-
MỸ NHÂN VÀ DUYÊN
PHẬN
- Như Hiệp
-
- ---o0o---
-
-
Nàng Visàkhà là một vị nữ đệ tử ưu tú tại gia
vào thời đức Phật tại thế. Nàng là con gái của phú hộ
Dhanãnjaya và là cháu ngoại của nhà triệu phú Mendaka. Nàng có
một vẽ đẹp rất duyên dáng mỹ miều; được thiên phú cho một mái
tóc mượt mà, đôi môi đỏ thắm, một làm da hồng mịn, đôi hàm
răng trắng ngọc ngà tựa những viên ngọc xếp đều đặn bên nhau,
cùng với một vóc dáng thanh cao, thon thả. Nét đẹp duyên dáng
của nàng chắc hẳn chẳng kém thua nét đẹp của Thuý Kiều được mô
tả qua ngòi bút xuất chúng của Nguyễn Du :
-
“...Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
-
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai...”
- Hay
là :
-
“... Mây thua nước tóc. Tuyết nhường màu da...”
-
Nàng Visàkhà xinh đẹp là thế nhưng lại có nội
lực và trí tuệ hơn người. Lúc ấu thơ, có một lần Ðức Phật ghé
thăm và thuyết pháp tại quê nàng, Bhaddhàya, nàng đã tháp tùng
bà ngoại đến nghe pháp. Nhờ tâm trí sáng suốt cùng với lòng
chí kính đến Phật, Pháp, Tăng nên ngay sau bài pháp thoại,
nàng đã chứng được quả Tu Ðà Hoàn dù lúc đó nàng chỉ là cô bé
lên bảy tuổi
-
Nhờ có tín tâm vững chắc với ba ngôi Tam Bảo
nên cuộc sống của nàng bình lặng và tràn đầy an lạc; Trên
khuôn mặt thanh tú của nàng luôn được tô điểm nụ cười khả ái,
yêu đời. Trong lúc đó, nàng Kiều lại mang một vẽ đẹp mà bất cứ
người nào khi nhìn vào cũng đều thấy luyến tiếc, xót thương,
đau buồn khi tạo hoá đã kém công bằng, tạo nên một nét đẹp mê
hồn nhưng kém phần an lạc trong cuộc sống.
-
“...Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai...”
-
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có tín
tâm với đạo Phật nhưng đến tuổi xuất giá, nàng phải đặt chân
vào một gia đình ngoại đạo. Cha chồng của nàng là một đệ tử
trung thành của phái Ni Kiền Tử gồm những thầy tu lõa thể. Vốn
là người thanh cao trang nhã, lắm lúc nàng đã làm cho cha
chồng nàng bực mình vì từ chối đảnh lễ các vị tu sĩ lõa thể
ngã mạn đó. Dù trước ngày xuất giá,người cha yêu quý của nàng
đã dặn dò con gái nhớ vâng giữ mười điều và một trong mười
điều đó là tôn trọng cha mẹ chồng cũng như những vị trời trong
nhà.
-
Nàng quan niệm rằng thương cha mẹ chồng không
phải lúc nào cũng chìu chuộng theo ý muốn của họ. Nàng đã
thương cha mẹ chồng đúng theo tinh thần Phật dạy: Ðó là tạo cơ
hội và hướng dẫn ho ïđến gần với chánh pháp, tu tập theo chánh
pháp. Nàng tránh sự cãi vã, luôn giữ thái độ ôn hòa, rộng
lượng. Nhân có cơ duyên thuận tiện, nàng đã cung thỉnh Ðức
Phật về nhà thọ trai, Ðức Phật đã thuyết giảng một bài pháp
sau khi thọ trai; Cha chồng nàng ngồi sau bức rèm nghe trộm,
nhờ tâm tư thuần chất, sau thời pháp ông đã chứng quả Tu Ðà
Hoàn. Ông đã biểu lộ lòng biết ơn vô cùng đối với người con
dâu hiếu thảo, người đã hướng dẫn ông đến với chánh pháp của
đức Như Lai. Nhờ tâm trí sáng suốt, dần dần nàng đã hướng dẫn
gia đình chồng thành một gia đình phật tử thuần thành.
-
Cùng có nét đẹp mỹ miều của tạo hoá ban cho
nhưng Thuý kiều phải lăn lộn, truân chuyên hơn nữa đời người
và cũng có nghĩa là trọn kiếp má hồng để trả nợ mỹ nhân.
-
“...Ðầu xanh đã tội tình gì?
-
Má hồng đền quá nữa thì chưa thôi...”
-
-
Phải chăng nàng Kiều thiếu may mắn hơn nàng
Visàkhà, dù rằng nàng Kiều cũng là một người con chí hiếu, đã
liều mình bán thân để chuộc cha khi gia đình nàng lâm vào cảnh
nguy biến.
-
“...Liều đem tấc cỏ quyết đền ba
xuân...”
-
Hay:
-
“...Thà rằng liều một thân con...”
-
-
Nàng hiếu thảo là thế, tuy nhiên quyết định hy
sinh bán mình của nàng đã phạm một sai lầm ngay từ lúc đầu,
nàng phải phôi pha cả kiếp má hồng cho khách phong trần mà cái
nhục, cái khổ lắm lúc đưa nàng đến quyết định quyên sinh:
-
“...Trên yên sẳn có con dao
-
Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn
-
Phòng khi nước đã đến chân
-
Dao này thì liệu với thân sau này...”
-
Thái độ bi quan của Thuý Kiều đã tạo ra bi kịch
cuộc đời của nàng. Ở chốn giang hồ, tìm đâu niềm thương yêu
đùm bọc của cha mẹ, anh em. ban bè; Tìm đâu những lời khuyên
nhủ của bạn đường tri thức. Nàng chỉ biết dấn thân và xem như
đó là định mệnh mà nàng đã bắt gặp bên ngôi mộ của Ðạm Tiên
ngày nào trong dịp du xuân tháng ba.
-
“... Mà xem trong sổ đoạn trường có tên...”
-
Nghĩ cho cùng, người viết không muốn làm một
cuộc so sánh giữa hai cuộc đời có những nét chấm phá tài sắc
như nhau. Nhưng dù sao cũng thấy rõ rằng cuộc đời của nàng
Visàkhà cũng đầy đủ Y báo và Chánh báo tốt đẹp; Nàng có tín
tâm vững chắc đối với ba ngôi Tam Bảo. Tâm nàng giàu lòng cúng
dường và bố thí. Chuyện kể rằng: “ Trong ngày cưới hỏi của
nàng, người cha yêu quý đã tặng một chiếc áo rất đẹp và đắc
giá cho con gái. Nhân một buổi đến nghe Ðức Phật thuyết pháp,
nàng đã mặc chiếc áo này; Nghĩ đến sự rực rỡ của chiếc áo
không hợp thời khi nghe pháp nên nàng đã thay chiếc áo khác và
nhờ người tỳ nữ giữ hộ. Khi ra về, người nữ tỳ đã bỏ quên
chiếc áo trong giảng đường. Lúc nàng trở lại thì Ðại Ðức A Nan
tạm giữ chiếc áo để chờ trao lại cho chủ. Thấy vậy nàng phát
tâm lên Ðức Phật muốn bán chiếc áo để làm việc thiện. Ðức Phật
khuyên bà nên xây cất một tịnh xá để chư Tăng có chổ trú nghỉ.
Vì không ai có đủ tiền mua bộ y phục quý giá đó, nên nàng tự
mình mua lại bộ y phục và dùng tiền xây dựng một tịnh xá đẹp
đẽ; Tại ngôi tịnh xá này, Ðức Phật đã nhập hạ sáu lần. Ngoài
ra nàng còn chia đều công đức với cô tỳ nữ, người đã tạo cơ
hội cho nàng xây cất tịnh xá cúng dường Phật và chư
Tăng.
- Tâm cúng dường
của nàng còn biểu hiện qua tám điều thỉnh cầu:
-
Dâng Y đến chư Tăng trong mùa nhập hạ cho đến
khi nàng qua đời.
-
Ðể bát những vị Sư đến thành Sàvatthi.
-
Ðể bát những vị rời thành Sàvatthi.
-
Dâng thực phẩm đến những vị Sư đau ốm.
-
Dâng thực phẩm đến những vị chăm sóc những Sư
đau ốm.
-
Dâng thuốc men đến những vị Sư đau ốm.
-
Dâng lúa mạch đến các Sư.
-
Dâng Y tắm đến các vị Tỳ Kheo Ni.
-
Và chuyện kể rằng nàng cũng rất giàu lòng
thương súc vật. Phải chăng đầy đủ duyên lành với Phật Pháp và
nàng có nhiều may mắn hơn nàng Kiều khi có những thiện tri
thức như : Ông Ngoại của nàng, như người cha yêu quý, như
người tớ gái trung thành vv... Và hơn hết là nàng được đại
duyên làm đệ tử của một vị Thầy khả kính, Bậc Thầy của trời
ngưòi, Bậc có khả năng hướng dẫn chúng sanh thoát khỏi biển
sanh tử.
- Vậy thì phải
chăng số phận của con người luôn phải ở trong định mệnh như
Nguyễn Du đã hiểu :
-
- “ Trăm năm trong cõi người ta,
-
Chữ tài chữ mệnh vốn là ghét nhau”
-
Thay cho lời kết, người viết muốn trích một câu
thi kệ Kinh Pháp Cú : “ Hạnh phúc thay Ðức Phật ra đời” để
thấy rằng chúng sanh đau khổ trong sáu cõi, mong ước có một
lần gặp được Chánh Pháp của Ðức Như Lai. Và thế giới ngày nay
đang trên đường tiến đến đỉnh cao của khoa học, nhưng cuộc
sống thì luôn bất an và bạo lực thì xãy ra khắp nơi. Những lời
dạy của Ðức Phật vẫn mãi là thông điệp hòa bình của nhân loại.
Chúng ta hãy tiếp nhận và trân quý, đừng chậm trễ.
-
|