NIỆM PHẬT
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
-
Ðạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu, là một biện chứng giải thoát,
một con đường giải thoát. Giải thoát hết phiền não, hết bát
khổ, ra ngoài tam giới tức là cõi dục, cõi sắc và vô sắc.
Chân lý mà Ðức Phật diễn giải rất là hiển nhiên dễ dàng, nhưng
cũng rất là huyền nhiệm mênh mang. Chân lý ấy có thể thu gọn
trong một chữ Tâm hay chữ Như cũng được, nhưng nếu giải ra nói
suốt một kiếp cũng chưa hết.
-
Pháp môn của đạo Phật cũng vô lượng, và đạt đến những tam muội
giải thoát cũng vô lượng. Một vị hành giả có thể ngồi trong
buồng, nơi rừng vắng hoặc bãi tha ma, quán lẽ Thập Nhị Nhân
Duyên, quán Ngũ Uẩn, quán Sương Khô, quán Âm Thanh, quán mùi
hương, như lối chín năm quay mặt vào vách của Ðức Ðạt ma, hoặc
có thể niệm một câu Nam Mô A Di Ðà Phật hay chỉ một chữ Phật
cũng được.
-
Pháp môn tuy rất nhiều, nhưng tựu trung chỉ có hai đường: một
là tu Quán dùng Thiền Ðịnh và Trí huệ Bát Nhã để soi suốt lẽ
vô thường của muôn vật; hai là tu Tịnh Ðộ, níu lấy câu niệm
Phật và dùng lòng sùng kính tôn thờ d8ể đạt tới bờ giải
thoát. Lối thứ nhất là dùng Tự -Lực; lối thứ hai là nhờ Tha
lực, tức là thần lực của chư Phật và Bồ Tát. Lối thứ nhất
cũng gọi là "nan hành đạo", còn lối thứ hai là "dị hành đạo"
tức là con đường dễ đi.
-
Thực ra thì Thiền Tông hay Tịnh Ðộ cũng đều độc đáo, và sự khó
hay dễ chỉ là do căn duyên của từng hành giả và vạn kiếp của
đạo. Thời này, theo Kinh Phật, là thời mạt kiếp, căn cơ
thường thấp kém, nên tu tự lực khó và tu theo lối niệm Phật
thì dễ hơn.
-
Lối tu Tịnh Ðộ là phát xuất từ Kinh A Di Ðà, Vô Lượng Thọ và
Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Ðiểm đặc biệt của Kinh A Di Ðà là
trong kinh này, tuyệt nhiên không có một vị nào cầu Pháp cả,
mà tự nhiên Ðức Phật nói ra kinh này. Tại sao vậy? Chỉ là vì
trong khi vào tam muội, Ðức Phật nhìn thấy rõ ràng đến thời
mạt kiếp, căn cơ chúng sinh thấp kém, lòng tin băng hoại, kinh
sách mất dần, nên Ngài động lòng từ bi, tự ý nói ra một pháp
môn dễ nhớ và dễ tu, vì chỉ cần nhờ một câu: A Di Ðà Phật.
Ðiểm cảm động nhất trong kinh là đức Phật đã phải thè lưỡi ra
thề thốt về sự hiệu lực của pháp môn này. Không những riêng
Ðức Thích Ca thề mà cả chư Phật mười phương cũng thề. Tại sao
vậy? Vì Ðức Phật e ngại rằng chúng sinh thấy pháp môn này
giản dị quá mà hoài nghi, nên chư Phật đã thề.
-
Vả lại tu thiền định theo lối tự lực không, mà không kèm theo
câu niệm Phật thì dễ bị ngã vì ma chướng. Xem như Kinh Lăng
Nghiêm, ông A Nan đã gần tới bậc A La Hán và đa văn hạng nhất
, cũng còn bị ma chướng là người kỳ nữ Ma Ðăng Gìa cám dỗ.
Khiến Ðức Phật phải sai chính Ðức Văn Thù mang chú Lăng Nghiêm
đến giải cứu. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật cũng kể rõ năm
mươi món ma chướng mà người hành giả tu quán "Ngũ Uẩn Giai
Không" dễ mắc phải... Cũng vì thế mà ở Trung Hoa hay Việt Nam,
một thiền viện thường có "Niệm Phật Ðường", và rất nhiều vị
Thiền Sư bản lãnh cao với vẫn phải tu thêm câu niệm Phật. Vì
có câu niệm Phật, mới tránh khỏi ma chướng, gột được lòng kiêu
mạn và mới có thể vãng sanh sang một cõi đất lành.
-
Nhờ thần lực của Ðức Di Ðà, Ðức Thích Ca và Chư Phật mới được
vãng sanh và đỡi bị đoạ. Người tu thiền tự lực, càng cao bao
nhiêu càng dễ bị đoạ bấy nhiêu. Chỉ động một niệm tà như tự
kiêu, hoặc thèm ăn, hoặc động một niệm dâm dục là có thể bị
đọa. May thì trở lại làm người, không may sẽ đọa hơn nữa. Sử
chép rất nhiều chuyện như vậy. Như ông Tô Ðông Pha kiếp trước
là một thiền sư khá lỗi lạc, nhưng một lúc ngồi thiền chợt
động niệm thanh sắc, nhớ tiếng hát của kỳ nữ, nên kiếp sau chỉ
làm một thi sĩ không còn nhớ đến những chủng tử thiền của kiếp
trước nữa. Ấy là đọa nhẹ.
-
Có một vị tiên tu thiền, trước kia trong lúc ngồi thiền, chợt
nhớ đến mái tóc một vị hoàng hậu rồi lại đâm cáu giận với một
con qụa kêu làm rối loạn sự thiền định của mình, mà đến kiếp
sau bị đọa làm thân con phi-ly tức là con chồn, mặc dầu ông ta
nhiều bản lãnh... Sở dĩ bị đọa là vì một khi vào bào thai, đến
bậc La Hán hoặc sơ Bồ tát cũng vẫn bị mê muội và quên mất bản
lãnh của mình. Chỉ có những bậc Bồ Tát cao và chư Phật lúc
vào bào thai mới không bị mê muội mà thôi.
-
Thần lực của câu niệm Phật và của chư Phật có thể ví như một
chiếc thuyền lớn, chở hộ cho hành giả những nghiệp sâu dày,
hoặc làm tiêu tan dần nghiệp đó. Nên có thể "đới nghiệp vãng
sanh". Người tu niệm Phật cũng thường được chuyển nghiệp,
chuyển nghiệp nặng ra nghiệp nhẹ. Có một vị cư sĩ suốt đời tu
niệm Phật, đến lúc già bị bọn cướp vào đâm cho ông sáu lát
dao. Ông nằm hấp hối. Người anh hỏi: "Sao chú niệm Phật mà
lại bị nạn này?" Cư sĩ mở mắt ra nói: "Em được chuyển
nghiệp. Theo nghiệp cũ, đáng lẽ em phải đọa làm sáu kiếp súc
sinh. Nay sáu lát dao này thay cho sáu kiếp lúc sanh. Bây
giờ, em sạch nghiệp rồi và em vãng sanh đây." Nói xong thì
chết.
-
Niệm Phật là luôn luôn xưng danh hiệu Ðức A Di Ðà và giữ trong
tâm một hình bóng của Phật. Ðó cũng là một lối thiền, nhưng
là thiền về hình bóng của Phật và niú lấy danh hiệu Phật làm
một bóng cả để nương nhờ.... Trên thực tế, người hành giả nên
tu vừa thiền vừa tịnh. Một phần thiền, và phần chính yếu là
tịnh. Thiền có điểm lợi là mình dễ tế nhận được "cái thấy"
của tâm thức, "cái thấy" này được kinh Lăng Nghiêm giảng rất
rõ. Còn phần tu tịnh thì nhờ được thần lực của chư Phật và Bồ
tát...
-
Kẻ viết giòng này, trước kia ham đọc thiền, và ngu muội coi
nhẹ câu niệm Phật, cho đó là lối tu của mấy bà già nhà quê.
Nhưng rồi ngồi thiền thấy như leo vách đá, không biết niú vào
đâu. Sau hiểu ra nhờ đọc cuốn Lá Thơ Tịnh Ðộ của Ngài Ấn
Quang và nhung sach cua Thuong Tọa Trí Tịnh và Thiền Tâm (đều
ở lại Việt Nam, một vị ở Thủ Ðức, một vị ở Blao). Viết những
giòng này để tưởng nhớ hai vị Thượng Tọa.
|