mắt.
- Con người Ngài không
những rất thông minh hiếu học, đọc hết hết các sách vở, suốt thông
nội điển và ngoại điển, mà Ngài cũng là một người con có hiếu.
Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các thiền khách bàn giải về tâm tông,
tham học thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ, và kính lễ Thượng Sĩ làm
Thầy.
-
b- Anh
Hùng Dân Tộc
-
1- Chiến Thắng Quân Nguyên Mông
-
Thời gian trị vì của Vua Trần Nhân Tôn là lúc đất nước
Ðại Việt đang đứng trước thử thách ghê gớm, đó là hiểm họa xâm
lược lần thứ hai và lần thứ ba của giặc Nguyên Mông. Trong hai lần
kháng chiến nầy, Trần Nhân Tông đã trở thành sợi dây liên lạc kết
chặt lòng dân, lãnh đạo quân dân Ðại Việt vượt qua bao khó khăn
đưa cuộc chiến dấu tới thắng lợi huy hoàng.
-
a- Chiến Thắng Quân Nguyên Mông Lần Thứ Hai
-
Sau lần thất bại thứ nhất, đế quốc Mông Cổ vướng vào
cuộc nội chiến(1259-1264) và cuộc chiến tranh với Triều Ðình Nhà
Tống(1267-1279) nên chưa thể tiếp tục ngay cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam. Mãi đến năm 1279 nhà Tống mất, toàn bộ đất Trung
Quốc đã nằm dưới ách thống trị của Nhà Nguyên. Sau khi không khuất
phục được Ðại Việt bằng những sứ bộ ngoại giao, vua Nhà Nguyên là
Hốt Tất Liệt mới chuẩn bị xâm lược nước ta bằng quân sự. Cuối năm
1284, đạo quân Nguyên Mông do Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất
Liệt và A Lý Hải Nha chỉ huy đã lên đường bắt đầu xâm lược Ðại
Việt lần thứ hai. Lần nầy, ngoài cánh quân lớn của Thoát Hoan đánh
vào mặt Lạng Sơn, vua Nguyên Mông còn sai Nạp Tốc Lạc Ðinh đem một
cánh quân từ Vân Nam đánh vào Tuyên Quang và ra lệnh cho Toa Ðô
đem đạo quân còn đóng ở Bắc Champa đánh vào mặt nam của Ðại Việt.
Sau vài trận đánh chận giặc ở Lạng Sơn và Tuyên Quang trong ngày
26 tháng 12 năm 1284 quân ta lại rút lui về thế thủ. Ngày 6 tháng
Giêng năm 1285 tướng Nhà Nguyên là Ô Mã Nhi đánh vào Vạn Kiếp và
núi Phả Lại. Ngày 12 tháng giêng năm 1285 giặc đánh vào Gia Lâm,
Vũ Ninh, Ðông Ngàn bắt được nhiều quân lính của Nhà Trần, thấy
người nào cũng thích hai chữ Sát Thát, có nghĩa là Giết Giặc Thát
Ðát vào cánh tay, Ô mã Nhi tức lắm vì thế mà quân Nguyên giết hại
rất nhiều người. Thế mạnh của địch đã bắt đầu tiến tới bờ bắc sông
Hồng, áp sát kinh thành Thăng Long. Vua tôi Nhà Trần đứng trước sự
lựa chọn căng thẳng:
-
- Phản công quyết chiến bảo vệ kinh đô.
-
- Tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng và xây dựng
cơ sở để chờ thời cơ diệt giặc?
-
Ðiều cốt yếu là lúc nầy làm sao nắm được địch tình,
rút ra được kết luận về thế giữa ta và địch thì mới có thể lựa
chọn đúng sách lược. Giữa lúc nguy biến chưa tìm ra cách nào làm
được điều nầy, thì Chi Hậu Cục Thư Ðỗ Khắc Chung tâu với Vua:
-
- Thần tuy tài hèn sức mọn nhưng xin với bệ hạ cho đi
vào đất giặc để mà biết giặc.
-
Vua Trần Nhân Tông mừng và nói:
-
- Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ,
ngựa ký như thế. Rồi sai Ðổ Khắc Chung đưa thơ giảng hòa.
-
Chiều ngày 12-2-1285 Ðỗ Khắc Chung vượt sông Hồng bằng
con thuyền nhỏ, lấy cớ đưa thơ cầu hòa của vua Trần rồi lọt vào
hành dinh Ô Mã Nhi. Gặp mặt Ðổ Khắc Chung, Ô Mã Nhi nói:
-
- Quốc vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ Sát
Thát, khinh nhờn thiên binh lỗi ấy to lắm.
-
Khắc Chung đáp:
-
- Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng
trung với nước nên họ tự thích chữ như vậy chớ không ai bảo họ cả.
Quốc vương tôi không biết, tôi là cận thần tại sao tôi không có!
-
Nói xong Khắc Chung đưa cánh tay cho Ô Mã Nhi xem.
-
Ô Mã Nhi nói:
-
- Ðại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo
để hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ
ra sao?
-
Khắc Chung nói:
-
- Hiền tướng không theo sách Hàn Tín bình nước Yên,
đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiểu
thì mới có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống
lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người!
-
Ông đối đáp với chủ tướng giặc, thông minh khiến hắn
vị nể, lưu lại một đêm. Thời gian nầy Ðỗ Khắc Chung tìm cách khéo
léo quan sát địch tình. Sáng sớm hôm sau giờ mão ngày 13-2-1285
ông đã bí mật trở về kinh thành Thăng Long. Nhờ đấy Vua tôi nhà
Trần quyết định rất đúng đắn:
-
- Thế giặc đang rất mạnh, cần rút lui gấp, lập vườn
không nhà trống ở kinh thành.
-
Ðây là lần thứ hai, vua tôi nhà Trần lại bỏ trống
Thăng Long, kéo về mạn Thiên Trường và Trường Yên. Và để tránh vào
thế bị kẹp vào giữa các gọng kềm của giặc, đại quân và triều đình
chờ cho cánh quân của Toa Ðô tiến đến Trường Yên tức là Ninh Bình
cũ thì đại quân rút vào Thanh Hóa. Trong khi một bộ phận lớn của
quân chủ lực rút, thì khắp nơi quân địa phương và dân binh các lộ
phối hợp với các cánh quân nhỏ của triều đình để lại, đã không
ngưng tập kích, tấn công vào quân địch ở vùng bị chiếm đóng. Kế
hoạch vườn không nhà trống được toàn dân thực hiện. Giặc đóng quân
phân tán thiếu lương thực, có nguy cơ bị tiêu diệt. Mùa hè đến lại
giáng lên đầu những tai họa mới như Sử Nhà Nguyên đã ghi chép:
-
- Bệnh
dịch hoành hành...Nước lụt dâng to ngập ướt doanh trại.
-
Thời cơ
phản công của quân ta đã đến. Tháng 5-1285, Hưng Ðạo Vương Trần
Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến ra Bắc, kế hoạch diệt địch như sau:
-
- Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và một số tướng
lãnh được giao nhiệm vụ diệt địch trên phòng tuyến sông Hồng.
-
- Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đem quân vòng qua vùng
Hải Ðông, tiến lên Vạn Kiếp chặn đường tháo chạy của địch.
-
Cuộc diện chiến tranh xảy ra đúng như dự liệu: Cuối
tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc
Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến
lên giải tỏa thành Thăng Long. Thoát Hoan hoảng hốt rút khỏi Thăng
Long, chạy về phía Vạn Kiếp. Ðến đây bọn giặc lọt vào trận mai
phục của Trần Hưng Ðạo, bị thương vong rất nhiều. Ðám tàn quân
hoảng loạn cố mở đường máu tháo chạy. Nhưng khi đến biên giới Lạng
Sơn, chúng lại bị quân ta chận đánh. Thoát Hoan phải chui vào ống
đồng, rồi bắt quân lính khiêng chạy về nước. Viên Ðại Tướng Lý
Hằng đi đọan hậu, bị tên độc trúng đầu gối, về đến Tư Minh thì
chết. Trong khi cánh quân của Thoát Hoan chạy về phía Lạng Sơn thì
cánh quân Nạp Tốc Lạc Ðinh tìm đường tẩu thoát về Vân Nam, cũng bị
quân dân ta tập kích đánh cho tơi bời. Không biết Thoát Hoan bỏ
chạy Toa Ðô và Ô Mã Nhi kéo ra Bắc theo sông Hồng định về Thăng
Long, nhưng đến Tây Kết bị quân ta chặn đánh Toa Ðô bị chém còn Ô
Mã Nhi thì chạy trốn, hai vua đuổi theo nhưng không kịp, bắt được
hơn 5 vạn tàn quân. Thế là cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên
Mông lần thứ hai bị hoàn toàn thất bại.
-
Ngày 6 tháng 6 năm 1285 hai vua trở về kinh sư, Thượng
Tướng Trần Quang Khải có làm bài thơ:
-
Ðoạt sáo Chương Dương độ
-
Cầm hổ hàm Tử quan
-
Thái bình tu trí lực
-
Vạn cổ thử giang san
-
Nghĩa là:
-
- Bến Chương Dương cướp giáo
-
Cửa Hàm Tử bắt thù
-
Thái bình nên gắng sức
-
Non nước cũ muôn thu.
-
Trong cuộc
chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai thành công dựa
trên nhiều yếu tố, tuy nhiên một trong những yếu tố quan trọng
nhất là phải nói đến lòng can đảm của Ðỗ Khắc Chung, một tình báo
nổi tiếng đời nhà Trần.
- b-
Chiến
Thắng Quân Nguyên Mông Lần Thứ Ba
-
Ngay sau
thất bại nầy, tháng 3 năm 1286 vua Nguyên là Hốt Tất Liệt đã ra
lệnh chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược mới, nhưng phải chờ
đến cuối năm 1287, các đạo quân Nguyên Mông mới có thể lên đường.
Một đạo do Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích chỉ huy tiến vào mặt Lạng Sơn.
Một đạo khác do Ái Lỗ cầm đầu từ Vân Nam đánh và Tuyên Quang. Song
song với việc tiến hành kế hoạch xâm lược, Hốt Tất Liệt còn ra
lệnh quân của ba tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng, và Giang Tây xâm lược
Ðại Việt mượn cớ đưa Trần Ích Tắc về nước lập làm An Nam Quốc
Vương. Lần nầy không còn cánh quân phía Nam, nhưng vua Nguyên lại
phái thêm một cánh thủy quân, sai Ô Mã Nhi chỉ huy hộ tống đoàn
thuyền tải lương của Trương Văn Hổ vào Ðại Việt theo đường biển.
Lúc bấy giờ vua hỏi Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn:
-
- Thế giặc
năm nay thế nào?
-
Quốc Tuấn
trả lời:
-
- Nước ta
thái bình lâu ngày, dân không biết việc đao binh. Cho nên năm
trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng, có kẻ chạy trốn.
Nhờ uy linh của tổ tiên và thần võ của bệ hạ, nên đã quét được bụi
Hồ. Nay nếu nó trở lại thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà
quân nó thì phải sợ đi xa. Vả lại, chúng còn nơm nớp sợ cái thất
bại của Lý Hằng và Lý Quán không còn có chí chiến đấu. Theo thần
thấy, phá được chúng là điều chắc chắn.
-
Tháng 12
năm 1287, khi đoàn thuyền tiến vào vùng biển An Bang(Quảng Ninh)
Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem thủy quân chận đánh, nhưng không
cản được giặc. Ô Mã Nhi cho binh thuyền tiến thẳng vào cửa Bạch
Ðằng không chú ý vào đoàn thuyền lương nặng nề chậm chạp ở sau.
Mãi đến tháng 1 năm 1288, đoàn thuyền lương thực của giặc mới tiến
đến vùng đảo Vân Ðồn. Trần Khánh Dư lại đem quân tập kích. Trương
Văn Hổ chống không nổi, đổ cả lương thực xuống biển trèo lên một
chiếc thuyền nhỏ, trốn về Quỳnh Châu(Hải Nam)
-
Bấy giờ, Thoát Hoan cũng đã tiến vào Lạng Sơn, hội
quân với 30 vạn Thủy quân của Ô Mã Nhi ở Vạn Kiếp. Thoát Hoan dừng
ở lại đây gần một tháng, xây dựng Vạn Kiếp thành một căn cứ vững
chắc, mãi đến tháng 1 năm 1288 mới chia quân tiến về Thăng Long.
Lần thứ ba quân dân và triều đình nhà Trần lại bỏ ngỏ Thăng Long,
quân Nguyên vào Thăng Long ngày 2-2-1288. Ngay sau đó Thoát Hoan
vội sai Ô Mã Nhi đem chiến thuyền ra biển để đón thuyền lương của
Trương Văn Hổ. Nhưng thuyền lương đã không còn nữa! Không có lương
thực đạo quân của Thoát Hoan đóng ở Thăng Long lâm vào tình trạng
nguy ngập. Thoát Hoan phải ra lệnh rút quân lui về Vạn Kiếp. Trên
đường rút quân về Vạn Kiếp, giặc bị quân dân ta chận đánh ở cửa Ba
Sông, vùng Phả Lại. Kéo về đóng ở Vạn Kiếp, đạo quân xâm lược bị
quân ta tập kích ngày đêm. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, bọn tướng
Nguyên nói với Thoát Hoan:
-
- Ở Giao
Chỉ không thành trì để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền
lương của Trương Văn Hổ lại không đến. Vả lại khí trời đã nóng
nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống đỡ lâu, làm hổ
thẹn cho triều đình, nên toàn quân mà về thì hơn.
-
Trước tình
hình đó Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo hai đường:
Cánh quân bộ rút qua biên giới Lạng Sơn, còn cánh quân thủy thì
theo sông Bạch Ðằng rút ra biển. Kế hoạch rút quân của địch không
ngoài sự dự liệu của Trần Hưng Ðạo. Ông đã bố trí chặn giặc ở biên
giới và quyết định một trận quyết chiến lớn trên sông Bạch Ðằng.
Từ đầu tháng 3, quân sĩ và nhân dân đã đẵn gỗ lim, đẽo nhọn đóng
xuống lòng sông, làm thành những bãi cọc lớn. Thủy quân và bộ binh
ta đã phục sẵn trong các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông
Bạch Ðằng, chờ ngày tiêu diệt địch. Sáng ngày 9-4-1288 đoàn thuyền
chiến của Ô Mã Nhi tiến vào đoạn sông chiến lược Bạch Ðằng. Khi
đoàn thuyền giặc lọt vào trận địa mai phục, thì từ các ngánh sông
các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn chúng
vào bãi cọc. Giặc áp thuyền sát bờ, đổ quân chiếm lấy núi cao để
yễm hộ cho đoàn thuyền rút, nhưng bị bộ binh ta đánh hất xuống.
Một trận kịch chiến ác liệt đã xẩy ra. Nước triều xuống gấp,
thuyền giặc to nặng, lao nhanh theo giòng nước, vướng cọc làm tan
vỡ rất nhiều. Cho đến khoảng 5-7 giờ tối toàn bộ chủ sự của giặc
bị tiêu diệt. Ô Mã Nhi bị bắt sống. Lần thứ ba trong lịch sử giữ
nước của dân tộc, dòng sông Bạch Ðằng lại ghi thêm một chiến công
oanh liệt. Trong khi đó đạo quân của Thoát Hoan cũng khốn đốn rút
chạy ra biên giới. Sau khi bị phục kích ở cửa ải Nội Bàng, chúng
bỏ con đường ra ải Khâu Cấp, vòng theo đường Ðan Ba, chạy tạt ra
biên giới. Nhưng ở đây chúng cũng bị quân ta chận đánh, tướng giặc
là A Bát Xích bị trúng tên chết. Mãi đến ngày 19-4-1288, đám tàn
quân của Thoát Hoan mới về đến Tư Minh. Chiến Thắng Bạch Ðằng oanh
liệt đã vùi chôn vĩnh viễn mộng xâm lăng của Hốt Tất Liệt.
-
Thế là trong vòng 30 năm quân dân dưới triều đại nhà
Trần đã ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đội quân xâm lược mạnh
nhất và hung hãn nhất của thời đại, để bảo vệ nền độc lập tự chủ
của đất nước, góp phần bảo vệ nền độc lập cho các nước Ðông Nam Á.
Sức mạnh để làm nên chiến thắng là khối đoàn kết toàn dân như Trần
Hưng Ðạo đã nói:
-
- Vua tôi
đồng lòng, anh em hoà thuận, nước nhà chung sức.
-
Chính nhờ
khối đoàn kết đó mà cuộc chiến tranh nhân dân: Cả nước đánh giặc,
trăm họ là binh mới có thể thực hiện được. Sau cùng, nguyên nhân
sâu xa hơn của chiến thắng là sự ổn định kinh tế, xã hội thời
Trần, được tạo ra từ đường lối lấy dân làm gốc. Nói đến những
chiến công chống xâm lược đời Trần chúng ta không thể không nhớ
đến câu nói tuyệt vời của Trần Hưng Ðạo: Khoan thư sức dân, làm kế
sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước.
-
Qua hai cuộc kháng chiến, Trần Nhân Tông đã tỏ rõ ông
vừa là nhà chiến lược tài giỏi, vừa là vị tướng cầm quân dũng cảm
ngoài chiến trường. Chính vào những lúc đầu của cuộc kháng chiến
năm 1285, khi quân ta đang còn ở thế không cân sức với đối phương,
Trần Nhân Tông đã từng viết lên đuôi chiến thuyền hai câu thơ đầy
khí phách và niềm tin vào sức mạnh tiềm tàng của quân ta:
-
- Cối kê cựu sự quân tu ký,
-
Hoan diễn do tồn thập vạn quân.
-
Nghĩa là:
-
- Cối kê chuyện cũ ngươi nên nhớ.
-
Hoan diễn đang còn chục vạn quân.
-
Sau khi đại thắng quân Nguyên Mông lần thứ ba, ngày 17
tháng 4 năm 1288, vua Trần Nhân Tông đem các tù binh bị bắt trong
cuộc chiến như: Tích Lệ Ngọc Cơ, Nguyên Soái Ô Mã Nhi, Tham Chính
Sầm Ðoàn, Phàn Tiếp, Nguyên Soái Ðiền..v..v.. làm lễ dâng thắng
trận ở Chiêu Lăng, mộ của Thái Tông Hoàng Ðế. Tưởng cũng nên biết,
trong lúc quân Nguyên chiếm đóng thành Thăng Long lần thứ ba nầy,
vì hận bại trận lần trước, nên quân Nguyên đã khai quật Chiêu Lăng
muốn phá đi, thì quân dân nhà Trần kịp thời giải cứu Thăng Long,
vì thế mà quân Nguyên chưa phạm tới quan tài của Thái Tông. Sử gia
thời bấy giờ cho rằng nhờ thần linh giúp đỡ nên mới may mắn như
vậy. Khi cử hành lễ bái yết, trong lúc cảm xúc nhà vua viết bên
Chiêu Lăng tại Long Hưng(Thái Bình) hai câu thơ:
-
- Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
-
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
-
Nghĩa là:
-
- Xã tắc hai lần lao ngựa đá,
-
Non sông nghìn thưở vững âu vàng.
-
Bốn câu thơ trên đã đi vào lịch sử như một ký ức bất diệt về chiến
công bình Nguyên Mông năm 1285 và 1288 trong đó Nhân Tông là vị
chủ soái. Khi nhìn nhận nguyên nhân thắng lợi nhà Trần đã giành
được trong sự nghiệp cứu nước, Trần Nhân Tông đã chú ý tới vai trò
của người dân lao động mà thời đó gọi là gia nô, gia đồng. Ngài
cho rằng họ mới là những người trung thành với đất nước khi có
giặc ngoại xâm.
-
c- Vị
Thiền Sư
-
Sau 14 năm làm vua, năm Quý Tỵ 1293, theo truyền thống của nhà
Trần, Nhân Tôn nhường ngôi cho con là Anh Tông rồi làm Thái Thượng
Hoàng. Ở ngôi Thái Thượng Hoàng ngài
chỉ dạy cho con được sáu năm thì ngài sắp đặt việc xuất gia. Tháng
10 năm Kỷ Hợi 1299 Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử, Ðông Triều,
Quảng Ninh.
-
Hơn mười
năm tu tập, ngày 19 tháng 10 năm 1308, ngài sai thị giả Pháp Không
lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát đến gặp Ngài gấp. Ngày 21
Bảo Sát đến am Ngọa Vân.
-
Ðến ngày
mồng 1 tháng 11 năm 1308, niên hiệu Long Hưng thứ 16 đêm đó trời
trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát:
-
- Hiện Giờ
là giờ gì?
-
Bảo Sát
bạch:
-
- Giờ Tý.
-
Ngài lấy
tay vén màn cửa sổ nhìn xem và nói:
-
- Ðến giờ
ta đi.
-
Bảo Sát
hỏi:
-
- Tôn đức
đi đến chỗ nào?
-
Ngài nói
bài kệ:
-
- Nhất
thiết pháp bất sanh
-
Nhất thiết
pháp bất diệt
-
Chư Phật
thường hiển tiền
-
Hà khứ lai
chi liễu dã.
-
Nghĩa là:
-
Tất cả
pháp chẳng sanh
-
Tất cả
pháp chẳng diệt
-
Nếu hay hiểu như thế
- Nào có đến đi ấy
vậy.
-
Bảo Sát
hỏi:
-
- Chỉ như
khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?
-
Ngài liền
nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:
-
- Chớ có
nói mớ.
-
Nói xong,
Ngài nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch. Ngài lưu lại cho đời những tác
phẫm:
-
- Thiền
Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục
-
- Ðại
Hương Hải Ấn Thi Tập
-
- Tăng Già
Toái Sự
-
- Thạch
Thất Mỵ Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài.
-
Như vậy
Trúc Lâm Ðại Sĩ, Ngài lên ngôi lúc 20 tuổi, trị vì 21 năm, nhường
ngôi cho con, và xuất gia năm 41 tuổi, băng hà ở am Ngọa Vân núi
Yên Tử, tro cốt đưa về táng ở Ðức Lăng, thọ 51 tuổi. Suốt 21 năm,
Ngài là bậc nhân chủ lãnh đạo quốc gia, ngồi trên ngai vàng. Vua
nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời,
thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Lúc nhỏ Ngài được vua cha và
thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ dạy đạo lý Thiền thấm nhuần sâu
xa, nên khi Ngài Xuất gia không cần tầm học, chỉ thực hiện điều
đã học được.
-
Trúc Lâm
Ðại Sĩ, cũng là Thiền Tổ thứ nhất của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử,
một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Xét trên bình diện Triết Học, Trần Nhân Tôn có một vị trí
quan trọng. Ngài là một triết gia lớn của Phật Học Việt Nam và
cũng là người có công đã phát triển nền triết học Phật Giáo Việt
Nam thời Trần đến chỗ rực rỡ và thể hiện đầy đủ trí tuệ Việt Nam,
bản lĩnh Việt Nam. Nét đặc trưng nổi bật của tư tưởng triết học
Trần Nhân Tôn là tinh thần thực tiễn.
-
Về phương
diện thi sĩ ngài là một người có tâm hồn thanh cao, phóng khoáng,
một cái nhìn tinh tế, tao nhã, nhất là đối với cảnh vật thiên
nhiên:
-
- Thôn hậu
thôn tiền đạm tự yên
-
Bán vô bán
hữu tịch dương biên
-
Mục đồng
địch lý ngưu quy tận
-
Bạch lộ song song phi hạ điền.
-
Nghĩa Là:
-
- Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
-
Bóng chiều man mác có dường không
-
Theo lời kèn mục trâu về hết
-
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
-
Thơ của
Trần Nhân Tôn, ngoài vẻ đẹp của một âm điệu hồn hậu, còn bao hàm
một ý vị thiền, gợi mở một thế giới tinh thần thanh khiết. Trong
lịch sử thi ca Việt Nam, cây sáo thơ Trần Nhân Tông để lại một
tiếng ngân trong đến sâu thẳm.
-
Cho đến ngày nay, mặc dù Trúc Lâm Ðại Sĩ Ngài đã trở vể với hư vô,
nhưng Ngọa Vân Am vẫn còn đó, núi Yên Tử vẫn còn đây. Theo vị trí
hiện nay thì Núi Yên Tử nằm tại giáp giới Hải Dương, Bắc Giang và
Quảng Yên là ngọn núi cao nhất miền Hải Ðông. Trên đỉnh thường có
mây bao phủ, nên ngày trước có tên là Bạch Vân Sơn. Tương truyền,
xưa kia từ thời Tần Thủy Hoàng có một đạo sĩ tên là Yên Kỳ Sinh
từng làm nghề bán thuốc rong ở vùng ven biển, tới núi nầy tu hành
sau hóa thành đá, do vậy mà từ ấy núi có tên là Yên Tử.
-
Nếu chúng
ta là khách hành hương thì đoạn đường phải đi từ chân núi lên tới
ngôi Chùa cao nhất ở khu Yên Tử dài gần 30 cây số. Trên chặng
đường ấy, sẽ đi qua 20 công trình lớn nhỏ khác nhau. Ðường lên núi
biết mấy nhọc nhằn, cho nên không biết tự bao giờ, dân gian đã có
câu ca dao:
-
- Nào ai quyết chí tu hành
-
Có lên Yên Tử mới đành lòng tu.
-
Ở chân núi Chùa được dựng lên bên bờ suối. Bên suối
tắm có Chùa Cấm Thực(nhịn ăn), bên suối Lân có Chùa Lân... Mỗi
ngôi Chùa đều như gắn liền một câu chuyện hình thành từ buổi Vua
Trần Nhân Tôn xuất gia.
-
Qua dốc Voi Xô thì đến núi Hạ Kiệu, ghi dấu nơi Vua
Trần Anh Tôn lên núi thăm Vua Cha phải xuống kiệu từ đây. Ðường
lên Chùa xếp đá làm thành bậc. Hai bên đường trồng thông, nay có
cây chu vi đến 4m60. Ngôi tháp nổi trội nhất trong khu Yên Tử là
Tháp Tổ bằng đá 6 tầng. Chính giữa là Huệ Quang Kim Tháp tức là
tháp đức Giác Hoàng trong có tượng đá. Trước mặt tháp có cây hương
đá. Bốn mặt tường quanh tháp được xây bằng loại gạch thời Trần.
Trên đỉnh tường lợp ngói mũi hài kép, cũng là sản phẩm thời Trần,
phía ngoài tường gạch, quây quần rừng tháp 45 ngọn. Mỗi ngôi tháp
ấy là nơi cất giữ hài cốt của một vị sư tu hành ở đây. Con đường
từ cửa tò vò sau tháp Huệ Quang lên Chùa Hoa Yên lát loại gạch
vuông lớn, in hình hoa cúc ngan nay còn được 84 viên. Chùa Hoa Yên
và các Chùa chung quanh tạo nên thế kiến trúc chính của khu Yên
Tử. Thời Trần, Chùa có tên gọi là Vân Yên, khoảng niên hiệu Hồng
Ðức, Vua Lê Thánh Tôn ngự du thăm Chùa, thấy hoa cỏ xanh tươi, nhà
Vua mới đổi tên là Hoa Yên. Hai bên Chùa Hoa Yên có Viện Phù Ðồ,
Lầu Trống, Lầu Chuông, Nhà Dưỡng Tăng, và Nhà Khách. Xa hơn bên
phải Chùa Hoa Yên có Chùa Thiền Ðịnh nơi Vua Trần ngày xưa đọc
kinh niệm Phật, còn bên trái là Chùa Một Mái, nơi Vua Trần đọc
sách. Sau lưng Chùa Hoa Yên có Chùa Phổ Ðà. Ngược lên đỉnh núi có
Chùa Bảo Sái, rồi lên cao có Chùa Vân Tiên. Phong cảnh Chùa Vân
Tiên ngày ấy hẳn là đẹp lắm, vì thế mà trong bài thơ Vân Tiên Am
Vua Trần Anh Tông đã từng cao hứng viết:
-
- Ðình đình bảo các cao phan vân
-
Kim tiên cung khuyết vô phàm trần
-
Tạm Dịch:
-
- Nhà cao tợ lọng đụng mây xanh
-
Cung điện
thần tiên không nhiễm trần.
-
Như thế
chúng ta thấy, Núi Yên Tử thì ngàn đời vẫn không thay đổi, nhưng
phải đợi tới thế kỷ thứ XIII sau khi chiến thắng giặc Nguyên Mông
xâm lược, Vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái Tử, chọn nơi nầy
tụng kinh niệm Phật, khởi xướng Thiền Phái Trúc Lâm. Từ đó Yên Tử
mới trở thành Trung Tâm Phật Giáo nổi tiếng cả nước. Và núi Yên Tử
cũng là đỉnh non vùng Ðông Bắc Việt Nam không những đã là Trung
Tâm của Thiền Phái Trúc Lâm mà còn mãi mãi là một kỳ quan hùng vĩ,
một pháo đài vững chãi giữ vững biên cương.
-
B- Mùa Xuân Trên Ðỉnh Núi
-
Nói đến xuân chúng ta thường nghĩ đến sự ấm áp tươi vui, nghĩ đến
sự ấm no hạnh phúc, nói đến sự nhẹ nhàng thanh thản. Trong đạo
Phật các Thiền Sư cũng thường dùng chữ Xuân để nhắc nhở chúng ta.
Nhờ lời khuyên dạy của các Ngài, chúng ta càng tu càng phấn khởi
hơn, càng vui thích hơn. Ở đây chúng tôi muốn nói đến sự đạt đạo
của Trúc Lâm Ðại Sĩ trong bài thơ Xuân:
-
- Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
-
Nhất xuân
tâm sự bách hoa tung
-
Như kim
khám phá đông hoàng diện
-
Thiền bản
bồ đoàn khán trụy hồng
-
Dịch:
-
- Thuở bé
chưa từng rõ sắc không
-
Xuân về
hoa nở rộn trong lòng
-
Chúa xuân
nay bị ta khám phá
-
Chiếu trãi
giường thiền ngắm cánh hồng.
-
(Xuân Vãn)
-
Qua khẩu
khí của bài thơ, và nhìn vào cuộc đời sống động của Trúc Lâm Ðại
Sĩ, chúng ta thấy:
-
01- Khi
còn nhỏ Ngài là một người con hiếu thảo thông minh, chăm học. Ðặc
biệt là nghiên cứu về đạo từ bi. Chính Ngài cũng đã thọ giáo với
Tuệ Trung Thượng Sĩ, và Ngài cũng đã từng biết rõ đời là Vô
Thường, Khổ và Vô Ngã:
-
- Mình
ngồi thành thị
-
Nết dùng
lâm sơn
-
Muôn
nghiệp lặng an nhàn thể tánh
-
Nửa ngày
rồi tự tại thân tâm.
-
(Cư Trần Lạc Ðạo)
-
Nhưng cái biết đó chỉ mơ hồ cho nên Ngài cũng có những niềm vui
rộn rã khi những độ xuân về, và cũng ưu sầu khi mỗi lúc Xuân qua:
-
- Thuở bé
chưa từng rõ sắc không
- Xuân về hoa nở rộn
trong lòng.
-
02- Khi làm vua thì quên
mình giữ nước, hết dạ chăn dân. Cả hai
lần giữ vững biên cương, nhà nhà an lạc. Trong thời gian vừa làm
vua cầm quân xông pha ngoài trận tuyến thì thực hiện mộng của một
quân vương, một anh hùng cứu nước, và giữ nước. Nhưng khi trở về
hậu phương thì làm một phật tử thuần thành không bao giờ xao lãng
việc tu tập:
-
- Tham ái
nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
-
Thị phi
tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm
-
Chơi nước
biếc ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý
-
Biết hồng
đào, hay liễu tục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm.
-
Nguyệt bạc
vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng,
- Lo hoán cốt, ước phi
thăng đan thần mới phục. Nhắm trường sinh, về thượng giới thuốc
thỏ còn đam,
-
Sách dịch
xem chơi, yêu tính sáng hơn yêu châu báu,
-
Kinh nhàn
đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nửa hoàng kim
-
(Cư Trần Lạc
Ðạo)
-
Thế rồi
thời gian và đạo vị nuôi dưỡng Ngài trưởng thành một con người
toàn bích, dung hợp giữa đạo và đời, nhìn thấu suốt thời gian và
không gian để trở thành một Trúc Lâm Ðại Sĩ, tổ thứ nhất của dòng
Thiền Phái Trúc Lâm của Việt Nam:
-
- Chúa
xuân nay bị ta khám phá
-
Chiếu trãi
giường thiền ngắm cánh hồng.
-
03- Khi đi
tu thì nhiệt tâm vì đạo mài miệt tu hành chẳng ngại nhọc nhằn hết
tình với tăng tục. Hình ảnh sống động nhất là thời gian sau khi
nhường ngôi cho con, Ngài chuyên cầu tu tập theo hạnh đầu đà lấy
hiệu là Trúc Lâm Ðại Ðầu Ðà. Sau đó ngài lập Chùa, cất tịnh xá, để
tiếp độ chúng tăng, học tăng tới tham học rất đông:
-
- Gìn tính
sáng, tính mới hầu an
-
Ném niềm
vọng, niềm dừng chẳng thác
-
Dứt trừ
nhân ngã thì ra tướng thực kim cương,
-
Dừng hết
tham sân mới lưu lòng mầu viên giác.
-
Tịnh độ là
lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương.
-
Di Ðà là
tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc.
-
Xét thân
tâm rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe
-
Cần giới
hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác.
-
Ăn rau ăn
trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay.
-
Vận giấy
vận sồi, thân căn có ngại chi đem bạc.
-
Nhược chỉn
vui về đạo đức, nửa gian lều quý nửa thiên cung,
-
Dầu hay
mến thửa thân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác.
-
Cư Trần Lạc Ðạo
-
Ngài cũng
đi khắp các nơi để truyền bá thiền tông, đồng thời cũng khuyên dân
chúng dẹp bỏ những miếu thờ thần không chính đáng, và dạy dân
chúng tu hành thập thiện. Từ đó trong nhân gian thấm nhuần pháp vũ
của ngài.
-
Trên mười
năm kể từ khi xuất gia, mang hiệu là Trúc Lâm Ðầu Ðà, Ngài tích
cực hoạt động truyền bá chánh pháp. Trong giới xuất gia Ngài giáo
dục chúng tăng đem pháp Thập Thiện giáo hóa toàn dân, khiến Phật
Pháp mở rộng trong nhân gian. Ngài cũng đã từng có lần đi bộ từ
Thăng Long đến Trà Bàn kinh đô của Chiêm Thành, và lưu trú tại đây
hơn bảy tháng trời để tìm hiểu về nếp sống, văn hoá, phong tục tập
quán của vương quốc nầy với mục đích duy nhất là tạo sự cảm thông
để chung sống hoà bình của hai nước Chiêm Việt. Công tác hoằng
truyền Phật Pháp, giáo hoá nhân dân, Ngài làm suốt đời không dừng
nghỉ.
-
Có những lúc Ngài cũng
vân du trong rừng hoang cỏ nội, ung dung rảo gót lên vùng núi
vắng, phóng tầm mắt nhìn cảnh sắc, nhìn trở lại nhân gian trong
mùa Xuân rực rỡ trên núi Bảo Ðài. Giữa
cảnh trời mây non nước bao la, non xanh nước biếc, mây phong đỉnh
núi, nước chảy xuôi dòng. Ngài cảm nhân nơi đây thiên nhiên vừa
hiện thực, vừa kỳ ảo, vừa tĩnh lặng vừa biến động, vừa gần gủi vừa
viển mơ. Ngài trầm tư ngắm cảnh, cảm thấy tâm hồn thơ thới, nhẹ
nhàng. Ngài dạo quang cảnh núi từ khi sáng rợp đến lúc trăng lên,
rồi tựa lan can nâng sáo trúc. Ngài thổi lên một bản nhạc du
dương, có những lúc tâm hồn bay bổng vượt thoát thiên nhiên, có
những lúc dìu dặt hòa đồng vào vạn vật. Nơi đây không còn nhân,
ngã:
-
- Ðịa tịch
đài thêm cổ.
-
Thời lai xuân vị thâm,
-
Vân sơn
tương viễn cận
-
Hoa kình báo tình âm
-
Vạn sự thủy lưu thủy
-
Bách niên
tâm nhủ tâm
-
Ỷ lan
hoành ngọc địch
-
Minh
nguyệt mãn hung khâm.
-
Nghĩa là:
-
- Núi vắng
đài thêm cổ
-
Ngày qua
xuân chưa nồng
-
Gần xa mây
núi ngất
-
Nắng rợp
ngõ hoa thông
-
Muôn việc
nước trôi nước
-
Trăm năm
lòng nhủ lòng
-
Tựa lan
nâng ống sáo
-
Ðầy ngực
ánh trăng lồng
-
Một bức
tranh xuân tuyệt mỹ và thanh nhã. Với nét đan thanh, Ngài đã vẽ
nên một khoảng không gian bao la, bát ngát, từ cao đến thấp, từ xa
đến gần, từ ngoại cảnh đến nội tâm đó đối chiếu cái to tát, hùng
vĩ với cái vi tế, mỏng manh của vạn hữu. Nhưng dầu hùng vỉ hay
mỏng manh, đều nằm trong nguyên lý Vạn Hữu Nhất Thể. Vạn hữu biến
động, chân như vĩnh hằng. Với những hình ảnh tiêu biểu đầy ấn
tượng, những mầu sắc tươi mát, thơ mộng gợi cảm:
-
- Gần xa
mây núi ngất
-
Nắng rợp
ngõ hoa thông
-
Muôn việc
nước trôi nước
- Trăm năm lòng nhủ
lòng.
-
Dòng nước
như dòng đời, chảy xuôi chớ không bao giờ chảy ngược. Người trẻ
rồi già, cây non rồi cỗi. Người già cây cỗi rồi cũng chết, chết
rồi lại tái sanh. Vạn hữu vận chuyển luân hồi không bao giờ mất.
Người tỉnh giác tự nhủ lấy lòng những hình ảnh thơ mộng:
-
- Ngõ hoa
-
- Mây, núi,
-
- Nước chảy
-
- Trăng lồng
-
Ðó chỉ là
sự kết hợp kỳ diệu của hữu và vô, của sắc và không, là sự thể hiện
nhiệm màu của chân không diệu hữu:
-
- Muôn
việc nước trôi nước
-
Trăm năm
lòng nhủ lòng
-
Tựa lan
nâng ống sáo
-
Ðầy ngực
ánh trăng lồng.
-
Trước vẻ
hoang vắng tịch liêu, ngọn núi Bảo Ðài đã cổ càng tăng thêm phần
cổ kính. Vạn vật theo thời gian mà biến đổi đó là luật biện chứng
của lý vô thường, một trong Ba Pháp của đạo Phật, nhưng trong nhãn
quang của Trúc Lâm Ðại Sĩ thời gian vẫn vô thủy vô chung, bao
nhiêu xuân đã đến rồi đi, với thời gian vô tận đó nhưng xuân không
bao giờ già. Ngày lại ngày tiếp nối nhau, nhưng ngày không bao giờ
cũ. Nghĩa là Xuân vẫn trẻ, tình vẫn nồng. Ngày vẫn mới, đời vẫn
đẹp. Dưới cái nhìn tỉnh thức của kẻ liễu đạo, thiền sư cảm thấy
tâm hồn mình thanh thoát an nhiên, tự tại, vạn sự vạn pháp, không
còn gì đối đãi như dưới mắt phàm phu, thật là một bài thơ xuân
trác tuyệt.
-
Qua ba
giai đoạn trên, chúng ta thấy Ngài sống gia đoạn nào ra giai đoạn
đó, vì thế trên đường đời Ngài thành công viên mãn, trên đường đạo
thì đạo quả viên thành. Chính thái độ dứt khoát tích cực, nên lãnh
vực nào Ngài cũng thành công. Ngài cũng hưởng dục lạc trong hoàng
cung, cũng cầm binh khiển tướng ngoài trận, nếu nói tội lỗi thì
cũng rất nhiều. Nhưng khi dứt khoát tiến tu thì cắt đứt mọi quá
khứ, sống kham khổ tu hành. Với ý chí cương quyết đó chỉ trong
vòng mười năm Ngài đã tiến đến chỗ sanh tử tự tại. Ðây là tấm
gương sáng rỡ để nhắc nhở chúng ta, không sợ mình trước mê lầm tội
lỗi, chỉ sợ xuất gia rồi mà thái độ mập mờ. Ngài là con người thấy
được đạo lý và sống được đạo lý. Chúng ta đọc bài kệ kết thúc bài
phú Cư Trần Lạc Ðạo thì sẽ rõ:
-
- Cư trần
lạc đạo thả tùy duyên,
-
Cơm tắc
xan hề khốn tắc miên,
-
Gia trung
hữu bảo hưu tầm mích
-
Ðối cảnh
vô tâm mạc vấn thiền.
-
Nghĩa là:
-
- Trong
đời vui đạo hãy tùy duyên
-
Ðói đến
thì ăn mệt nghỉ liền
-
Nhà mình
báu sẳn thôi tìm kiếm,
-
Ðối cảnh
không tâm chờ hỏi thiền.
-
Nếu là một người trắng tay mà đi tu thì còn có thể nghĩ rằng đi tu
vì thời thế, hoặc tu vì miếng cơm manh áo, nhưng địa vị của một
ông Vua, sống trong cung vàng điện ngọc, lợi danh, tình ái cám dỗ
mà nhà vua quyết tâm dứt bỏ mới thật là hay. Ðiều nầy nói lên sức
mạnh phi thường của con người thoát tục. Vì thế Tuệ Trung Thượng
Sĩ đã làm bài kệ Xuất Trần như sau:
-
- Tằng vi vật dục dịch lao khu
-
Bài lạc trần hiêu thế ngoại du
-
Tán thủ na biên siêu Phật Tổ
-
Nhất hồi đẩu tẩu nhất hồi hưu
-
Dịch:
-
- Ðã từng ham muốn phải long đong
-
Ném quách mà ra khỏi bụi hồng
-
Buông thỏng bờ kia lên Phật Tổ
-
Một lần phủi giũ một lần xong.
-
Tâm lý
người đời ưa chạy theo vật dục trần gian nên phải khổ sở gian
truân. Nếu can đảm ném bỏ hết, vượt ra ngoài vòng trần lụy, quả
là can đảm phi thường. Có thế mới buông thõng tay bước lên ngôi
nhà Phật Tổ được. Nhưng phải mạnh dạn dứt khoát, một lần bỏ đi
không thèm ngó lại. Tâm tình của một con người yểu yểu, xìu xìu,
cắt không đứt, dứt không rời, bước tới một bước lùi hai bước,
con người như vậy làm việc gì cũng thế, khó mà thành công.
-
Trúc Lâm Ðại Sĩ cũng là con người như bao nhiêu con người khác,
nhưng Ngài đã một đi không bao giờ trở lại, vì thế mà Ngài đã
trở thành một con người hiếu thảo, một anh hùng của dân tộc, một
bậc thầy của chúng sanh. Vậy chúng ta phải cố gắng đi mãi trên
con đường tươi đẹp đã chọn dù phải vấp té trầy chân hay gặp
những hòn sỏi phiến đá ngăn trở. Nhưng dù có chướng ngại có khó
khăn bao nhiêu cũng không ngăn cản được bước chân của những tâm
hồn khoáng đạt của những con người nguyện quyết tiến đến chỗ an
lạc miên viễn mới thôi. Người tu là người thấy tương lai mình
xán lạn tươi vui, chớ không phải càng tu rồi càng tối tăm đâu
khổ. Chính mỗi bước tiến trên con đường chân thiện mỹ, là mỗi
bước chúng ta hướng về mục tiêu cao quý nhất, an lạc nhất của
đời mình. Vì vậy khi nói đến xuân chúng ta cảm nhận một niềm vui
tươi tràn đầy ở ngày mai.
-
- Thế số nhất tức mặc
-
Thời tình
lưỡng hải ngân
-
Ma cung
hồn quản thậm
-
Phật quốc
bất thắng xuân
-
Nghĩa là:
-
- Số đời
trong hơi thở
-
Biển bạc
lòng người tham
-
Cung ma
cai quản ngặt
-
Cõi Phật
Xuân nào hơn.
-
Qua bài
kệ tỉnh thức của Ðức Ðiều Ngự Giác Hoàng cho chúng ta thấy:
-
- Số đời
một hơi thở
-
Biển bạc
lòng người tham.
- Khi bản thân của
Ðức Ðiều Ngự, Ngài thấy cuộc đời ngắn ngủi trong hơi thở, thở ra
không hít vào là đã qua đời khác. Thế mà lòng người thì mênh
mông trong tham vọng. Ðược cái nầy muốn cái kia, được điều nầy
muốn điều khác... muốn mãi không thôi cho đến ngày tắt thở cũng
chưa dừng. Thế rồi người ta đuổi nhau mà tạo, giành ảnh hưởng,
danh lợi rồi tự mình chuốc khổ.
-
Hai câu
đầu của bài kệ đánh thức mạnh mẽ để chúng ta biết rằng cuộc đời
quá ngắn ngủi, không có gì quan trọng, là đáng kể. Nhưng lòng
tham của chúng ta quá lớn so với kiếp người ngắn ngủi của chúng
ta:
-
- Cung
ma cai quản ngặt,
-
Cõi Phật Xuân nào hơn.
-
Ngài Trúc Lâm Ðại Sĩ chỉ cho chúng ta thấy hai con đường. Nếu
chúng ta đuổi theo danh lợi tài sắc, rồi tạo bao nhiêu nghiệp
xấu ác thì chúng ta sẽ đi tới cung ma. Cung ma cai quản ngặt
không được bước ra khỏi cổng, còn bị hành ha tra khảo, đó là
cảnh khổ đau đen tối. Còn nếu trong cuộc sống ngắn ngủi nầy,
chúng ta biết tu, biết hướng về đạo, đem hết tâm mình tiến đến
chỗ giác ngộ thanh tịnh, đó là chúng ta trở về cõi Phật, tức là
trở về mùa Xuân đẹp đẻ không gì bì kịp.
-
Vì thế
Ngài Trúc Lâm Ðầu Ðà khuyên chúng ta phải nhờ hai con đường một
bên là cung ma đen tối đau khổ bị cai quản ngặt, một bên là cõi
Phật an vui tự tại lúc nào cũng là Xuân. Giữa hai con đường đó
chúng ta phải chọn một để đi. Chúng ta đang đi trên con đường rộng
thênh thang đẹp đẽ, tươi mát và an lạc, con đường Xuân tức là con
đường về cõi Phật.
-
Qua hình
ảnh của Trúc Lâm Ðại Sĩ, cho chúng ta một bài học hết sức cao quý:
Sống ngay trong trần tục mà khéo biết đạo vẫn thấy an vui. Duyên
cảnh đổi thay tùy thời linh động, như đói thì ăn mệt thì nghỉ,
đừng cố chấp, cứng nhắc mà tự khổ đau. Phật đã sẳn nơi ta khỏi
phải nhọc nhằn sang đông tìm tây. Cái khôn ngoan khéo léo của
chúng ta là cái đối cảnh tâm không động, chính nơi đây là Thiền
rồi. Người học đạo nhận thấy Phật đã sẳn nơi tâm mình, song muốn
Phật hiện ra thì tâm đừng chạy theo cảnh. Ðây là lối tu thật đơn
giản, thật cũ thế mà người đời khó tin, khó nhận.
-
C- Kết
Luận
-
Bàn về
vua Trần Nhân Tông, lúc còn là một ông vua, Nhân Tông đã trở
thành sợi dây liên lạc kết chặt lòng dân, lãnh đạo quân dân Ðại
Việt vượt qua bao khó khăn đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi huy
hoàng. Có được như vậy là nhờ ở nhà vua có đủ các đức tính:
Khoan, nhân, trí, dũng. Ở điểm nầy chúng ta thấy các vị vua dưới
thời Trần gần như ai cũng có. Ðến khi xuất gia, cuộc đời của
Trúc Lâm cũng là một cuộc đời tích cực. Nói về khía cạnh của xã
hội, ngài đã có một ý định xây dựng nền hòa bình Chiêm Việt lâu
dài. Còn nói về khía cạnh Giáo Hội thì ngoài những mùa kiết hạ
an cư tại các am Tử Tiêu, Ngọa Vân, Thạch Thất, Tri Kiến hay các
Chùa Vĩnh Nghiêm và Siêu Loại, ngài còn thường vân du hoằng hoá
đây đó. Ngài đi đến đâu cũng được dân chúng ái mộ, khâm phục và
lời khuyên của vua có tác dụng lớn. Thập Thiện chính là giáo lý
nhập thế căn bản của Ðạo Phật, lấy giáo lý Thập Thiện làm cơ bản
cho đạo đức xã hội, Trúc Lâm đã có ý muốn xây dựng một xã hội
trên nền tảng luân lý Ðạo Phật. Một ông vua con ngồi trên ngôi
ủng hộ Phật Giáo, một ông vua cha làm tăng sĩ chu du trong quần
chúng, sự kiện nầy thật đặc biệt chưa từng có trong lịch sử. Dù
có ý thức hay không, Trúc Lâm cũng đã góp phần vào việc củng cố
triều đại và chế độ bằng những công tác hành đạo tích cực trong
nhân gian. Như thế có thể nói Phật Giáo Trúc Lâm là một nền Phật
Giáo nhập thế, liên hệ mật thiết tới chính trị, phong hóa và xã
hội.
-
Qua các văn kiện lịch sử cho chúng ta thấy khá đầy đủ chân tướng
của các vị vua Thiền Sư Nhà Trần, như Trần Thái Tông, và Trần
Nhân Tông. Ðại lược tất cả các sử gia, kể cả những sử gia có
khuynh hướng coi trọng Nho Giáo nhưng đả kích Phật Giáo cũng đều
công nhận các vị vua Thiền Sư của triều đại nhà Trần là hiền
nhân quân tử, văn võ kiêm toàn, là người có đủ khoan, nhân, và
độ lượng của bậc đế vương thật đáng khen.
-
-
Tài Liệu Tham Khảo
-
- Văn Hoá Việt Nam
-
- Thiền Sư Việt Nam
-
- Bước Ðầu Học Phật
-
- Am Mây Ngủ
-
- Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
-
- Khóa Hư Lục Trần Thái
Tông
-
- Thiền Học Trần Thái
Tông
-
- Việt Nam Phật Giáo Sử
Lược.
-
Trang Nhà /
Mục Lục Xuân / Xem Trang Kế Tiếp
|
|