-
Cảm Niệm
-
Mừng Phật Thích Ca Giáng Trần
-
Hòa-Thượng Thích Huyền-Tôn
-
---o0o---
-
-
Dẫn nhập: lời sám hối.
Kính lạy Ðấng Thế-Tôn,Con phải nói thế nào khi mà con dùng
tiếng nói của phàm phu chưa trọn vẹn cả tinh ba của ngôn ngữ
con, để nói lên sự Giáng-trần cao tột của Như-Lai ! Với tri
kiến bé bỏng, với một vài lơì thỉnh cầu của đạo bạn, con đã
phải hạ bút giảng nói về Ngày Giáng Thế của Ðấng Từ Tôn, Ngày
hoan lạc của Tứ-sanh, Lục-đạo, Ngày sáng chói Cao Thượng tuyệt
vời ! Tiếng nói của con tuy khô cằn, vụng dại nhưng cảm niệm
của con là cả một không gian vui mừng, tán thán về một bậc
Thầy, Cha lành của Tam Giới Ðại Thiên.
-
Con kính lễ sám hối như tiếng reo của trẻ thơ đã lưu lạc trong
hằng sa cát bụi, vào giờ phút vui mừng gặp lại đấng cha lành
đã cứu vớt chúng con biết lối ra khỏi nẻo đường khổ đau, sinh
tử.
-
Kính chư quí vị trong cõi nhơn thiên,
-
Nói đến Ðản Sanh về Ðức Phật, là nói đến sự hạnh phúc to lớn
cho nhân loại, cho tất cả tam-giới. Vậy chúng ta thử xem lại
có bao nhiêu từ ngữ trân quí nhứt mà hàng đệ-tử đã chọn để tôn
kính ngày Ðức Phật xuất hiện vào cõi thế gian.
-
Những kỉnh từ thường dùng :
-
Nam phái Phật-Giáo (nam tông) thì gọi là VESAK DAY. Và
Tông-phái nầy không nhìn nhận chữ BUDDHA'S BIRTHDAY là đúng.
(Anh Ngữ).
-
Bắc Tông Ðại-Thừa Phật-Giáo thì : Ðản-Sanh.
Giáng-Sanh. Giáng-Trần.
-
Giáng-Thế. Giáng-Phàm. Lâm-Phàm. Xuất-Trần. Giáng-thần. Khánh
Ðản. Vậy Kỉnh Từ nào là đúng nhất?
-
Ðã từ lâu, các chùa mỗi khi gần ngày Lễ mừng Giáng
Trần thì đều thông bạch, thông báo, thông tư kêu gọi, nhắc nhở
quần chúng Phật-Tử chuẩn bị mừng lễ Giáng Trần, khi dùng
kỉnh-từ nầy có lúc trong một văn thư đoạn trước, đoạn sau phải
đến hai kỉnh từ mà vẫn chưa thỏa nỗi niềm kính ân, trọng đức
vô biên đối với Phật ; là tại sao vậy ?
-
Thẩm xét điều đó, ta thấy rằng nội dung một số từ
trong chín kỉnh-từ nầy, nó không đủ tầm vóc chuyên chở được
cái tính chất vô cùng trọng đại, vô cùng tôn quí, khi mà phải
trải qua thật nhiều thiên niên kỷ và cơ duyên đáo đỉnh mới có
một Ðức Phật xuất hiện trong cõi đời.
-
Tỷ như ngày Ðức Phật Di-Lặc Giáng Trần vào thời gần nhứt là
kiếp thứ mười, ấy thế mà vẫn phải còn hơn 16 triệu năm nữa.
-
It ra, từ ngữ cung kỉnh nầy dù không toàn vẹn
nhưng bản nghĩa của nó không thể hàm chứa cả nghĩa tốt và
nghĩa không tốt, như thế là chữ đó, có tì vết.
-
Vậy chúng ta thử chọn bản nghĩa của một số từ nêu trên và, cân
nhắc cái tính khả kính không nặng về thần quyền, không tì vết,
mà đủ nghĩa tôn kính và bình dị , 1 hay 2 trong chín từ trên
xem có trọn vẹn không ?
-
*Ðản Sanh : Chữ Ðản, khá quan trọng vì, được dùng nhiều nhất.
Chữ Ðản đồng nghĩa với chữ Sanh. Riêng chữ sanh có nghĩa là
sanh ra, sự sống, sanh thời là giờ sanh, lúc sanh. Nhứt sanh
là suốt đời. Nhưng với chữ Ðản, thật có chút "buồn" vì bản
nghĩa chữ "Ðản" có tì vết ! Nghĩa chính của Ðản là -Sanh ra,
To, lớn và cũng có nghĩa là nói sai, nói quàng, như 'hoang
đản' ! Nếu Ðản làm trợ từ như Thánh-Ðản (ngày ra đời của bậc
thánh). Phật-Ðản (ngày ra đời của Ðức Phật). Thực ra với từ
nầy là do nhờ chữ Phật hay chữ Thánh làm chủ từ để từ đó chữ
Ðản có độc nghĩa là sanh, phụ nghĩa là to lớn, vỹ đại. Nói
khác đi nếu không phải là chủ từ Phật, Thánh thì bản nghĩa tì
vết của chữ "Ðản" khó mà dấu cho nó kín được. Tóm lại, từ Ðản
tuy không có tính thần quyền, không thần thánh hóa, rất bình
dị nhưng có tì vết ! Ðể lên bàn cân thì tỉ lệ tì vết chiếm 20
phần trăm. Không biết có nên xưa bày nay theo hay không ?
-
Chữ "Lâm Phàm" thì gần đây có vài chỗ dùng tới. Tuy nhiên hai
chữ nầy đều cùng giọng bình, nên nghe êm tai, nhưng bản nghĩa
thì tầm thường. Vì Lâm là đến, như mời khách đến là "quang
lâm" . Nhưng mà, lâm-phàm tức là không phải người ỏ cõi phàm
rồi; thâm ý là Thánh Nhân từ cõi siêu việt đến. Dù thâm ý là
như vậy, nhưng nếu từ hành tinh khác đến thì sao ? Nếu dùng
Mừng Ngày Lâm Phàm, thì quả thật ai đó còn ấu trỉ về hán tự
nhiều lắm.
-
Chữ Giáng? -Giáng nghĩa là xuống, từ cõi trên (cõi trời).
-
- Giáng Trần: Từ cõi Trời xuống cõi trần gian.
-
- Giáng sanh: Từ cõi trời xuống sanh ra ở cõi người. -(đừng
lầm chữ "trời" là thượng-đế).
-
- Giáng thế: Từ cõi trời xuống cõi thế gian. Giáng ở đây, hàm
ý theo cơ duyên đầy đủ, tới thời cơ, rồi tự ý của đấng siêu
việt đó xuống cõi trần gian, tuy có mang một phần ý nghĩa siêu
huyền , những văn tự biểu trưng rất tôn kính.
-
Nếu hỏi, vậy thì vị quan chức bị tước bỏ phẩm vị
cao, tuột xuống ở vị thấp cũng gọi là giáng, như "giáng chức"
có liên quan gì chữ Giáng nầy không ? Ðó là từ đồng nghĩa,
giáng của bị ép buộc khác hẳn với giáng của tự tại nhiều lắm.
-
Tóm lại, trong số chín kỉnh từ thì : Giáng Trần,
Giáng-Thế và Giáng Sanh mang đầy đủ tính cách cao quí nhiều
hơn.
-
Nhưng, cũng có người không mấy muốn dùng kỉnh từ
giáng sanh, (giáng sinh) vì từ đó Gia-Tô-Giáo đã sử dụng gần
như một quen thuộc.
-
Một điều cũng cần biết rõ, chư Phật trước khi Giáng Trần đều
cùng ở trong nội viện cõi Trời Ðâu-Suất. Trời ở đây là các cõi
Thiên-giới khác hẳn với loại trời của ngoại đạo. Phật dạy :
Trời vẫn là chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, khi hưởng hết
thiên phước thì lại sa đọa. Do đó, các cõi trời đều phải tạo
phước lành lớn. Phước lớn nhứt mà các vị Thiên Chủ ưa thích là
được chăm sóc, giúp đỡ chư Phật lúc Giáng Trần, lúc Phật nói
pháp v.v... như vị Thiên Chủ Ðế Thích đã đem tấm lụa
Ðâu-la-miên để nâng ẵm thân Phật trong giờ sanh thần của Ðức
Phật dưới gốc cây Vô-Ưu.
-
Ngày Giáng Trần của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni Thỉ Tổ Ðạo Phật :
-
Bình-Minh lúc bấy giờ, Ngày 15 (rằm) Tháng Tư AÂm-lịch Năm
Ðinh-Dậu ( năm 624 trước Tây-Lịch. Nếu trước BC thì 623) <xem
rõ phần dưới -Giáng-thế>
-
Bầu không gian trên mặt Ðịa-cầu trong xanh như
ngọc thạch, không gợn một tí mây đen. Aùnh sáng bình-minh của
Thái-Dương đang trồi lên từ phương-đông, ánh sáng của ngày hôm
nay thật kỳ diệu, xòe dài đủ năm màu rực rỡ bao quanh mặt đất
phủ ngập đến phương tây.
-
Thái-Tử Tất-Ðạt-Ða đã Giáng-Thế lên tấm lụa
Ðâu-La-Miên trên bàn tay của Thiên-Ðế chúa tể cõi trời
Ðao-Lợi.
-
*Ngày Giáng Thế theo đúng năm Sanh :
-
Ngày sanh 15/4 /AÂm-Lịch/năm Ðinh-Dậu. TrTây L: 624 năm.
-
Hồng-Bàng kỷ năm 2.256 (tức VN Quốc-Lịch 2256)
-
Tàu : Vua Tương-Vương Nhà Châu năm thứ 28.
-
Mục-Công phá Tấn làm Bá ở Tây-Nhung.
-
Hiện nay : Phật Giáng Trần 2.623 Năm .(Tây-Lịch 1999) Kỷ-Mão.
4878.
-
Ðiều quan trọng lớn cho tất cả những người đích thực hiểu biết
: "Ðối với tất cả các Thánh Nhân, tùy mức độ siêu việt, mỗi
khi ra đời đều sinh vào hai thời giờ :
-
1- Ðại thánh nhân -Từ Bình Minh đến Ngọ. (Phật, Tổ Ca-Diếp
....)
-
2- Khác phàm -Ðúng giờ Tý (qua 0 giờ). (Tổ Huệ-Năng, Lão Ðam,
Khổng..)
-
Ngoài ra, những vị sanh trong đêm, đen tối bao phũ, bão táp
hãi hùng; người trong nhà không dám ra đường . Thường nhân
cũng là kẻ gây tổn hại cho xóm làng bè bạn ! Nếu có kỳ tích
thì là ác ma, hoặc do sự phóng đại của kẻ đầu cơ trục lợi và
sẽ gây nhiều tai vạ chết chóc đảo điên cho nhấn thế. (như
Mác,Hồ,Mao...)!
-
Gần đây, qua bốn thập niên Ðại-Hội PG thế giới,
tại Columbo năm 1950 (Tích-Lan) đã quyết định ba sự kiện thật
quan trọng : "Phật-Giáo toàn thế-giới phải thống nhất : Cờ
Phật-giáo. Ngày Phật Giáng Trần. Phật-Lịch."
-
Ðại biểu chấp thuận bằng lá phiếu (giơ tay) ! và
phải là đa số. Một số Tăng-Già Bắc-Tông cũng đề cập đến việc
ăn chay để tăng trưởng từ bi và diệt sát ngiệp. Nhưng, vì chư
Tăng Nguyên-thỉ Nam-Tông (tiểu thừa) Họ không bỏ được tập quán
ăn mặn, do tông chỉ khất-thực người thí chủ cho thứ gì thì
không ăn thứ khác được.(Bất lập yên soán, nên không có thứ
khác để ăn).
-
Ðại hội nầy chấp nhận : Lá cờ 5 màu : Tượng cho Ngũ-Căn,
Ngũ-lực. Và cũng gói trọn ý tứ "Ngũ châu nhân chủng. Ðồng thời
cũng biểu trưng cái ly,ù Thánh nhân cũng từ trong cõi Ta-Ba,
ngũ thú tạp cư mà ra.
-
Ngày Giáng Trần của Ðức Bổn-Sư thì Ðại Hội quyết
định ngày Trăng tròn Rằm tháng tư âm-lich. ( Vesak Day ). Vùng
Á-châu từ xa xưa đều mừng lễ vào mùng 8 tháng tư Âm-lịch.
-
Dù trong bước ngoặc thay đổi niên đại lịch-sử quả
có lớn lao, và vì tính chất thống nhất, Giáo-Hội Tăng-Già VN
và Châu Á, không thể theo hẳn mới, mà bỏ cũ, nên từ đó có
Danh-Từ -MÙA PHẬT ÐẢN ( Khai Lễ từ 8/4 AÂm-lịch, cho đến hết
ngày 15/4. Cũng gọi là Tuần Lễ Phật-Ðản). Ðiểm nầy càng tuân
thủ vững mạnh, vì có liên quan đến sự cố tiêu diệt PGVN của
chế-độ độc tài thời Diệm 1954-1963 trong kế hoạch nhộm đen đất
nước Việt
Nam.
-
Về Phật-Lịch : Thì Ðại-hội rất là sôi nổi, nhìn
vào đại-biểu thì có cả 500 vị tỳ-khưu ! Nhưng Tỳ-khưu của
Ðại-thừa Bắc Tông vỏn vẹn chỉ có 11 vị ! (Trong đó có Cố
Hòa-Thượng Mật-Hiển và HT Tố-Liên. Ðại biểu cho VN ). Giã dụ
mà 11 vị nầy cho phép mỗi vị được 5 phiếu. Thì cũng chỉ tới 55
phiếu. Tăng Nam Tông Vẫn giữ 445 phiếu thuận). Thực chất
Á-châu có quyền đềà và quyết, nhưng kết quả quá thiểu số,
chẳng khác gì đi dự thính để về tường trình lại mà thôi.
-
Tăng Bắc tông thì nói : Ðã gọi là lễ mừng Phật
Giáng Trần (Ðản Sanh) thì Phật-Lịch phải lấy theo ngày sanh.
Vì có Ðản-Sanh mới có Phật, Thành Ðạo, Niết-bàn đều do đó mà
ra.
-
Nam Tông lại nói : Ðời Ðức Phật Niết-Bàn là trọng đại nhất.
Chưa Niết bàn lấy gì có lịch và... 445 phiếu !
Chư Tăng Bắc Tông : Chỉ còn biết " Nam Mô A Di Ðà Phật". (VN
2. Ðai-Hàn 2. Nhựt 2. Trung-Hoa 5. +11 Ðại Biểu).
-
Và từ đó Phật-Lịch tính từ năm Phật Niết Bàn.
(Tây-L: 1950. P.Ðản 2574. PL: 2494. Năm Canh-Dần. Việt-L:
4829). Tuy nhiên, có những vị vẫn cứ thấy Ngày Giáng Sanh là
quan trọng, vì lịch sử sẽ mất đi <80> năm cổ kính do đó
Phật-Giáo Bắc Tông vẫn giữ Ngày Giáng-Trần (Veask Day), những
cũng ghi nhận Ngày, tháng năm Phật-Lịch Niết-Bàn vào các
Thông-Bạch trong mùa Phật-Ðản.
-
Theo Niết-Bàn : Ngày 15/2 AÂm-Lịch/ năm Bính-Thìn. TrTây-Lịch
: 545 năm.
-
Hồng-Bàng kỷ năm 2.335 (tức VN Quốc-Lịch 2335)
-
Tàu : Vua Linh-Vương Nhà Châu, năm thứ 27.
-
Lão-Tử (Lão-Ðam. Lý-Nhĩ) 27 tuổi (sinh 571 BC) Canh-Dần.
-
Khổng-Tử (Khâu-Trọng-Ni 06 tuổi (sinh 551 BC) Canh-Tuất.
-
Hiện nay : Phật-Lịch : 2.543. Kỷ-Mão. VNQL 4.878. (Tây-Lịch
1999)
-
Ý nghĩa đoạn nầy, so sánh là : Lão-Tử sinh lúc Ðức
Phật 54 tuổi.
-
Ðức Phật Niết-Bàn. Lão-Tử 27 tuổi.
-
Khổng-Tử sinh năm Canh-Tuất (TTL 551) Ðức Phật 74 tuổi.
-
Ðức Phật Niết-Bàn. Khổng-Tử vừa đúng 06 tuổi.
-
Năm TTL 534 Khổng-Tử 20 tuổi, đến học đạo với Lão-Tử . Sau
Phật Nhập-Diệt 11 năm. ( Lý do tôi viết đoạn nầy, là vì nhiều
người viết sử đã lẫn lộn hai chữ "Ðồng thời" trong niên đại
Phật/ Lão/ và Khổng-Tử).
-
Tại Sao Ðức Phật Chọn Ấn-Ðộ Ðể Làm Nơi Thị Hiện Giáng Thế ?
-
Giải thích điều nầy căn cứ vào mấy nhân duyên như
sau :
-
1- Cơ Duyên Hóa Ðộ .
-
2- Ðạo Lý Bình đẳng chuyển hóa Các Pháp Thế-Gian.
-
3- Sanh Già Bịnh Chết của chúng sanh.
-
4- Ðệ nhất nghĩa Tất-Ðàn .
-
1- Cơ Duyên Hóa Ðộ :
-
- *Thiện-Huệ Bồ-Tát, tại Nội-viện cung trời
"Ðâu-Suất-Ðà-Thiên" vì thấy :
-
- Giáo lý của Ðức Cổ Phật Nhiên-Ðăng đã hết không còn tồn tại
trên cõi đời Nhân loại chúng sanh, hiện đầy năm thứ ác trược
(kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược và
Mạng trược).
-
- Ấn-Ðộ là một địa phương đã và đang xảy ra các giai cấp tồi
tệ nhất, ngược đãi bất bình đẳng nhất trên địa-cầu. Mức độ kỳ
thị trong một nhân chủng giữa quí tộc và thường dân, họ đối xử
nhau chẳng khác gì một viên ngọc và cục bùn thối.
-
Giai cấp ấy :
-
1- Dòng Bà-La-Môn : (Brahmanes) Hàng giáo-sĩ, thống trị tinh
thần, chủ tế, họ cho là họ sinh ra từ miệng Phạm-thiên, hàng
sướng nhất...
-
2- Dòng Sát-đế-lỵ : (Kastryas) sinh ra là vua chúa, quan
quyền).
-
3- Dòng Phệ-xà : (Vaisyas) sinh ra là thường dân, nông nghiệp,
mua bán ....
-
4- Dòng Thủ-đà-la : (Soudras) Hạ tiện, nô lệ, khổ sai cho 3
cấp trên , khổ sai suốt đời ...
-
5- Dòng Ba-Ri-A: (Pariahs) Dân mọi rợ, ngoài lề xã-hội, xem
như súc vật, dọn phân, làm việc ô uế, vô cùng tồi tệ.
-
Một, trong trăm ngàn thực thi Bình-Ðẳng của Phật, Ðức Phật đã
nắm tay của một Ba-Ri-a đem về tắm rửa và cho mặc áo tỳ-khưu
và độ vào hàng Tăng chúng. (Vua chúa rất bất bình cho đến khi
vị nầy chứng quả A-La-Hán)
-
- Hoàng-Gia Tịnh-Phan-Vương và vô số những người trong dòng họ
Kiều-Tát-La Thích-Ca, trải qua nhiều kiếp về quá-khứ đã quy
kỉnh về Ðức Phật, tu, nghe pháp và tương quan trong sứ mệnh hộ
trì Phật Pháp và được giải thoát trong kiếp cuối cùng.
-
2- Ðạo Lý Bình Ðẳng chuyển hóa các pháp thế gian :
-
- *Giáo-lý của Phật-Ðà không những đã đem lại cái nhìn và đời
sống tương thân, tương kính, tương trợ cho bốn dòng họ giai
cấp bấy giờ, mà còn đem cho Ấn-Ðộ nói riêng và chúng sanh nhân
loại nói chung một Phật chất bình-đẳng :
-
"Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành, và Ðức Phật
nhấn mạnh: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh". Ðồng nghĩa là
Mọi loài đều có khả năng thành Phật.
-
Một tiếng nổ sấm sét của Pháp-Âm lớn đã làm bàng
hoàng sững sốt cho 52 triết thuyết tôn-giáo : Nào là thượng đế
chúa tể sanh muôn loài! Nào nhất thần thống trị vạn vật! Nào
khổ hạnh cùng cực để về trời thiên đường! Nào sát hại vô số
sinh vật để dâng cúng thần linh rồi được ân huệ về cõi trời
v.v và vv...
-
Pháp-AÂm-Lớn là : Tất cả các Pháp Thế-Gian và kể cả xuất thế
gian đều do: NHÂN DUYÊN SINH. -Nhân Thiện -Y-Báo, Chánh báo
Thiện.
-
-Nhân Aùc -Y-báo, Chánh Báo Aùc.
-
Và chính con người mới là trung-tâm điểm tùy hành động làm
Nhơn, phó sản của hành động làm Duyên mà sinh hóa trong Sáu
cõi : Trời, Người, A-Tố-Lạc, Ðịa-ngục, Ngạ-Quỉ và Súc-Sanh.
Chứ không hề có một đấng hay thần linh nào có quyền ban ơn,
thưởng phạt cho ai cả. Tin như thế là Chánh ! Ngược lại là Tà.
-
3- Sinh. Già. Bịnh. Chết của Hữu Tình Thế Gian :
-
Trong kinh Vô-Thường Ðức Bổn-Sư nói rõ: Ta xuất hiện vào cõi
đời ác trược chính vì ba sự kiện: Già Bịnh Chết của chúng
sanh. Vì muốn diệt những khổ đau thống thiết Sinh Già Bịnh
Chết của hữu tình thế gian mà Phật-Ðà ra đời.
-
Về điểm nầy, những chúng sanh tri kiến còn nhiều hữu lậu đã ôm
một khối hoài nghi: " Từ Phật Niết-Bàn đến nay đã qua 2543
năm, hơn hai rưỡi thiên niên kỷ rồi nhưng loài người và sinh
vật chung nào đâu đã chấm dứt sinh tử luân hồi ??? Khổ đau
cũng vẫn mãi triền miên!!! Vậy hoài nghi nầy có tội báo gì
không ?
-
Hoài nghi là hoài nghi ! Không có tội báo gì hết ! Hoài-nghi
cũng như một nghi tình.
-
Tuy nhiên, hoài nghi phải có một giờ phút chung cuộc giải tỏa
mối hoài nghi đó. Một hoài nghi điên cuồng, do chấp thường,
chấp đoạn tự cố ôm giữ cái mối hoài nghi mê muội cũng như một
cái thùng bằng thủy tinh mà cố chứa phân nhơ vào đó, nhiều lẽ
phải khuyên ta, nên súc bỏ đi để chứa món đồ giá trị vào thùng
thủy tinh đáng giá, mà ta không nghe : thì cái thùng giá trị
đó vẫn mãi mãi bị chứa phân nhơ. Sở-tri-chướng tà ngụy đó sẽ
chôn ta trong muôn đời sanh tử.
-
Ðể sáng tỏ thêm, bạn nghĩ sao? Khi Giáo-Lý Phật-Ðà trên 5 tỷ
người ! Phật-giáo 1 tỷ. Gia-Tô-Giáo cả tỷ. Hồi-Giáo cũng cả
tỷ, ngoài ra có vô số thứ giáo và có vô số thứ không giáo, tạp
giáo. Những giáo thuốc độc, giết người...họ gây ra vô số tai
họa cho nhân loại, cho vô số các sinh vật khác trên thế gian.
Như bạn hiểu đã gây nhân ác thì bị quả ác. Vậy vô số ác nhân,
tất phải có vô số ác quả ! Cố gây ác nhân như vậy bảo ngày nào
mới chấm dứt sanh Lão Bịnh Tử ?
-
Còn nữa, Chiến tranh trên giòng ý-thức-hệ , giết nhau vì lời
nói, vì chủ nghĩa, vì kinh-tế / thương mại/ thổ trạch, vạn thứ
trên không, trên bộ, trên biển cả trong rừng sâu v.v... Họ đà
tuân giữ, tu trì Giáo-lý Phật-Ðà hết chưa ? mà bạn còn phải
hoài nghi ?! Con bìm-bịp, con mèo, con dơi, con muỗi
v.v...chưa hóa kiếp làm người thì ánh sáng dù có sáng cũng
không thích thú gì với xu hướng của nó. Tất cả các
nghiệp-duyên và nghiệp-lực đó làm động-cơ để phát triển cho
bánh xe luân-hồi cứ quay và kéo theo chuỗi sinh già bịnh chết
bất tận, chứ không phải Giáo-Pháp Ðộ sanh của Phật không giải
thoát đối với chúng sanh có tu trì phương pháp của Phật.
-
Thật vậy, chúng sanh tự có Phật tánh, những chúng sanh mê muội
phủ nhận, không lẽ Thế-gian Tam-Bảo kéo Phật-tánh họ ra mà tắm
đượcc sao? Chúng sanh đang đói, cơm giải-thoát đã có đây, các
người hãy ăn đi, kết quả sẽ được no!
-
Nhưng chúng sanh nhìn cơm với hời hợt hoài nghi! lại còn phỉ
báng! Thế gian Tam-Bảo đâu có thể mỗ bụng mà nhét cơm vào
được. Non 4 tỷ người chưa về với chơn lý giải thoát, lại đang
tiếp diễn gây khổ quả cho nhau. Chính bạn hãy bước vào lãnh
vực thực thi và tuyên dương Phật Pháp. Lòng từ bi đó của bạn,
của các bạn của bạn cùng hân hoan đồng tu Phật-pháp thì Sinh
Già Bịnh Chết sẽ dần lui và thế-giới Ta-Bà sẽ biến thành
Tịnh-Ðộ.
-
4- Ðệ Nhất Nghĩa Tất Ðàn :
-
Với Phật, Chơn Tánh và Hữu-Vi cũng vẫn là "Không".
-
Từ đó, chúng ta hiểu rằng : Ðức
Phật Giáng thế là "Thị Hiện" vào thế giới Ðịa-Cầu, một
hành-tinh trong Ba Ngàn Tỷ hành tinh. Danh từ chung của 3000
tỷ thế giới gọi là TA BÀ THẾ GIỚI. Một phạm trù thế giới thuộc
về Uế Ðộ.
-
Trong Ðại-Thừa Pháp-Hoa Kinh: Ðã nói lên mục-đích Giáng-Trần
vô cùng tối yếu của Phật là vì :
-
*Khai hóa cho chúng sanh biết, chúng sanh có
Tri-Kiến-Phật.
-
*Bày tỏ cho chúng sanh thấy, chúng sanh có cùng
Tri-Kiến như Phật.
-
*Dạy pháp nhứt-thừa cho chúng sanh, Ngộ được
Tri-Kiến-Phật.
-
*Dẫn dắt chúng sanh Vào tận cùng trong Tri-Kiến
Phật.
-
Do nguyên nhân đó, nên :
-
Ngày 15.04. cách đây 2623 năm dưới cây Vô-Ưu trong Vườn
Lam-Tỳ-Ni, Bồ-Tát Thiện-Huệ thị hiện trong Phàm thân, con Vua
Tinh-Phạn và Hoàng-Hậu Ma-Da-Phu-Nhân. Khi Giáng-sanh Ngài đã
đi bảy bước trên bảy đóa sen Hồng và Ngài tuyên bố, tiếng nói
bản xứ của loài người : "Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Ðộc
Tôn" (Từ trên cõi trời dưới đến thế gian chỉ có ta là bậc thế
Tôn). Dĩ nhiên bấy giờ có thiên đế , chư thiên hộ vệ bên ngài.
-
Ðoạn lịch sử trên, ngàn năm sau còn có những chất vấn xâm
phạm, tại sao Bậc xuấát thế lại tự tôn cái ngã to lớn của Ngài
như thế ? Bởi tại vì chúng ta chưa am hiểu nghĩa Tất-Ðàn?
-
Tất-Ðàn cũng là một, là Ðệ-Nhất-Nghĩa: Từ nơi vô lượng
pháp-môn để đối trị vô-lượng phiền não, và rột cuộc chỉ có Ba
Thừa. Từ ba thừa chỉ còn Một Thừa. Rốt ráo là Tánh Không.
Nghĩa là tất cả Pháp tánh trên Pháp tướng đều không. Tánh đã
không thì tướng làm sao tồn tại được.
-
Lời nói khi Biểu thị cái tướng
Tay
chỉ thượng và
Tay chỉ hạ đó là cốt lỏi của kinh Pháp Hoa sẽ nói vào năm 65
năm sau.
-
Thuật-ngữ đó, cũng như Người Cha Tôn quí của
gia-đình, vòng quanh lâu năm, giờ về lo sửa sang giáo dục
gia-đình, đến nỗi xa lạ với con cháu! Ông cha phải nói to lên
trước sự ngơ ngác của con cháu: " Ta là Cha thương quí của các
con đây" những đứa khờ dại thầm thì : sao Cha mình cao ngạo
quá thế nhỉ ! Phỏng có được không ?
-
Phạm trù Ta-Bà có tới 3000.000000000 (3 ngàn tỷ).
Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Ðang hóa độ chúng sanh trên phạm
trù này. Ðứng về mặt sinh diệt, ta nói có giáng thế, có
Niết-bàn. Nhưng về mặt hóa-độ Ðức Phật không hề có Sanh, Diệt,
Khứ, Lai gì cả, đó là chơn chánh tin Phật. Vậy lời nói của Cha
với các con không hề mang ý cao ngạo. Như kẻ tà đạo
Kính-hiển-Vi đã nhạo bán năm 1932.
-
Sự Thị Hiện Về Thời Gian Trong Cuộc Ðời Hóa Ðộ Của Ðức Phật :
-
1.Giáng Thế: 15.04 AÂL. Năm Ðinh-Dậu. TTL: 624 . VL: 2256.
-
2 Hiếu ân: 19 tuổi. Năm Aát-mẹo. TTL: 606 . VL: 2274. (Vua
cha bắt buộc Thái-Tử lập hoàng-phi mới đồng ý cho xuất gia)
-
3. Xuất-Gia: M 8/2 năm Aát-Sửu 29 tuổi. TTL:596. VL: 2284.
-
4. Giác Ngộ: 8/12 năm Tân-Mùi 35 tuổi. TTL: 590. VL: 2290.
-
5. Giáo Hóa: Từ 35 đến 80 tuổi (45năm Thuyết Pháp hóa độ vô
số người Ngộ Ðạo)
-
6. Niết Bàn: 15/2. 80 tuổi. Năm Bính-Thìn. TTL: 545. VL:
2335.(Lão-Tử 27 tuổi) (Khổng-Tử 6 tuổi).
-
Ðể cúng dường ngày lễ mừng Giáng Trần của Phật, con viết bài
Giảng nầy trong phạm vi Giáng-Thế và không hề Có Kết Luận:
-
Vì, như trên con đã sám-hối về sự viết lách vụng
dại, thì giờ đây con lại càng không thể kết luận được những
Nghi Biểu, Tướng Mạo và Ðức Hạnh Vô-lượng, Vô-Biên của Phật,
đủ Thập Hiệu Thế-Tôn. Con làm sao ca ngợi được 32 tướng tốt
của Phật, 80 vẻ đẹp đều từ nơi vô lượng kiếp tu hành, lòng từ
bi đó cả đời kiếp con đảnh lễ không đủ được. Ðức
nhẫn nhục của Phật dù bị chặt đứt hết tay chân Phật vẫn mĩm
cười! Ðể cho kẻ thù địch chặt đầu không hề hối tiếc! Ðem thân
cứu đói cho cọp v.v... Ôi! Muôn vàn đức hạnh vì chúng sanh,
cho chúng sanh trong vô số kiếp xa xưa về trước và trên phạm
trù Ta-Bà mãi mãi về sau. Con ngồi viết suốt đời cũng không
kết luận được. Con chỉ biết khể
thủ :
-
Nhứt Tâm Ðảnh Lễ, Vô Ưu Thọ Hạ, Thị Hiện Ðản Sanh, Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật, Thế Tôn.
-
(Bài Giảng Theo Thể Cảm Niệm Mừng Phật Thích Ca Giáng Trần
2623)
-
Mùa Giáng-Thế năm 2623.
-
Phật-Lịch 2543.
-
Việt-Nam Quốc-Lịch 4878.
-
Âm-Lịch năm Kỷ-Mão.
-
Tây-Lịch 1999.
-
|