-
Ngựa là một con thú được thuần hóa sớm và hiện diện khá thân
thiết trong đời sống nhân loại, bằng chứng là tiền nhân của
chúng ta đã liệt kê nó vào trong lục súc ố sáu con vật nuôi
quanh quẩn trong nhà. Thuở chưa có máy móc, ngựa được xem như là
phương tiện di chuyển tiện lợi nhất, có thể tương đương với một
chiếc xe “Cub” hiện đại, nếu không nói là tiện lợi hơn vì nó dư
sức vượt núi băng ngàn, phóng qua nhiều chướng ngại vật, tự động
chạy về “ga-ra” một mình mà không cần thay đồ phụ tùng hay vô
dầu mỡ chi cả. Ðó là chưa kể đến khả năng có thể sinh sôi được
nhiều chiếc “Cub con” khác! Ðến nỗi, khi cơ giới xuất hiện,
người ta vẫn đo sức máy bằng sức ngựa ố mã lực ố danh từ được
góp mặt trên các tờ kinh cổ. Hàng Phật tử năm châu chúng ta, ai
mà chẳng tri ân chú ngựa Kiền Trắc, sinh vật đã chở Ðức Ðạo Sư
vượt hoàng thành vào một đêm tối mùa Xuân, mở đầu chuyến đi lịch
sử, với chàng Sa Nặc bám lủng lẳng ở đằng đuôi.
-
Sau khi thành đạo, trên các nẻo đường du hóa, có hơn một lần Ðức
Ðạo Sư đã mang loài ngựa ra làm hình ảnh ví dụ để huấn thị hàng
môn đệ:
-
“Này các Tỳ kheo! Trên đời này có bốn loại ngựa hay:
-
1- Hạng ngựa vừa thấy bóng roi đã chạy, như người vừa nghe nhắc
rằng có ai đó mệnh chung liền tỉnh ngộ tu tập và đạt kết quả
tốt.
-
2- Hạng ngựa không sợ bóng roi, chỉ sợ gậy (có đóng đinh nhọn)
thúc vào mông, giống như người vừa thấy ai đó mệnh chung, liền
tỉnh ngộ, tinh cần tu tập và đạt kết quả tốt.
-
3- Hạng ngựa đợi gậy đâm vào thịt mới sợ, như hạng người khi tận
mắt thấy thân nhân mình mệnh chung, liền tỉnh ngộ, tinh cần tu
tập và đạt kết quả tốt.
-
4- Hạng ngựa đợi đến lúc gậy thúc thấu xương mới sợ, như hạng
người khi tự thân bị bệnh khổ mới tỉnh ngộ, tinh cần tu tập và
đạt kết quả tốt”.
-
(Tương Ưng ố Kinh Gậy thúc ngựa)
-
Cuộc sống rày đây mai đó, gần gũi với thiên nhiên, loài người,
cùng thú vật của Ðức Phật đã khiến cho các bản kinh thời nguyên
thủy mang rất nhiều hình ảnh sống động của thế giới hiện thực.
Nhờ vậy loài ngựa đã in dấu chân rải rác trên các tờ lá bối.
Chẳng hạn như: “Hôm nọ, có một chàng trai tên Kesy đến viếng
Phật. Biết anh làm nghề luyện ngựa, Ðức Ðạo Sư bèn hỏi thăm anh
về khả năng chuyên môn. Nghe đúng sở trường, Kesy thao thao
giảng giải về bí quyết nghề nghiệp của mình: - Bạch Thế Tôn, con
thường chia ngựa ra làm bốn loại:
-
1- Loại được nhiếp phục bằng lời mềm mỏng.
-
2- Loại được nhiếp phục bằng lời thô ác.
-
3- Loại được nhiếp phục bằng lời mềm mỏng lẫn thô ác.
-
4- Loại bất trị, không thể nhiếp phục nổi. Với hạng này chỉ còn
cách đem giết thịt để khỏi mất danh dự của nhà luyện ngựa”.
-
Xong, Kesy hỏi Phật về cách nhiếp phục hàng môn đệ. Ðức Ðạo Sư
đáp rằng, Ngài cũng chia hàng đệ tử ra làm bốn loại:
-
1- Hạng người được nhiếp phục bằng lời mềm mỏng: khi được chỉ
dạy về các việc thiện của thân, khẩu, ý cùng các quả báo tương
ứng ở cõi trời, người, họ liền tinh cần tu tập.
-
2- Hạng người được nhiếp phục bằng lời cứng rắn: khi được chỉ
dạy về các hành động bất thiện của thân, khẩu, ý, cần nên tránh
vì chúng sẽ đưa đến quả báo tương xứng nơi ba đường ác.
-
3- Hạng người được nhiếp phục bằng lời mềm mỏng lẫn cứng rắn:
bao gồm cả hai lối trên.
-
4- Hạng người bất trị, không thể nhiếp phục bằng lời mềm mỏng
hay cứng rắn, thì đành phải giết đi.
-
Nghe đến đây, Kesy hốt hoảng hỏi: - Nhưng, bạch Thế Tôn, tại sao
lại giết đi? Há không phải Ngài thường khuyên răn hàng môn đệ
nên trì giới bất sát đó sao?
-
- Này chàng trai, trong giáo pháp của ta, giết đi chỉ có nghĩa
là không thèm nói tới, vì đương sự không xứng đáng để bỏ công
dạy dỗ, nhắc nhở nữa.
-
(Tương Ưng Bộ kinh)
-
Trong thời buổi ngày nay, nếu bị ví với ngựa thì thật là đau
khổ, nhất là đối với những chúng sanh chưa sạch phiền não, còn
đầy đủ hỷ, nộ, ái, ố và kiêu hãnh như chúng ta chẳng hạn. Vậy
mà, nào đã hết đâu, Ðức Phật còn chia hạng người bất trị trên
thành tám loại, tương ứng với tám hạng người hung dữ. Ðó là
những tôn giả nào, khi được bạn bè nhắc nhở và phê bình, chỉ cho
khuyết điểm trong các cuộc họp mặt, lại tỏ thái độ bất mãn chống
đối... thay vì tri ân người chỉ dạy và cố gắng sửa đổi, như sau:
-
1- Hạng người ưa cãi, chối bai bải được coi như giống con ngựa
dữ bị tra hàm thiếc và roi mà vẫn hục hặc không chịu bước đi.
-
2- Hạng người cứ đứng lầm lì, không thèm ừ hử, xác định xem
khuyết điểm vừa nêu là đúng hay sai, giống như con ngựa dữ dựa
vào hai bên gọng xe, không chịu đi.
-
3- Hạng người thích trả đũa, bới móc trở lại lỗi lầm của người
cử tội mình, giống như con ngựa dữ ngã nhào xuống đất, trầy đầu
gối, làm gãy gọng xe.
-
4- Hạng người chê bai cử tội mình, cho là ngu dốt, không xứng
đáng để mắt tới, như con ngựa dữ chạy thụt lui không chịu tiến
bước.
-
5- Hạng người đem lòng oán hận, thù vặt người chỉ lỗi mình, như
con ngựa chạy bừa, bất kể đường xấu, làm cho xe hư bánh gãy
trục.
-
6- Hạng người không sợ lầm lỗi, chẳng biết ngán ai, bỏ cuộc họp
ra ngoài, giống như con ngựa dữ bất kể nài và roi, ngậm hàm
thiếc chạy càn vô phương cứu chữa.
-
7- Hạng người tỏ thái độ giận dữ, khoa tay múa chân, la hét và
thốt ra lời thô ác... giống như con ngựa dữ dựng ngược hai chân
và sùi bọt mép.
-
8- Hạng người bướng bỉnh không muốn ai đụng chạm đến mình, nên
khi bị phê bình liền cởi áo vứt ra trước cuộc họp, lớn tiếng dọa
từ bỏ đoàn thể để... để vạ cho người xây dựng mình.
-
(Theo Vinayapitaka)
-
Nhưng nếu cố gắng... hạ hỏa và dẹp đi chút đỉnh tự ái, bình tâm
nhìn lại, chúng ta phải xấu hổ mà thú nhận rằng, tám chú ngựa
hung hăng trên đều có đủ mặt, đứng lấp ló trong các ngõ ngách
của tâm thức mỗi người. Chỉ cần mất bình tĩnh một chút là ta sẽ
lâm vào tình trạng: “Cũng như ngựa dữ không cương, tất đưa người
cỡi thẳng xuống hố sâu” (Kinh Di Giáo). Những tội phạm hình sự
nhan nhản trên các trang thông tin đại chúng đều thuộc vào loại
người ngồi nhằm xe thổ mộ có ngựa bị... đứt dây cương kiểu này.
Và không phải là chuyện khi khổng khi không mà Ðức Phật đã ví sự
xáo động, bất tịnh của tâm thức loài người với khỉ và ngựa, mà
danh từ chuyên môn gọi là “tâm viên ý mã”. Còn hơn thế nữa, vó
câu của chú ngựa ý này đã dong ruổi đường xa trên những đôi hia
bảy dặm, không có phút giây nào ngơi nghỉ: băng ngàn vượt suối,
tung vó khắp mười phương thế giới, bay bổng lên trời, chui tọt
xuống đất, lăn vào quá khứ, vươn mình đến tương lai... Nhốt được
chú ngựa hoang đàng này vào chuồng, tra hàm thiếc, dùng roi gậy
điều phục là việc làm suốt cả đời người chủ những người con
Phật, dù ở tận thâm sơn cùng cốc hay giữa phố thị kinh kỳ. Cuộc
chiến đấu thật là gian khổ vì nài và thú đôi khi chỉ là một, nó
đòi hỏi một công lực thâm hậu, như lời xác định của Ðức Ðạo Sư:
“Người nào ngăn được cơn giận dữ nổi lên như dừng được chiếc xe
đang chạy ngon trớn mới thật là kẻ chế ngự giỏi. Ngoài ra chỉ
là kẻ cầm cương hờ mà thôi” (Pháp Cú, câu 222). Khó khăn
đấy, nhưng không phải là bất khả, vì trong hai nghìn năm lịch
sử, đã có biết bao trang dũng sĩ chiến thắng trở về, như lời tán
dương của Ðức Ðạo Sư:
-
- Tinh cần giữa phóng dật
-
Tỉnh thức giữa quần mê
-
Bậc trí như tuấn mã
-
Bỏ xa con ngựa què
-
(Pháp Cú ố câu 29)
-
Lịch sử Phật giáo còn ghi lại câu chuyện của Thiền sư Ðạo Nhất
(709-788), một vị cao tăng Trung Hoa thời Ðường, đã được thời
nhân gọi là Mã Tổ, một phần vì sư họ Mã, một phần vì lời tiên
đoán của Lục Tổ Huệ Năng với vị thầy của ông, về sự xuất hiện
của Ðạo Nhất: “Dưới chân ngươi sẽ có con ngựa to đạp chết người
trong thiên hạ”. Chúng ta hãy nghe qua cách điều phục ngựa của
sư.
-
Sư thường ngồi thiền mỗi ngày. Hôm nọ, Thiền sư Hoài Nhượng đến
thăm, hỏi: - Ðại đức ngồi thiền để làm gì?
-
- Thưa, để làm Phật.
-
Thiền sư Hoài Nhượng bèn lấy một cục gạch đến trước am sư ngôi
mài. Thấy lạ, sư hỏi:
-
- Thầy mài gạch để làm gì?
-
- Ðể làm gương.
-
Gạch đấy thể nào làm gương được?
-
- Ngồi thiền đâu thể thành Phật nổi?
-
- Vậy phải làm thế nào mới được?
-
- Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, nên đánh xe hay đánh trâu?
-
Sư lặng thinh, ngài Hoài Nhượng dạy tiếp: - Ông học ngồi thiền,
hay học làm Phật? Nếu học ngồi thiền, thiền không phải ngồi nằm.
Nếu học làm Phật, Phật không có tướng nhất định. Ðối pháp không
trụ, chẳng nên thủ xả. Ông nếu ngồi để làm Phật tức là giết
Phật, nếu chấp tướng ngồi thì chẳng đạt được ý kia.
-
Sư nghe đến đấy liền ngộ.
-
(Tục tạng kinh)
-
“Mã Tổ ngộ cái gì?” là một câu hỏi khó giải đáp đối với các nhà
học Phật. Theo phong cách nhà thiền thì “đáp tại vấn xứ”, nghĩa
là người hỏi phải tự tìm ra lời đáp chứ không ai có thể trả lời
giùm mình được.
-
Ðể mừng Xuân con ngựa, chúng tôi xin mạn phép góp nhặt những chú
ngựa trong kinh, làm món quà năm mới, thân ái gởi đến bạn đọc.
Chúc quý vị một năm an lành và sớm tìm ra câu giải đáp.