|
-
Các Loại Bánh
-
Trong Nhân Gian
-
Thông Trí
-
-
-
Thức ăn để nuôi sống con người, đại loại chúng ta có thể chia ra
làm hai nhóm: Nhóm món ăn chính và nhóm món ăn phụ. Các món ăn
chính thường dùng của người Á Ðông, nhất là người Việt Nam, nếu
là ăn mặn thì có cơm, cá, thịt, rau tươi thường dùng trong bửa
ăn chính gọi là bữa cơm. Còn nếu là ăn chay thì có cơm, rau cải,
đậu khuôn..v..v.. Các món ăn phụ như các loại quà bánh thì bao
gồm nhiều loại món ăn như: Bánh, Bún, Chè, Xôi, Cháo, Miến, Mứt,
Kẹo..v..v..trong đó đủ các dạng loại thực phẩm với đủ các hình
thức, hương vị khác nhau. Nhưng dầu sao đi nữa thì cũng đều là
món ăn chơi, ăn thêm, ăn cho vui ngoài các bữa ăn chính trong
ngày.
-
Trong chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, các loại
quà bánh đã trở nên quen thuộc với đời sống hằng ngày của ngưòi
Việt Nam ta. Những duyên cớ, ý nghĩa ban đầu khi biến chế ra,
những thói quen và ý niệm khi xử dụng, những hình thức văn nghệ,
văn hóa liên quan tới nó như câu đố, câu ví, câu vè, lời hát,
tục ngữ, ca dao, ngạn ngữ..v..v.. đã trở thành những nét độc đáo
trong nền văn hóa dân gian Việt Nam:
-
Bánh Tổ
-
Là loại bánh được làm bằng bột nếp, hình dạng rất
đơn sơ, không có nhân, không gói kín. Bánh làm thành hình tròn,
độ dày, to, nhỏ tùy ý. Tuy nhiên, nhỏ nhất cũng bằng miệng chén,
và độ dầy thường thường là một đốt lóng tay. Theo truyền thuyết
bánh tổ có một lịch sử xa xưa, lâu đời nhất trong danh mục các
loại bánh cổ truyền dân tộc Việt Nam. Nếu có lúc dân tộc ta nói
bánh dày và bánh chưng là hai loại bánh được sáng chế từ thời
Vua Hùng Vương thứ sáu, thì cũng theo truyền thuyết nguồn gốc
bánh tổ còn xa xưa hơn nhiều. Theo dân gian truyền lại, thời
thượng cổ, vua Tổ dân Lạc Việt là Lạc Long Quân, sau khi kết
duyên với bà Âu Cơ, lúc mới về xứ Lạc Việt, bà Tổ bảy đời của
Vua Hùng thấy nông dân cày cấy được nhiều lúa nếp dẻo thơm,
trồng được nhiều cây mía ngọt ngào mà chưa làm được món ăn gì
khác lạ bằng những thứ nông sản ấy, nên bà Tổ Âu Cơ mới lấy gạo
nếp đem ngâm, giã thành bột mịn, lấy mía ép ra nước ngọt rồi
nhào luyện với bột cho dẻo đem hấp chín, làm thành một loại bánh
uôi vừa thơm dẻo, vừa ngọt ngon. Sau đó bà đem cách làm bánh chỉ
dạy lại cho mọi người, và từ đó loại bánh uôi trở thành món bánh
đầu tiên của dân tộc Việt Nam ta. Thứ bánh đầu tiên do bà mẹ tổ
của dân tộc sáng chế và truyền dạy cho nên được mọi người trân
trọng đề cao hết mực, do đó nó có tên là bánh tổ.
-
Bánh Âm:
-
Còn
gọi là Bánh Gio hay Bánh Tro là món bánh cổ truyền của người dân
ở các tỉnh miền Bắc. Bánh làm bằng gạo nếp ngâm nước tro của một
số cây cỏ và nước vôi trong rồi dùng lá tre non gói lại, luộc
trong nước có pha chất nước tro ngâm nếp. Sau khi luộc chín, nếu
bóc ra trông thấy trong suốt là bánh ngon, còn ngược lại nếu còn
thấy hột nếp thì bánh chưa đạt được yêu cầu. Vì thế có câu:
-
-
Bánh âm trong hổ phách
-
Dẫu
có đắt cũng mua.
-
Và
cũng vì ăn vào dễ tiêu nên trong nhân gian có câu:
-
-
Bánh âm rưới mật ngọt ngào
-
Vừa
thơm vừa mát ăn vào dễ tiêu.
-
Ở
các tỉnh miền Nam, bánh tro được tập trung vào dịp Tết Ðoan Ngọ.
Theo quan niệm của ông bà chúng ta ngày xưa tháng năm âm lịch là
tháng khí hậu độc địa, nhất là mùa Hè oi bức nên dễ sinh bệnh
dịch. Muốn phòng ngừa, phải dùng các loại lá cây thuốc để nấu
nước uống, nước xông, tắm gội. Ðối với các thức ăn cũng biến chế
cho hấp thụ các dược tính có tác dụng dễ tiêu, giải nhiệt, nên
được hiểu nôm na là diệt trừ sâu bọ trong cơ thể con người.
-
Bánh Âm hay Bánh Gio miền Bắc, và bánh Tro miền Nam tuy tên gọi
có khác nhau, nhưng ngyên liệu chính vẫn nếp ngâm nước tro.
-
Bánh Bèo:
-
Loại bánh nầy làm bằng bột gạo tẻ hòa nước, ai ai cũng biết làm,
tuy nhiên tùy theo từng vùng mà độ lớn nhỏ khác nhau.
-
Ở
Miền Bắc: Bánh bèo thường đổ khuôn lót lá chuối, làm rất to,
hình sáu cạnh dài, trông gần giống như bàn tay, và cũng to như
bàn tay, chiều dày độ khoảng chừng một đốt lóng tay.
-
Ở
các tỉnh miền Trung, đặc biệt là Bình, Trị, Thiên, bánh bèo làm
rất nhỏ, chỉ to hơn đầu ngón tay một chút, hình tròn lõm ở giữa.
Chỗ lõm đó thường rắc tôm khô giã nhỏ màu đỏ, nên thường gọi là
bánh bèo tôm chấy hay bánh bèo Huế.
-
Ở
các tỉnh miền Nam, bánh bèo làm to hơn ở Huế một chút, thường đổ
bằng trôn bát ăn cơm. Hình dáng cũng tròn, lõm ở giữa, và cũng
mỏng như bánh bèo Huế. Ðặc biệt các tỉnh Nam bộ do có nhiều dừa,
nên bột bánh bèo thường thêm nước cốt dừa cho béo. Ngoài ra còn
có loại bánh bèo ngọt, nghĩa là bột làm bánh được pha thêm
đường.
-
Bánh bèo cũng là loại bánh có từ lâu đời trong dân gian Việt Nam
nên lẽ dĩ nhiên cũng được mọi người ưa thích, nên có câu:
-
-
Con quạ nó đậu chuồng heo
-
Nó
kêu bớ mẹ bánh bèo chín chưa
-
-
Bánh bèo đã chín hồi trưa
-
Mầy
chưa xúc miệng tao chưa đưa bánh bèo.
-
Bánh Bò:
-
Là
một thứ bánh cổ truyền của dân tộc Việt Nam, bánh thường làm
bằng bột gạo tẻ, hay bột sắn, ngào lẫn với men rượu ủ cho bột nở
ra rồi đêm hấp chín. Khi hấp chín độ nở rất lớn, chiếc bánh xốp
như phổi bò, vì vậy gọi là bánh phổi bò, về sau bánh phổi bò
được gọi tắt là bánh bò. Bánh bò nguyên thỉ nguời ta thường làm
bột gạo tẻ, nhưng về sau cũng có thể dùng các loại bột khác như
khoai lang, bột sắn, và ngay cả bột bắp cũng có thể dùng làm
bánh bò. Người dân thường dùng món bánh bò quen thuộc nên trong
nhân gian đã có điệu hát lý gọi là Lý Bánh Bò:
-
-
Hai tay bưng dĩa bánh bò
-
Giấu cha, giấu mẹ cho trò đi thi.
-
Bánh Bỏng:
-
Là
loại bánh cổ truyền rất quen thuộc ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam.
Bánh thường làm bằng thóc đem rang, khi rang nóng hột thóc nổ
bung lớp trấu ở ngoài tạo thành những hoa màu trắng nhỏ, vì thế
bánh bỏng còn có tên là bỏng nẻ hay bỏng nổ là vì vậy.
-
Sau
khi sàng sẩy sạch vỏ trấu, người ta nắm thành từng nắm tròn vo,
trở thành một món quà gọi là bánh bỏng bộp, vì ăn nó xôm xốp. Có
những nơi người ta đem bỏng nẻ trộn với đường thắng, hoặc kẹo
mạch nha rồi mới nắm tròn. Tương truyền loại bỏng nổ nầy có từ
thời Vua Hùnh Vương, thời đó khi giặc tràn vào xâm lược, dân
làng lại đem thóc nếp chế thành bánh bỏng để trai tráng trong
làng dùng làm lương khô trong lúc chiến đấu. Sau này món bánh
bỏng trở thành món quà trong dân gian.
-
Tại
các tỉnh miền Nam, bánh bỏng được gọi chung là bánh cốm. Món cốm
giã bằng lúa nếp rang chín gọi là cốm dẹp.
-
Món
bánh bỏng hay món cốm nầy đã trở thành những thứ quà trong nhân
gian vì thế có câu hát ru:
-
-
Cái ngủ mầy ngủ cho ngoan
-
Ðể
chị mua bánh chè lam đem về
-
Chè
lam mà rắn em chê
-
Chị
mua bỏng bộp đem về em ăn.
-
Bánh Bột Lọc
-
Bánh Bột lọc là loại bánh quà trong dân gian được phổ biến trước
tiên ở các tỉnh miền Trung, tuy nhiên ở nhiều nơi khác trong
nước ta cũng có làm. Bánh được làm bằng bột sắn mì, hoặc bột
năng. Hình dáng bánh giống như hình bán nguyệt, nhỏ cở hai đốt
ngón tay. Nếu là bánh mặn thì nhân người ta làm bằng tôm thịt,
để trần rồi luộc. Nhưng nếu là bánh chay thì người ta làm bằng
nhân đậu xanh hoặc củ sắn, cà rốt, nấm mèo thái mỏng. Sau khi
luộc xong, bánh chín trong suốt có thể nhìn thấy nhân, vì thế
còn có tên là bánh lọc, hoặc là bánh trong. Ðối với các bà nội
trợ vì để cho chồng thương, cưng quí nên cũng tùy theo khả năng
hiểu biết của mình mà chăm lo việc nhà nên trong dân gian cũng
có câu:
-
-
Khéo thì bánh lọc bánh trong
-
Vụng thì bánh đúc cho chồng nó yêu.
-
Bánh Canh
-
Là
món quà bánh quen thuộc của các tỉnh miền Nam. Bánh canh được
làm bằng bột gạo pha bột sắn, người dùng tay vò nên hình dạng to
bằng đầu chiếc đủa, hai đầu nhỏ, trông giống như con suốt dệt
cửi. Trong lúc vò bằng tay nên sợi bánh canh, cộng ngắn, cộng
dài không đều, và cũng vì món ăn nầy xuất phát từ các tỉnh miền
Nam quê hương của lúa gạo, và cũng vì quá quen thuộc với mọi
người nên trong dân gian cũng có điệu hát gọi là Lý Bánh Canh:
-
-
Bánh canh cộng ngắn cộng dài
-
Bánh tầm xe cộng dài cộng ngắn
-
Xứ
Cần Thơ gạo trắng nước trong
-
Ai
về xứ Bạc thong dong cuộc đời.
-
Bánh Chè Lam
-
Là
loại bánh làm bằng bột bỏng nẻ(tức là loại bột người ta lấy từ
thóc đem rang cho nổ, sau đó sàng sảy hết trấu thóc, rồi đem giã
thành bột), ngào với mật mía trộn thêm đậu phộng rang, gừng băm
nhỏ rồi hấp lên, sau đó cán cắt nhỏ thành từng miếng mỏng to,
nhỏ nhiều cỡ khác nhau. Theo tích xưa, lúc Vua Lê Ðại Hành chiến
đấu với giặc nhà Tống, có bà cung phi của nhà Vua là Ðô Hồ phu
nhân giúp đỡ nhà vua lo việc quân lương, Bà nghĩ ra cách giã bột
bỏng nẻ trộn với mật mía làm lương khô cho quân lính dùng trong
lúc đánh giặc. Sau ngày thắng giặc, người người học theo cách ấy
làm bánh, tuy nhiên nhờ có cải tiến đôi chút nên bánh trở thành
món quà ngon, và kể từ đó bánh được lưu truyền trong nhân gian.
-
Bánh Cuốn
-
Món
quà nầy được làm bằng bột gạo tẻ, hòa loãng với nước tráng mỏng
trên mặt khuôn bằng vải mịn đặt trên nồi nước sôi, để hơi nóng
làm chín bánh. Loại bánh cuốn nầy có nhiều phẩm cấp khác nhau,
như bánh cuốn chay thì người ta làm bằng nhân chay. Bánh cuốn
mặn thì người ta làm bằng nhân thịt
-
Loại bánh cuốn, nó là biến dạng bánh ướt, vì thật ra nó chính là
bánh tráng còn ướt. Về sau nầy vì muốn thay đổi khẩu vị nên
những người chuyên lo phục vụ về ăn uống họ nghĩ cách biến chế,
có cuốn nhân nên có tên là bánh cuốn. Ở các tỉnh miền Nam nước
Việt bánh cuốn vẫn mang cái tên là bánh ướt. Trontg nhân gian có
điệu hát dỗ em:
-
-
Em ơi em ngủ cho ngoan,
-
Chị
mua bánh ướt ở làng bên sông.
-
Bánh Dầy
-
Là
loại bánh được làm bằng gạo nếp cái, hấp thành xôi rồi giả
nhuyển, vắt thành bánh. Bánh dầy không gói kín chỉ lót lá chuối
tươi ở phía dưới. Bánh dầy có nhiều cỡ lớn nhỏ, cỡ lớn nhất chỉ
là vừa lòng bàn tay, và độ dầy khoảng chừng một đốt ngón tay.
Bánh dầy không có nhân gọi là bánh dầy trắng. Ngoài ra người ta
còn biến chế ra các loại bánh dầy đường, bánh dầy đậu, là những
thứ có nhân. Theo quan niệm xưa bánh dầy tiêu biểu cho bầu trời
cao rộng. Nó có ngụ ý công lao của cha mẹ, ông bà , tổ tiên đối
với con cháu giống nòi lớn như bầu trời cao cả.
-
Bánh Chưng
-
Là
loại bánh được làm bằng gạo nếp, nhân đậu xanh và thịt lợn,
ngoài gói bằng lá chuối tươi, hình dáng của nó vuông. Theo quan
niệm xưa hình vuông tiêu biểu cho mặt đất, trong đó sản sinh ra
mọi thứ vật quí, cầm thú. Vì bên ngoài gói lá chuối tươi, nên
sau khi luộc màu xanh của lá chuối thấm vào bánh nên bên ngoài
lớp bánh cũng có màu xanh trông rất đẹp. Màu xanh nầy tiêu biểu
cho rừng cây, ruộng lúa, lại chứa giữ, cỏ cây để nuôi sống, giúp
đỡ loài người. Tương truyền bánh chưng có từ thời Vua Hùng Vương
thứ 18 và được dân gian lưu truyền cho đến bây giờ. Trong dịp
Tết Nguyên Ðán bánh chưng là món ăn quan trọng và tiêu biểu nhất
về cả ý nghĩa và thực tế của nó. Bởi vậy có câu đối nói về hương
vị của ngày Tết rất hay:
-
-
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
-
Cây
nêu tràng pháo bánh chưng xanh.
-
Bánh Dẻo
-
Bánh dẻo và bánh nướng là hai thứ bánh được làm vào dịp Tết
Trung Thu, nên cũng có tên là Bánh Trung Thu. Bánh dẻo, vỏ bánh
được làm bằng bột nếp rang chín, thấu với nước đường trắng đậm
đặc, có pha thêm dầu hoa bưởi, làm thành bởi một thứ bột thơm
ngon. Nhân bánh dẻo có nhiều loại như đậu xanh, hột sen, hoặc
nhiều thứ trộn nhau gọi là ngũ nhân, thập cẩm, nhưng tất cả đều
là nhân ngọt. Bánh dẻo có hai dạng, dạng vuông dẹt giống như cái
bánh chưng, và dạng tròn dẹt giống như cái bánh dầy. Tất cả các
loại bánh dẻo dù hình thức vuông hay tròn cũng đều làm với độ
dầy trên một đốt ngón tay. Trên mặt in nhiều hoa văn trang trí
rất đẹp như: Hoa, lá, chim, thú ..v..v.. Bánh dẻo do người Việt
Nam chúng ta trong quá trình tiếp xúc với người Hoa đã học được,
rồi lựa chọn những cái khéo cái tinh hoa của họ rồi cải tiến cho
hợp với khẩu vị và sở thích riêng của người Việt và phát huy
theo tinh thần của người Việt Nam, cuối cùng trở thành một sở
trường truyền thống của dân tộc Việt Nam lâu đời.
-
Trong dịp Tết Trung Thu, khắp nơi trên nước Việt Nam đều có làm
bánh dẻo, nhưng tập trung nhiều hơn hết, nếu ở ngoài Bắc thì là
ở các phố Hàng Ðường, Hàng Buồm, Hà Nội. Còn nếu trong Nam thì ở
khu vực Sài Gòn Chợ Lớn.
-
Bánh Ða
-
Là
thứ bánh rất quen thuộc của người Việt Nam ta. Bánh được làm
bằng bột gạo tẻ hòa nước, có nơi làm bằng bột mì, bột khoai
lang, hoặc bột khoai tây tráng mỏng lên khuôn bằng vải, hấp chín
rồi lấy ra phơi khô. Người miền Bắc gọi là bánh đa, nhưng người
ở trong miền Nam thường gọi là bánh tráng. Khi ăn người ta chỉ
cần đem nướng hoặc hoặc nhúng nước cho mềm mà ăn. Chữ bánh đa có
hai nguồn gốc:
-
-
Chữ đa có nghĩa là nhiều, nghĩa là khi làm người ta chỉ cần một
ít bột, mà người ta thu rất nhiều bánh. Nên gọi là bánh đa.
-
-
Vì thứ bánh ấy mỏng lại cứng, cong queo chư chiếc lá đa nên gọi
là bánh lá đa, về sau gọi tắt là bánh đa.
-
Sự
biến chế trong khi là bánh đa, người ta để thêm mè trắng hoặc mè
đen. Nếu là bánh đa ngọt cho thêm đường vào bột trước khi tráng.
-
Bánh Ðúc
-
Là
loại bánh dân gian quen thuộc mộc mạc ở miền Bắc. Bánh đúc được
làm bằng gạo tẻ xay thành bột, có pha một ít nước vôi lắng
trong. Loại bánh nầy khi còn nóng thì lỏng, khi đổ vào đồ đựng
như thế nào thì khi nguội lấy ra hình dạng giống như thế đó, nên
có tên là bánh đúc.
-
Ở
trong miền Nam món bánh đúc được biến chế khác hơn miền Bắc,
nghĩa là trong bột có pha thêm nước lá dứa để lấy màu xanh và
mùi thơm lá dứa. Hoặc có để thêm đậu phộng tươi, nếu là đậu
phộng khô thì phải ngâm cho mềm. Tuy nhiên dù cho biến chế như
thế nào đi nữa thì loại bánh đúc cũng là loại không nhân, không
gói kín, nên ngoài thế nào trong cũng thế ấy. Bánh đúc là loại
bánh rất mềm, dể nát, dễ bễ, mà cũng là món ăn quen thuộc của
mỗi gia đình trong dân gian nên cũng có câu hát ví dành cho
những bà mẹ ghẻ con chồng:
-
-
Mấy đời bánh đúc có xương
-
Mấy
đời mẹ ghẻ mà thương con chồng.
-
Bánh Gai
-
Là
loại bánh được làm bằng bột nếp, nhưng có trộn lẫn bột của lá
cây gai, nên có màu đen nhánh. Bánh gai có nhân đậu xanh giã
nhuyển ngào đường, có nơi trộn thêm dừa nạo sợi, hoặc hột sen
cho ngon, và được gói bằng lá chuối. Loại bánh nầy ăn rất ngon,
nhưng lại cũng có thể để lâu được, vì bên ngoài áo, và trong
nhân bánh có nhiều đường nên không bị hư. Bánh gai cũng là loại
bánh được khắp nhân gian yêu chuộng nên cũng có những câu hát
ví:
-
-
Em đây như chiếc bánh gai
-
Áo
nâu phai nắng da thời lại đen
-
Ai
ơi ăn thử mà xem
-
Ăn
rồi mới biết rằng em ngọt bùi.
-
Bánh Hỏi
-
Là
một loại bún ngon làm bằng gạo tẻ nhưng sợi nhỏ hơn bún rất
nhiều. Người ta vắt thành từng miếng chiều rộng bằng ba ngón tay
rồi hấp chín. Loại bánh nầy rất quen thuộc ở các tỉnh miền Nam,
tuy nhiên tùy theo mỗi địa phương nên thực đơn cũng theo đó mà
thay đổi, và nó trở thành món quà đặc sản của mỗi địa phương đó:
-
-
Ai về sông Hậu, sông Tiền
-
Ghé ăn bánh hỏi Phong Ðiền, Cái Răng
-
Ai về thẳng đến Năm Căn
-
Ghé ăn bánh hỏi Sóc Trăng, Bảy Xàu
-
Mắm nêm chuối chát, khế, rau,
-
Tôm càng Ðại Ngải cặp vào khó quên.
-
Bánh Khoái
-
Loại bánh nầy ngày xưa trong dân gian Việt Nam
thường làm bằng bột khoai lang khô, cùng với đậu xanh đãi vỏ,
món bánh nầy rất quen thuộc với người dân ở miền Bắc. Bánh khoái
cũng có khi làm bằng bột gạo ngon, đặc sệt như bánh đúc nóng.
Khi ăn thì rắc đậu xanh nấu chín, giã tơi và đường cát vào. Bánh
khoái lúc nóng, nó hơi lỏng, phải múc vào bát, chén mà ăn nên có
nơi người dân cũng thường gọi là cháo khoái.
-
Nhìn chung chúng ta thấy món bánh khoái chính là
dạng đặc biệt của bánh đúc, tuy nhiên có thêm đậu xanh và đường
để cho ngon miệng:
-
- Mời khách ăn cháo khoái
-
Một bát rồi lại hai
-
Cứ thế mà lai rai
-
Ăn hoài không biết chán.
-
Bánh Khúc
-
Loại bánh nầy được xuất phát từ các tỉnh thuộc vùng
đồng bằng miền Bắc. Bánh được làm bằng sự pha trộn của tám phần
bột nếp, hai phần bột tẻ, trộn chung với năm phần rau khúc đã
luộc chín, vắt lấy nước. Ngoài ra, ngoài vỏ cũng có trộn với rau
khúc giả nhỏ, có lẽ vì vậy nên gọi là bánh khúc. Trong có nhân
đậu xanh giã nhuyễn, và thịt mỡ lợn trộn lẫn với tiêu. Chung
quanh vỏ bánh là xôi nếp trắng dẻo thơm, vì thế bánh đã thơm lại
càng thơm. Vì nó hơi cầu kỳ một chút cho nên nghe nói trong số
quà bánh dân gian Việt Nam, bánh khúc tương đối hơi đắt một
chút, nên những cô gái nhà nghèo thường luôn nhắc nhau khi họ ăn
hàng:
-
- Chị em ta bánh đa bánh đúc
-
Ai bánh khoái, bánh đúc mặc ai.
-
Bánh Rán
-
Là một loại bánh được làm bằng bột nếp, có nhiều nơi
có pha bột khoai tây có nhân đậu xanh, sau khi làm xong, người
ta có lăn hột mè trắng hoặc mè đen ở bên ngoài vỏ rồi rán dầu
cho vàng lên. Bánh rán có ba loại: Bánh rán mật, bánh rán đường
và bánh rán vừng. Ở miền Nam nước ta bánh rán còn có tên là bánh
cam, vì khi bánh được chiên lên sẽ có màu vàng như vỏ quả cam
chín.
-
Như trên, chỉ là một vài loại bánh tiêu biểu, tuy
nhiên nếu chúng ta chịu khó nhìn lại quá trình hình thành đất
nước, chúng ta sẽ thấy trong truyền thống quà bánh dân gian Việt
Nam rất là phong phú. Loại bánh nào cũng được người dân ba miền
mến chuộng, nên cũng từ đó những câu ca, tiếng hát, những bài
vè, bài hát lý được đặt ra để ca tụng, tán thưởng những sản phẩm
đặc thù ấy như sau:
-
- Bánh đứng đầu vè,
-
Ðó là Bánh Tổ.
-
Cái mặt nhiều lỗ,
-
Là
bánh Tàn Ong.
-
Ðể nó không đồng,
-
Ðó
là Bánh Tráng.
-
Ngồi lại đầy ván,
-
Nó
là Bánh Quy.
-
Sai
không chịu đi,
-
Ðó
là Bánh Bàn.
-
Trên đỏ dưới vàng,
-
Là
bánh Da Lợn.
-
Mây
kéo dờn dợn,
-
Là
bánh Da Trời.
-
Ăn
không dám mời,
-
Nó
là Bánh Ít.
-
Băng rừng băng rít,
-
Ðó
là Bánh Men.
-
Thấy mặt là khen,
-
Nó
là Xôi Vị.
-
Nhiều nhân nhiều nhị,
-
Là
bánh Trung Thu.
-
Vô
lửa nổi u,
-
Ðó
là Bánh Phồng
-
Ðem
thả giữa giòng,
-
Ðó
là Bánh Neo.
-
Ra
nắng dẻo queo,
-
Ðó
là Bánh Sáp.
-
Không ai dám xáp,
-
Ðó
là Bánh Xe.
-
Xỏ
lại tréo que,
-
Ðó
là Bánh Rế.
-
Ăn
rồi còn ế,
-
Ðó
là Bánh Dừa(Vừa)
-
Ăn
không có chua,
-
Ðó
là Bánh Tiêu.
-
Ðể
lâu nó thiu,
-
Vốn
là Bánh Ướt.
-
Chưa ăn giấu trước,
-
Nó
là Bánh Cam.
-
Bỏ
vô khám giam,
-
Ðó
là Bánh Còng.
-
Ôm
ấp vào lòng,
-
Nó
là Bánh Kẹp.
-
Xem
coi thật đẹp,
-
Ðó
là Bánh Chưng.
-
Chồng nói mới ưng,
-
Ðó
là Bánh Hỏi.
-
Ðêm
nằm mệt mỏi,
-
Ðó
là Bánh Canh.
-
Kéo
níu từng khoanh,
-
Ấy
là Bánh Tét.
-
Ráp
lại từng nét,
-
Nó
là Bánh Gừng.
-
Bước lên có từng,
-
Ðó
là Bánh Cấp.
-
Nằm
ngủ dưới thấp,
-
Là
Bánh Hạ Nhân.
-
Mình nó trợt trơn,
-
Ấy
là Bánh Lọt.
-
Ăn
thơm mà ngọt,
-
Là
Bánh Hoa Viên.
-
Ăn
khỏi trả tiền,
-
Ðó
là Bánh Bao.
-
Ðem
liệng đàng sau,
-
Là
Bánh Quai Vạc.
-
Trắng trong như bạc,
-
Là
Bánh Xu Xê.
-
Mặt
tràng ê hề,
-
Ðó
là Bánh Bún
-
Mình đen lốm đốm,
-
Là
Bánh Hạt Mè.
-
Thấy ai cũng kè,
-
Ðó
là Bánh Dập.
-
Người thích mặt chắc,
-
Ðó
là Bánh Dầy.
-
Nói
nghe rất hay,
-
Ðó
là Bánh Mật.
-
Bụng no ấm cật,
-
Ðó
là Bánh Âm.
-
Mình mẩy trắng trong,
-
Là
Bánh Bột Lọc.
-
Ai
cũng mời mọc,
-
Là
cái Bánh Trôi.
-
Ðứng không thấy vui,
-
Ðó
là Bánh Bò.
-
Nằm
cứ co ro,
-
Ðó
là Bánh Cuốn
-
Cái
gì cũng muốn,
-
Nó
là Bánh Ða.
-
Dứt
hoài không ra,
-
Nó
là Bánh Dẻo.
-
Nổi
trôi khắp nẽo,
-
Ðó
là Bánh Bèo.
-
Giàu mãi không nghèo,
-
Chính là Bánh Khoái.
-
Ðược người ưu đãi,
-
Là
Bánh Phồng Phềnh.
-
Nhẹ
mỏng và mềm,
-
Ðó
là Bánh Cốm(Bánh Bỏng)
-
Áo
quần lốm đốm
-
Nó
là Bánh Gai.
-
Một
giống như hai,
-
Chính là Bánh Ðúc.
-
Tròn cho một cục,
-
Ðó
là Bánh Vo.
-
Ăn
hoài không no,
-
Ðó
là Bánh Vẽ.
-
Dùng cho lính trẻ,
-
Là
Bánh Chè Lam.
-
Ăn
uống tham lam,
-
Ðó
là Bánh Ú.
-
Ði
mấy không đủ,
-
Ðó
là Bánh Giò.
-
Từng đoạn quanh co,
-
Ðó
là Bánh Khúc.
-
_______________________________________________________________________
-
Tài
Liệu Tham Khảo:
-
-
Quà Bánh Dân Gian
-
-
Tâm Hồn Mẹ Việt Nam
-
-
--- o0o ---
|
|