-
NGỰA TRONG ÐỜI SỐNG
-
VĂN HÓA CỦA NHÂN LOẠI
-
Bùi Đồng Anh
-
---o0o---
-
-
Theo Judith Campbell, trong sách Horses and Ponies thì tổ tiên
của ngựa chính là hươu cao cổ và giống lừa Equus caballus phối
ngẫu thành giống Equus vào thời Băng giá. Sau đó, có thêm
giống ngựa Hyracotherium sống cách nay 60 triệu năm; rồi xuất
hiện thêm giống Miohipuus cách nay khoảng 30 triệu năm... Ðấy
chỉ là những giả thiết. Ngựa xuất hiện từ bao giờ?
-
Người Xử Dụng Ngựa
-
Làm sao để biết được chính xác người đã sử dụng ngựa trong
cuộc sống từ lúc nào?
-
Các nhà khảo cổ, dựa vào những gì đã tìm được, cho biết dân
tộc đầu tiên biết sử dụng ngựa là dân tộc Ai Cập, trước Tây
lịch khoảng 2.000 năm. Ðời sống thực tế đã giúp họ có sáng
kiến. Ðường sá xa xôi, hiểm trở, đồ đạc nặng nề... khiến con
người đã biết dùng ngựa để kéo xe trước khi dùng để cỡi.
-
Ngày xưa, người Assyrians và người Ba Tư (Iran) đã biết dùng
xe ngựa để săn bắn, nhưng đến khoảng 600 năm trước Tây lịch,
người ta tin rằng con người đã biết cỡi ngựa. Biết được điều
ấy là nhờ vào những bức tranh khắc khá đẹp ghi lại cảnh vua xứ
Ba Tư cỡi ngựa đâm con sử tử bằng giáo. Một bức khác thì ghi
hình ảnh của Xenophon, một chuyên gia về ngựa thời bấy giờ,
đang cỡi con ngựa khôn ngoan phi nước đại xuyên đất nước của
ông, theo sau là một đàn linh dương và lợn rừng.
-
Như vậy, sau chuyên chở, ngựa đã được con người sử dụng trong
chiến đấu, dù là chiến đấu với thú dữ hay giữa người với
người.
-
Trong chiến đấu, ngựa là một bộ phận trong nghề săn bắn, mà
cũng là một bộ phận tối cần đối với vua chúa chơi thể thao.
Lịch sử không thiếu những hình ảnh của vua chúa dùng ngựa để
giải trí sau những buổi lâm triều căng thẳng. Chuyện người
Anglo - saxon đã bất bình chỉ vì William đưa ra Ðạo luật bảo
vệ rừng ngăn cản việc săn bắn của họ. Richard Coeur de Lion
cỡi ngựa săn đuổi một con hươu từ cánh rừng Showood đến
Yorhire. Nữ hoàng Elizabeth Ðệ nhất là một phụ nữ rất mê cỡi
ngựa đi săn như vua cha, Henry đệ nhất. Marie Antoinette vừa
chân ướt chân ráo về làm dâu nước Pháp cũng đã té ngựa khi tập
cỡi mà không chịu cỡi lừa! Và từ Ðông sang Tây có khá nhiều
họa sĩ vẽ về ngựa, đang được trưng bày ở những viện bảo tàng
lớn trên thế giới. Ở Viện Bảo tàng Louvre, người xem thấy bức
Chancelier Séguier đang cỡi ngựa dạo chơi của Le Brun; tranh
của Géricault mang hình ảnh của một sĩ quan vệ binh, tay cầm
kiếm đang trong tư thế chiến đấu..., tại Phòng tranh Quốc gia
ở Washington, người xem say sưa nhìn con ngựa Thánh Georges
của Raphael...; và nhiều bức tượng anh hùng đang cỡi ngựa trên
khắp hành tinh này.
-
Trong chiến tranh, có lẽ người Anh là dân tộc biết sử dụng
ngựa đầu tiên. Họ sử dụng những con ngựa ốm o, cằn cỗi, nhỏ bé
kéo những chiếc xe chở binh lính ra chiến trường. Sau đó thì
nữ hoàng Celtie Boadicea đã sớm nhận ra ngựa là khí tài có
tính chất quyết định trong cuộc chiến nên đã ra lệnh chọn
giống tốt để sử dụng trong chiến tranh.
-
Thuở xa xưa, những hiệp sĩ có vóc dáng nhỏ nhưng lại thích
huấn luyện và sử dụng loại ngựa lớn con. Người Saracens ở
Trung Ðông thích cỡi những chú ngựa chiến có đeo lục lạc ở
quanh cổ. Càng về sau, các chiến binh thường chọn những chú
ngựa khôn ngoan, có tốc độ và sự dẻo dai. Kỵ binh ở Trung Ðông
thì vậy, nhưng kỵ binh ở châu AÂu thì mãi tới thế kỷ thứ XVII
mới có phong trào dùng ngựa đi đánh trận.
-
Dùng ngựa trong chiến tranh ở châu Á thì phải nói đến người
Mông Cổ. Vào đầu thế kỷ thứ XIII, các bộ lạc du mục giữa hai
con sông Onon và Kéroulène đã liên minh thống nhất thành nhà
nước Mông Cổ. Vùng đất có nhiều thảo nguyên, đồi sỏi và cát và
với thói quen dùng sữa ngựa, thịt dê và chỉ ăn thịt các loại
thú rừng săn bắn được hoặc các loại cá..., người Mông Cổ đã
xem ngựa là nhân tố quan trọng nhất trong đời sống của họ. Vì
vậy, họ không giết và làm thịt ngựa một cách bừa bãi.
-
Sách Hắc Dắt sử lược có ghi rằng: Ngay từ thuở thơ ấu, trẻ con
Mông Cổ đã được huấn luyện trên mình ngựa và tập bắn cung.
Chúng được đặt ngồi trên một tấm ván, buộc chặt vào mình ngựa
và cùng với mẹ đi khắp nơi trên thảo nguyên.
-
Ðến ba tuổi, chúng đã ngồi quen trên lưng ngựa. Khoảng năm
tuổi, người Mông Cổ đã tập cho trẻ con sử dụng những loại cung
tên nhỏ nên đến khi trưởng thành chúng đã thành thạo việc cỡi
ngựa bắn cung.
-
Con người đã được huấn luyện để thích hợp với hoàn cảnh sống
đến như vậy, việc huấn luyện chiến mã cũng không kém. Ngay từ
khi ngựa được một năm tuổi, nó sẽ được huấn luyện. Vì vậy, khi
đã lên ba, ngựa trở thành thuần thục, không dám cưỡng lại lệnh
của chủ.
-
Ðối với những con ngựa bất kham, người Mông Cổ thường bỏ đói
và buộc dây cương ngắn khiến đầu nó phải ngẩng cao lên. Cứ giữ
như vậy cho đến lúc nào ngựa mỏi gối chồn chân, không còn thái
độ ương ngạnh thì chủ mới thả ra và cho chúng ăn uống. Lấy đó
làm cơ sở, Thành Cát Tư Hãn đã tuyên bố một câu để đời:
-
"Dưới triều đại chúng ta, nếu vó ngựa Mông Cổ tới đâu là nơi
đó sông phải cạn, núi phải tan, cây cỏ phải lùi mình, lên trời
thiên đình phải vắng ngắt, xuống biển long cung cũng phải
hoảng sợ".
Thành Cát Tư Hãn đâu có ngờ rằng, sau này, Hốt Tất Liệt, cháu
nội của ông đã phải đau lòng nhìn vó ngựa của đoàn quân viễn
chinh hoàn toàn quỵ xuống bởi sức chiến đấu dũng cảm của quân
dân Ðại Việt sau khi Hốt Tất Liệt đã chinh phạt Nam Tống và
thống trị toàn cõi Trung Quốc thời bấy giờ.
-
Ðể có được những chú ngựa thiện chiến, không cần buộc dây
cương nhưng không dám dời chỗ, ít khi cất tiếng hí vang nếu
không được lệnh, đứng im lặng hàng giờ liền..., người Mông Cổ
đã khổ công chọn ngựa. Họ chọn được hai loại chiến mã. Loại
ngựa giống thuần chủng được gọi Công mã, còn loại đã được lai
tạo gọi là Loa mã. Công mã được dùng làm đầu đàn, có nhiệm
vụ kiềm chế năm, sáu chục con Loa mã.
-
Trong chiến tranh, ngựa cũng bị giết như người. Hàng ngàn chú
ngựa đã tham gia và bị giết trong mỗi cuộc chiến tranh hoặc
mỗi lần tranh chấp. Trong Thế chiến thứ nhất, chủng tộc ngựa
đau lòng vì các bên lâm chiến đã dùng chúng để kéo các đại
pháo nên bị phe địch tấn công gây nhiều tổn thất lớn lao cho
giòng giống ngựa. Dùng ngựa để đánh nhau kéo dài mãi cho tới
Thế chiến thứ hai, cuộc chiến tranh mà xe tăng và xe bọc thép
trở thành phương tiện tấn công chủ lực thì kỵ binh ngựa vẫn là
những chiến sĩ dũng cảm, vô cùng cần thiết trong giao liên,
thám báo... và cả trong tấn công chớp nhoáng, nhất là ở những
vùng núi non.
-
Ở nước ta, từ thời đại Hùng Vương về trước, chưa biết chính
xác về việc dùng ngựa vào lúc nào, nhưng từ thời Hùng Vương
về sau, ngựa đã được dùng để kéo xe, đánh trận. Hình ảnh Thánh
Gióng cỡi ngựa sắt ra trận là một hình ảnh có ý nghĩa của ngựa
trong sinh hoạt của người Việt thời xưa.
-
Ngựa Với Đời Sống Văn Hóa
-
Thuần hóa ngựa đã là một điều khó, huấn luyện ngựa để trình
diễn trước công chúng lại càng khó hơn. Ðối với ngựa chưa được
huấn luyện, tiếng vút của roi da trở thành tập quán chỉ định
ban đầu, sau đó thì người huấn luyện sử dụng lời nói hay cử
chỉ để ra lệnh. Người huấn luyện phải làm sao để mỗi con ngựa
đều biết tên gọi của mình và phải trả lời bằng cử động ngay
lập tức. Giống ngựa Ả Rập thuần chủng hoặc lai một phần là
giống ngựa tốt nhất đối với người huấn luyện bởi chúng thông
minh, tướng tốt, dễ nhìn. Ðộ tuổi để huấn luyện là trong
khoảng từ 4 đến 7 tuổi, và thời gian huấn luyện từ 9 đến 12
tháng. Sau đó, tùy theo mục đích, ngựa sẽ được huấn luyện
tiếp.
-
Ngựa tham gia vào đời sống văn hóa của loài người khá sớm và
tích cực. Ðua ngựa, cỡi ngựa chơi pôlô, và cỡi ngựa đấu
thương là phổ biến nhất.
-
Hàng trăm năm trước Tây lịch, các cuộc đua ngựa đầu tiên đã
được tổ chức ở Syria và Arabia, nhưng những người Hy Lạp và La
Mã cổ đại mới là những nài ngựa điêu luyện. Ðua xe ngựa kéo đã
sớm trở thành môn thể thao đầy hấp dẫn nhưng cũng nguy hiểm
không kém. Trong các buổi lễ lượt, liên hoan lớn đều không
thiếu cuộc tranh tài đầy hào hứng này.
-
Người La Mã đã đưa trò chơi đua xe ngựa vào đất Anh, rồi lan
qua Ðức và các lãnh địa khác. Cho tới bây giờ, môn đua xe ngựa
này đã được phục hồi trở lại sau khi bị lãng quên một thời
gian. Ðến thời Jacques đệ nhất, con trai của Marie Stuart
(1603-1625) mới phục hồi lại bằng cách cho sưu tầm những giống
ngựa tốt ở vùng Ðông Á và giới thiệu chúng trong những cuộc
đua được xem như là hội chợ có sự chứng kiến của nhà vua. Thực
sự, đua xe ngựa đã trở thành trò giải trí có giá trị văn hóa
truyền thống. Tới thời vua Charles đệ nhị (1660-1685), ông vua
này lại có mùa đua xe ngựa. Ông ra lệnh thiết lập những cuộc
đua thường kỳ vào mùa Xuân và mùa Thu. Tới ngày đua, thiên hạ
bàn tán, nô nức như ngày hội.
-
Dưới thời vua Geerge đệ nhất và đệ nhị, ngựa là một bộ phận
quan trọng trong lối sống của người dân Anh. Vào năm 1753, câu
lạc bộ đua ngựa đầu tiên đã được thành lập trên thế giới.
-
Các hoạ sĩ, nghệ nhân điêu khắc Ba Tư đã đưa ngựa vào nghệ
thuật tạo hình. Một bức tranh với nhiều màu sắc hài hòa, trong
sáng ghi lại cảnh những người cỡi ngựa đang chơi pôlô một cách
thiện nghệ với những cây gậy khoắm nho nhỏ thật dễ thương. Sau
đó môn pôlô xuất hiện ở Anh, và rồi ở Ấn Ðộ vào năm 1869, và
vẫn tồn tại cho tới ngày nay. Pôlô xuất hiện ở Mỹ chậm hơn,
mãi tới năm 1883 mới có.
-
Sau đua xe, cỡi ngựa chơi pôlô, cỡi ngựa đấu thương cũng là
một môn thể thao hấp dẫn.
-
Trò chơi có tính nghệ thuật lẫn can đảm này đã làm nổi bật đặc
tính của con người: huấn luyện những loài thú thuần hóa để
phục vụ cho lợi ích của con người. Như tất cả những loài thú
đã được huấn luyện khác, ngựa đã mang đến cho khán giả những
màn biểu diễn thật hấp dẫn, ngoạn mục (dĩ nhiên là có cả con
người!).
-
Nghệ thuật xiếc đã đạt đến thời kỳ rực rỡ của nó trong suốt
thế kỷ thứ XIX. Vào thời kỳ này, những nhà cỡi ngựa lừng danh
đã làm đứng tim khán giả bằng những màn trình diễn điêu luyện.
Và càng hoàn thiện hơn nữa khi những tay luyện ngựa xiếc đã
biến các chú ngựa thành "những vũ công" múa những điệu múa
tuyệt đẹp.
-
Philip Astley còn có Charles Nughes là đối thủ, được các dân
tộc ở châu AÂu hoan nghênh, nhưng tại quê hương nước Anh thì
lạnh nhạt. Sau đó thì Andrew Ducrow, người đã sáng tạo ra
những màn kịch câm trên lưng ngựa và được công chúng hoan
nghênh. Anh ta đã sớm trở thành ngôi sao của nghệ thuật xiếc
qua những vở kịch Người da đỏ đi săn, Nhà ảo thuật Trung Hoa,
Người mục đồng xứ Tyrol... và nhất là Người đưa thư thành
Peterograd. Trong tiết mục vẫn còn nổi tiếng cho tới ngày
hôm nay, Andrew đứng chỏi hai chân trên hai con ngựa đang phi
nước đại, những đất nước mà người đưa thư đi qua trên đường đi
Nga được thể hiện bởi những con ngựa đang phi nước đại chui
qua anh ta. Tiết mục này tồn tại là do nó đòi hỏi về kỹ thuật
cỡi ngựa nhanh nhẹn và thăng bằng nhiều hơn là kỹ thuật kịch.
-
Cũng vào thời gian này, ở nước Pháp và nước Ðức lại nổi lên
một nét mới về môn cỡi ngựa: cỡi ngựa nghệ thuật. Nữ kỵ sĩ mặc
áo đuôi tôm, ngồi vắt hai chân một bên trên lưng ngựa, mặt che
mạng, và trên ve áo có cái chùm hoa tím, biểu tượng của sự hào
hoa phong nhã. Có nơi, cỡi ngựa nghệ thuật, kỵ sĩ mang trang
phục cổ điển, thường là màu đen, có nơi như ở Hungary, người
cỡi ngựa lại mang trang phục sặc sỡ.
-
Và giữa lúc phương tiện giao thông bằng xe hơi, xe gắn máy đưa
đón khách ở vùng nội thị thì phần lớn du khách lại thích ngồi
trên những chiếc xe ngựa lạch cạch đi thăm những thắng cảnh
cổ xưa, những khu rừng hoang dã... để tìm lại không khí văn
minh cổ nhằm thư giãn tâm hồn...
-
Qua đó, đời của người và ngựa vẫn sát cánh bên nhau. AÂu đó
cũng là duyên nghiệp từ bao kiếp làm phong phú không chỉ ở
chủng loại, mà còn cả ở tình thương. Người thương ngựa, và
ngựa cũng quyến luyến người. Chẳng vậy sao khi tên gọi của năm
này là Nhâm Ngọ?!
-
Source : Báo Giác Ngộ, số đặc biệt, Xuân Nhâm Ngọ - 2002
|