-
Cành Mai Mãn Giác
-
Lệ Thọ
-
--o0o—
-
-
Mai
là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang
đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như
một người bạn thân thiết, không thể thiếu vào dịp lễ hội Tết
cổ truyền của dân tộc . Ngoài nét đặc biệt đó ra, nó còn là
một biểu tượng của sự vươn dậy sau giấc ngủ co mình trong
những ngày tháng ảm đạm và giá rét của Thu Đông.Khi nhìn thấy
sắc vàng tươi thắm của hoa mai người ta còn liên tưởng rằng,
nó đồng hành với mùa xuân vào dịp xuân sắp đến, đang đến hay
mới đến. Mang lại vui tươi, hạnh phúc, mai mắn, dồi dào, thịnh
vượng,sức khoẻ, trẻ trung…
-
Mùa của sức sống rừng rực dâng lên khiến cho lòng người hân
hoan thư thới và lạc quan yêu đời, yêu người hơn. Vì vậy, khi
mai nở, xuân về là một nguồn cảm hứng bất tận cho những tâm
hồn nhân sĩ, thi sĩ…mặc tình rong chơi hoặc tắm mình trong
thiên nhiên:
-
- "Cỏ non xanh tận chân trời,
-
Cành Lê trắng điểm một vài bông hoa…"
-
Từ khoảng trời mênh mông nên thơ đó, mỗi người tự cô đọng cho
mình thành những vần thơ bất hủ, những áng văn trác tuyệt đi
vào lòng người như bài thi kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác
Thiền sư:
-
- Xuân khứ bách hoa lạc
-
Xuân đáo bách hoa khai
-
Sự trục nhãn tiền quá
-
Lão tòng đầu thượng lai
-
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
-
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
-
Đây là một trong những bài thơ được trong giới nhà thiền hay
những văn nhân thường nhắc lại cái hay, cái đẹp của ý tứ thơ
vào những độ xuân về.
-
Thông thường, hàng năm khi đưa tay bóc đi tờ lịch
cuối cùng trên vách, là mọi người đều có cùng một ý nghĩ, xuân
đã về. Và cũng lấy đó làm cột mốc thời gian cho ba trăm sáu
mươi lăm lần vòng quay của trái đất, để đánh dấu cho ngàn lẻ
một chuyện như: Hạnh phúc, vui tươi, thành đạt, tủi nhục, chán
nản thất vọng ? Nhưng tất cả đều được gát lại với sự bằng lòng
hoặc miễn cưỡng, để hòa mình cùng sự vươn dậy của trời
đất thiên nhiên đang lay động đến muôn hoa khoe sắc thắm,
nghìn lá đâm chồi nẩy lộc mà mọi người gọi đó là biểu tượng
Kiết tường, và luôn mong mõi nó sẽ kéo dài cho những ngày sắp
tới, để bù lấp cho những điều bất như ý không trông đợi mà nó
vẫn đến! Đó là những ngày tận hưởng hương vị của xuân hoặc vui
cái Tết cổ truyền của dân tộc. Để rồi sau đó, mọi người lại
phải lăng xăng, tất tả, ngược xuôi cho công việc của mình.
-
Cảm nhận xuân như thế là xuân của thời tiết, vui xuân trong
nỗi thụ động của thế thường tình, nên Chế Lan Viên đã gom lại
thành những vần:
-
- " Tôi có chờ đâu có đợi đâu
-
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
-
Với tôi tất cả là vô nghĩa
-
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau?"
-
Quả là, Thi nhân đã cảm nhận được dòng sinh diệt
đang vận hành một cách tùy thuộc, vay mượn, không có tính độc
lập mà con người là nạn nhân trong guồng quay vô tận đó!
Nhưng, chính tác giả cũng không làm gì hơn, để chia xẻ với
những ai có cùng tâm tư ? bâng khuâng, xao xuyến? Phải chăng,
trong cuộc sống này, tất cả chúng ta không ai thoát được quy
luật hiển nhiên khắc nghiệt đó, để phải suốt cả một đời đuổi
bắt câu vó thời gian! Nên ngay cả Thi sĩ Mãn Giác Thiền Sư
cũng để lại rằng:
-
- Xuân đi, trăm hoa rãi
-
Xuân đến, trăm hoa khai
-
Xem chuyện đời trước mắt
-
Tóc trên đầu đã phai
-
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
-
Tối qua, vườn trước một cành mai.
-
(Thi sĩ Võ Đình dịch)
-
Không, mới đọc vào hai câu đầu của Thi kệ, chúng
ta đã nghe lạnh cả hư không và tê buốt cả cõi long, vì cách sử
dụng ngôn từ khúc chiết, dè xẻn để chuyển tải ý. Mặc dù, từ
ngữ hết sức bình dị, đối với những ai ít khi dùng từ Hán-Việt
vẫn có thể hiểu một cách trọn vẹn. Nhưng nó lại mang ý và tứ
thơ vô cùng thâm viễn, chúng ta thử đọc lại nguyên văn:
-
- " Xuân khứ bách hoa lạc
-
Xuân đáo bách hoa khai?"
-
Sự vận hành của thiên nhiên là thế đấy. Khi xuân
đã đi thì trăm hoa rơi rụng, nhưng khi mùa xuân sẽ đến, đang
đến thì trăm hoa khoe sắc thắm, dưới nắng vàng dìu dịu và vài
cơn gió thoảng đung đưa cành lá. Xuân đến và đi, trong mắt của
Thiền sư là thế ? thanh thoát, nhẹ nhàng, bình thản và an lạc.
Cho nên ngay cả:
-
- " Xem chuyện đời trước mắt
-
Tóc trên đầu đã phai ?"
-
Cũng chẳng có gì là vướng bận tâm hồn. Bởi, Sinh, Trụ, Dị, và
Diệt là như thế, nên cứ bình thản mà sống với hiện hữu. Những
việc qua rồi không nên nuối tiếc, những gì chưa đến thì đừng
mong cầu. Sỡ dĩ, mỗi cá nhân cảm thấy mừng, giận, thương, sợ,
yêu, ghét và muốn luôn bức bách trong cuộc sống là vì không
thể kiềm chế lòng ham muốn. Nói như vậy, không phải triệt tiêu
ý chí phấn đấu vươn lên của cá nhân trong guồng máy xã hội. Mà
ngược lại, nó mang một chiều hướng tích cực, góp phần cho việc
ổn định, phát triển và đem lại hòa bình Thế giơi?#7903;i mỗi
cá nhân là thành viên của một quốc gia, hay nói rộng hơn là
thành viên của cộng đồng loài người, nên mỗi cá nhân có hoàn
thiện thì Thế giớ mới hòa bình, đó là điều kiện ắt có và đủ.
Chính vì thế, Mãn Giác Thiền Sư đã khẳng định:
-
- " Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
-
Tối qua, vườn trước một cành mai?"
-
Để cho chúng ta thấy rằng, qui luật dời đổi tan thương của Vũ
trụ chỉ là trò đùa đối với những ai đứng bên ngoài sự vận
hành và hiểu rõ từng chuyện đời trước mắt một cách linh hoạt,
tự tại như Vạn Hạnh Thiền sư đã từng thấy:
-
- Thân như bóng chớp chiều tà
-
Cỏ xuân tươi tốt Thu qua rụng rời
-
Sá chi suy thạnh việc đời
-
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
-
(Thích Mật Thể dịch)
-
Đối với các ngài là thế, bình thản trước cảnh biến đổi thời
tiết và bãi bể hóa nương dâu, nên vui buồn, được mất không làm
sao nao núng tinh thần. Trong khi đó, tâm tư của chúng ta lúc
nào cũng đầy ấp bóng dáng của khổ đau, sợ hãi, lo âu và tránh
né sự thật. Vì thế, khi được thì vui, mất thì buồn. Biệt ly
thì đau khổ, gần gũi thì hạnh phúc. Ai khen thì nở mặt, ai chê
thì ủ rũ. Vừa ý thì hân hoan, trái ý thì cáu giận. Nên khi gặp
cảnh biến thiên của vạn hữu vũ trụ thì ngậm ngùi như Nguyễn
Gia Thiều:
-
- "Trải qua một cuộc biển dâu
-
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng?"
-
Trong khi đó, ngoài bộ mặt đau thương biến đổi của Vô thường
còn có sự vĩnh hằng, an lạc của tâm thức và ngoại cảnh. Tuy
nhiên, chổ thâm áo này phải trầy trật lắm mới thẩm thấu được
sự thật của vấn đề. Như chúng ta đã đọc biết bao nhiêu lần
bài thi kệ của Mãn Giác Thiền sư, nhưng vẫn không có được cái
thấy tự tại, an lạc và giải thoát như ngài. Phải chăng, đó
chính là mấu chốt của vấn đề mà ngài muốn nhắn gởi đến chúng
ta, hãy tu tập, thực hành thiền định, sống trong thiền định.
Đừng chạy theo hiện tượng thời tiết và chẻ sợi tóc ra làm muôn
mảnh để tìm sự thật trong đó!
-
Tóm lại, cành mai còn sót lại trước sân chùa sau đêm giao thừa
với không khí tưng bừng của ngày lễ hội, hoặc còn sót lại cuối
mùa xuân. Thậm chí, cho đến nó không có thật trong mùa xuân
đó, thì cũng chẳng có gì để chúng ta thắc mắc. Nhưng chỉ có
điều là chúng ta phải ghi nhận là cành mai đó nó có trong mắt
của Mãn Giác Thiền sư, và không chỉ có khi mùa xuân sắp đến,
đang đến mà nó hiện hữu hằng sát na trong ngài. Bởi vì, ngài
đã từng lặng ngắm thế sự thăng trầm như vậy nhiều năm và trực
nhận triệt để về tính cách bất biến vô sinh của chân tâm, thấy
được bản thể vốn tịch nhiên vắng lặng và bất sinh bất diệt từ
xưa đến nay và mãi mãi về sau cũng là như vậy. Thì làm gì còn
có đến, đi, tàn, phai và héo úa của một cành mai đối với ngài.
Phải chăng, đó chỉ là cách nói thâm trầm của người Đông phương
khi muốn diễn đạt một vấn đề cho người khác cùng thấy như
mình!
-
Nhân mùa xuân năm 2000, mùa xuân bắt đầu của một
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đầy hứa hẹn của sự thành tựu khoa
học, để phục vụ cho con người về phương diện vật chất, người
viết mạo muội nói lên một vài cảm nhận qua bài thi kệ của Mãn
Giác Thiền sư để được dịp trao đổi cùng các bậc thức giả, nhằm
mang lại món ăn tinh thần cho dân tộc nói riêng và cộng đồng
loài người nói chung. Đang khi cầm chung trà, miếng mứt để
thưởng thức hương xuân lan tỏa, chúng ta, đồng thời, cũng nên
lẳng lặng cảm nhận niềm an lạc, trước một mùa xuân mới, mùa
xuân của thời tiết. Nhưng nó lại mang sức sống rừng rực dâng
lên khiến cho lòng người hân hoan thư thới, lạc quan yêu đời
và ngừơi sống vì mọi người, trên tinh thần vô ngã, vị tha và
bình đẳng. Đó là qua bức thông điệp của Mãn Giác Thiền sư đã
gởi cho chúng ta từ nhiều thế kỷ qua!
-
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
-
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
-
Delhi, 01.11.99
|