-
Vạn Xuân:
-
Một Khát Vọng Của Dân Tộc
-
Đào Nguyên
-
--o0o--
-
Suốt
quá trình gắn bó giữa Phật giáo và dân tộc Việt Nam, chúng ta
có thể ghi nhận khá nhiều mùa Xuân thực sự, trong đó sự hòa
hợp tốt đẹp được thể hiện qua nhiều mặt của đời sống. Ở đây,
chúng tôi muốn nói tới một giai đoạn trong thời kỳ xa xưa, một
giai đoạn giành được độc lập ngắn ngủi, sau bao nhiêu năm
tháng bị ngoại bang thống trị : đó là thời vua Lý Nam Đế (Lý
Bí) với Nhà nước Vạn Xuân. Lịch sử Việt Nam đã nhận định :
"Sau những thắng lợi trên cả hai chiến trường biên giới Bắc,
Nam, giành lại và bảo toàn lãnh thổ cơ bản từ thời dựng nước
đầu tiên, mùa Xuân, tháng Giêng theo lịch trăng (tháng 2/544
TL), Lý Bí dựng lên một nước mới, với quốc hiệu Vạn Xuân đóng
đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày sau)... Lúc này Phật
giáo đang phát triển mạnh ở nước ta cũng như ở Trung Hoa. Giới
Tăng Ni là tầng lớp trí thức đương thời chắc chắn đã ủng hộ Lý
Nam
Đế. Chính một người trong họ ông và làm tướng cho ông đã mang
một cái tên đượm màu sắc sùng bái Phật Tổ : đó là Lý Phật Tử.
-
Nhà nước Vạn Xuân, dù mới dựng, cũng bỏ tiền xây
một ngôi chùa lớn, sau này trở thành một trung tâm Phật giáo
và Phật học lớn của nước ta. Đó là chùa Khai Quốc, tiền thân
của chùa Trấn Quốc ở Hà Nội ngày sau. Ngay cái tên "chùa Mở
Nước" cũng đã hàm chứa nhiều ý nghĩa !" (Trần Quốc Vương, Lịch
sử Việt Nam I, Nxb ĐH, 1983, tr 408-409). Từ đoạn sử vừa dẫn
trên, chúng ta có thể rứt r mấy ghi nhận đáng chú ý :
-
1/ Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí ở thế kỷ 6 TL là đỉnh
cao trong quá trình đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta
trong suốt hàng nghìn năm Bắc thuộc. Cuộc khởi nghĩa ấy đã
hoàn toàn thắng lợi với việc ra đời của Nhà nước Vạn Xuân.
"Xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối
chọi với Bắc, lấy Việt đối sánh với Hoa, những điều đó nói lên
sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin ở khả năng
vững chắc tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập..."
(Lịch sử Việt
Nam I, sđd, tr 409) trong bối cảnh xã hội là đạo Phật đã được
du nhập từ lâu và đang phát triển mạnh, đúng như nhận định của
Giáo sư Trần Văn Giàu : "Bình minh của lịch sử dân tộc ta đã
gắn với Phật giáo..." (Trần Văn Giàu, Đạo Phật và một số vấn
đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam, in trong Phật giáo và lịch
sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học xb, 1986, tr 15).
-
2/ Phật giáo thời bấy giờ (thế kỷ thứ 6) ở Trung Hoa cũng như
ở Giao Châu (Nhà nước Vạn Xuân) đang hồi phát triển mạnh. Tư
liệu về sử, văn tuy không dồi dào nhưng vẫn đủ để chúng ta
nhận thấy về quá trình diễn tiến của sự phát triển ấy qua hình
ảnh một số danh tăng, trong sứ mạng hoằng dương chánh pháp đã
sinh trưởng hoặc từng có mặt ở Giao Châu, từ Mâu Tử (thế kỷ
2-3), Khương Tăng Hội (thế kỷ 3), Chi Cương Lương Tiếp (thế kỷ
3), Ma Ha Kỳ Vực (thế kỷ 3), Đạt Ma Đề Bà (thế kỷ 5), ... đến
Tỳ Ni Đa Lưu Chi (thế kỷ 6), Quán Duyên (thế kỷ 6), Pháp Hiền
(thế kỷ 7)... Đáng chú ý là tài liệu của Lê Quý Đôn
(1726-1784) trong sách Kiến văn tiểu lục, nhờ tham khảo nơi
các sách Trung Quốc đã phát hiện 4 vị danh tăng Việt Nam ở
cuối thế kỷ thứ 7 - thế kỷ 8 TL, từng được các nhà thơ nổi
tiếng đời Đường tặng thơ. Đó là Pháp sư Phụng Đình, Duy Giám
bác thông kinh luận, đã được vua Đường mời sang tận kinh đô để
giảng kinh. Thi sĩ Dương Cự Nguyên (cuối thế kỷ 7) có thơ tiễn
Pháp sư Phụng Đình về nước : "Cố hương Nam Việt ấy
-
Ngàn dặm mây trắng bay
-
Cửa trời vắng kinh kệ
-
Biển rộng hoa hương đầy
-
Bóng cò in sóng bạc
-
Thành quách lung linh xây
-
Trường An lòng tưởng nhớ
-
Giao Châu chuông canh chầy"
-
(Nguyễn Lang dịch, VNPGSL I, 1974, tr 102)
-
Bài thơ tiễn Pháp sư Duy Giám của nhà thơ Giả Đảo
(788-843) cũng được viết theo thể Đường luật ngũ ngôn bát cú
:
-
Giảng kinh nơi cung điện
-
Vườn ngự hoa xuân bay
-
Xa quê từ mấy độ
-
Núi cũ về từ nay.
-
Mưa sa dầm áo bạc
-
Gió táp ấn hương phai
-
Biển vắng như thế đó
-
Tin tức làm sao hay ?
-
(Nguyễn Lang dịch, sđd, tr 102-103)
-
Còn hai nhà thơ Thẩm Thuyên Kỳ (đầu thế kỷ8) và
Trương Tịch (cuối thế kỷ 8) thì đã từng sang thăm Giao Châu,
đến viếng Thiền sư Vô Ngại tại chùa Sơn Tĩnh, huyện Cửu Chân
(Thẩm Thuyên Kỳ), ghé thăm một vị sư người quận Nhật Nam đang
tu trong núi (Trương Tịch). Đây là bài thơ tám câu năm chữ của
Trương Tịch tặng vị sư người quận Nhật
Nam :
-
Ở mãi mấy ngọn núi
-
Hai cánh cửa thông gài
-
Viết kinh trên lá chuối
-
Treo áo rụng hoa mây
-
Đục đá khơi giếng mới
-
Xuyên rừng trồng cây đay
-
Nếu gặp người Nam Hải
-
Líu lường hỏi nhà ai ?...
-
(Nguyễn Lang dịch, sđd, tr 105)
-
Riêng bài thơ ngũ ngôn của Thẩm Thuyên Kỳ tặng
Thiền sư Vô Ngại gồm tới 16 câu, khen nhà sư là một hóa thân
của Phật, tự xưng là đệ tử và tỏ ý tiếc vì chưa đủ trình độ
Phật học thâm sâu để cùng sư đàm đạo :
-
"Phật xưa sinh Thiên Trúc
-
Nay hóa thân Nhật Nam
-
Vòng não phiền ra khỏi
-
Dưới núi dựng già lam
-
Khe suối thơm là cảnh
-
Đá non cao là am
-
Chim xanh tập thiền định
-
Vượn trắng nghe giảng đàm
-
Vách đá dây mây quấn
-
Mặt đầm hoa leo thang
-
Theo suối vào bóng mát
-
Giặt áo phơi rừng hương
-
Đệ tử hận mình dở
-
Phật pháp chưa am tường
-
Qua khe Hổ nhìn lại
-
Dưới cây sương khói lam"
-
(Nguyễn Lam dịch, sđd, tr 103-104)
-
Tất cả những trung dẫn kể trên là nhằm góp phần để
chứng tỏ nhận định... "Lúc này Phật giáo đang phát triển mạnh
ở nước ta..." là một khẳng định có cơ sở.
-
3/ Giới Tăng Ni là tầng lớp trí thức đương thời,
không những đã ủng hộ Lý
Nam Đế mà còn tạo được sự gắn bó tốt đẹp giữa dân tộc và đạo
pháp. Cụ thể hòa cho sự gắn bó ấy là việc Nhà nước Vạn Xuân,
dù mới dựng, dù còn phải đối phó với bao sự việc trong - ngoài
bề bộn, cũng bỏ tiền để xây cất ngôi chùa Khai Quốc. Ý nghĩa
chính của tên chùa Mở Nước là Phật giáo thời bấy giờ đã góp
phần đáng kể trong công việc dựng nước và giữ nước, ngôi chùa
chính là chỗ dựa tinh thần vững chãi để từ đấy huy động và tạo
được sức mạnh tổng lực cho dân tộc. Thời đó, chùa nằm cạnh bờ
sông Cái thuộc phường Yên Hoa ; mãi về sau này, do một trận
lụt lớn, bãi sông bị lở, chùa mới được dời vào gò đất Kim Ngư
ở bên hồ Tây, tức địa điểm hiện tại.
-
Bài minh nơi bia chùa Trấn Quốc do Trạng nguyên
Nguyễn Xuân Chính (1588-?) viết và khắc dựng năm không chỉ
nhấn mạnh về cảnh trí nổi bật của ngôi chùa mà còn bày tỏ cái
ước vọng về một mùa Xuân thực sự của hòa bình và hạnh phúc cho
dân tộc và đạo pháp :
-
"Phường gọi An Hoa
-
Chùa tên Trấn Quốc
-
Ngưu, Chử mênh mông
-
Phượng Sơn cao ngất
-
Đời vui xuân đài
-
Người lên thọ vực
-
Trăm nghìn công lao
-
Muôn vàn hạnh phúc
-
Như thánh như trời
-
Cao đẹp công đức"
-
(Tuyển tập văn bia Hà Nội, T I, 1978, tr 35(d))
-
4/ Khát vọng ấy cũng chính là khát vọng về một nền
thái hòa và thịnh vượng của Nhà nước Vạn Xuân, vì Vạn Xuân có
nghĩa là mãi mãi là mùa Xuân" có ý mong xã tắc được bền vững
muôn đời" (Đại Việt sử ký, dẫn theo Lịch sử Việt Nam I, sđd,
tr 408).
-
Thực tế cho thấy ước vọng kia vẫn còn nằm trong
tầm ước vọng, vì Nhà nước Vạn Xuân chỉ được hưởng cảnh bình
yên trong hơn một năm. Đầu năm 545, lực lượng thống trị phương
Bắc lại bắt đầu tổ chức cuộc xâm lược trở lại Giao Châu và
người dân Vạn Xuân lại phải tiếp tục chiến đấu để giữ nước.
Năm 548, Lý Nam Đế qua đời, công việc lãnh đạo cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm được giao lại cho Triệu Quang Phục (nhận
binh quyền từ năm 546), rồi sau đấy là Lý Phật Tử (năm 571),
và Nhà nước Vạn Xuân đã tồn tại tới năm 602 mới rơi vào sự đô
hộ của nhà Tùy. Trong khoảng thời gian này (từ 571-602), lịch
sử truyền bá đạo Phật ở Việt Nam đã tạo được một dấu ấn quan
trọng, đó là sự có mặt của Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi (năm 580)
với sự phát triển và truyền thừa một dòng Thiền lớn gọi là
dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, sản sinh những bậc chân tu anh
tài như Pháp Thuận (915-990), Vạn Hạnh (?-1018) không chỉ làm
vẻ vang cho Phật giáo mà còn làm vẻ vang cho cả dân tộc.
-
Khát vọng về một nền thịnh trị và thái bình của
đất nước thời Nhà nước Vạn Xuân mãi mãi là khát vọng chính
đáng, tốt đẹp ; khát vọng ấy đã được thực hiện một cách sinh
động, phong phú vào thời thịnh Lý, thịnh Trần.
-
Trích Tuần báo Giác Ngộ số 150 - 13/02/1999
|