-
ĐỨC PHẬT
-
NIỀM HẠNH PHÚC CHO NHÂN LOẠI
-
HT. NARADA MAHATHERA
-
---o0o---
-
-
Đức Phật là một chúng sinh duy nhất, một nhà tư duy sâu sắc,
một nhà diễn giả thuyết phục, một hành giả nhiệt tâm, một nhà
cải cách thành công, một bậc đạo sư khoan dung và từ bi, và
cũng là một nhà quản trị tài ba nhất trong lịch sử nhân loại.
Điểm đáng chú ý nơi Đức Phật đó là sự thanh tịnh tuyệt đối và
sự thánh thiện viên dung. Chính vì sự thanh tịnh và thánh
thiện đó mà ngài được tôn xưng là "Bậc thánh thiện nhất trong
những người thánh thiện" . Ngài là hiện thân của những đức
tính siêu tuyệt mà Ngài đã từng giảng dạy. Không khi nào Ngài
biểu hiện sự kém cỏi về đức hạnh. Bất cứ ai khi được tiếp xúc
với Ngài đều nhận thấy được sự vĩ đại của Ngài thể hiện qua cá
tính tuyệt vời của một đấng từ tôn. Ý chí, tuệ giác, lòng từ
bi, tinh thần phụng sự quên mình, đời sống mẫu mực, những
phương pháp truyền giáo toàn thiện và sự thành tựu tối hậu của
Ngài đã cho chúng ta thấy rằng Ngài là một vị đạo sư vĩ đại
nhất.
-
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất
trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này
sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn
trí thức. Cho đến những giây phút cuối đời, Ngài vẫn hóa độ
quần sanh qua tấm gương cao cả và những lời cao quí của Ngài.
Hàng đệ tử kiệt xuất của Ngài đã tiếp bước đấng Từ Phụ. Với
đời sống thanh đạm, họ đã đến những vùng đất xa xôi để truyền
thừa giáo pháp mà không mong cầu sụ đền đáp nào cả. "Hãy liên
tục và kiên trì tinh tấn" là những lời di huấn tối hậu của Đức
Phật. Sự giải thoát và thanh lọc không thể đạt được nếu thiếu
sự tinh tấn của bản thân. Như vậy, Phật giáo không chủ trương
cúng bái, khẩn cầu ; mà thay vào đó thiền định là một pháp môn
tu tập đưa đến tự chủ, thanh lọc vàgiác ngộ viên mãn. Sứ mệnh
của Đức Phật là nhằm vào sự giải thoát chúng sanh khỏi nỗi khổ
đau trói buộc bằng cách đoạn trừ cội gốc của khổ đau và chỉ
dạy một con đường đưa đến chấm dứt sanh tử cho những ai mong
muốn. Tuy nhiên đôi khi Đức Phật cũng thuyết giảng những bài
kinh hướng đến sự tiến bộ vật chất. Cả hai sự tiến bộ vật chất
và tinh thần đều cần thiết cho sự phát triển của một quốc gia.
Một yếu tố không thể tách biệt với những yếu tố khác, cũng thế
không nên hi sinh sự tiến bộ tinh thần để thành đạt sự tiến bộ
vật chất như chúng ta đã chứng kiến tại các quốc gia thiên về
đời sống vật chất trên khắp thế giới. Pandit Nehru thường ca
ngợi Đức Phật là một người con vĩ đại nhất của A? Độ. Tiến sĩ
S.Radha Krishnan, một nhà lãnh đạo của A? độ đồng thời là một
nhà triết gia, đã thể hiện lòng tôn kính đối với Đức Phật như
sau :" Nơi Đức Phật Cồ Đàm, ta nhận thấy một mẫu người tinh
hoa toàn thiện của phương Đông. A?h hưởng của Ngài trong tư
tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hi hữu, nó tỏa rộng
và sâu sắc hơn ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch
sử. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh
từ tinh hoa các bậc hiền trí, bởi vì xét về phương diện lý trí
thuần tuý, chuẩn mực đạo đức và tuệ giác tâm linh, thì chắc
chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất trong
lịch sử".
-
Trong tác phẩm :"The Tree Greatest Men in History" , sử gia
H.G.Well đã viết: "Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con
người giản dị, nhiệt tâm với đạo pháp, một mình phấn đấu cho
ánh sáng tươi đẹp, một phẩm chất chói ngời, một con người thực
thứ không phải nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền
thuyết hoang đường. Ngài đã mang lại một bức thông điệp cho
tòan thể nhân loại. Nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của
chúng ta rất gần gũi, tương đồng với bức thông điệp ấy. Ngài
dạy rằng tất cả những đau khổ và bất mãn trong cuộc sống đều
do lòng ích kỷ sanh ra. Trước khi một người có thể trở nên
thanh tịnh, anh ta cần phải thay đổi lối sống cho riêng mình.
Rồi từ đó anh ta vươn lên trở thành vĩ nhân. Bằng nhiều ngôn
ngữ khác nhau, Đức Phật đã kêu gọi con người hãy từ bỏ bản ngã
của chính mình để sống một đời sống vị tha. Trong một vài
chiều hướng, Đức Phật gần gũi với chúng ta hơn và cũng đáp ứng
được những nhu cầu của chúng ta. Đối với tầm quan trọng của cá
nhân trong tinh thần hi sinh và phục vụ, Ngài tỏ ra sáng suốt
hơn đối với vấn đề trường tồn của kiếp người". Đức Phật thực
sự là một con người, nhưng là một người phi thường bởi lẽ Ngài
không phải bị sanh ra mà Ngài thị hiện nơi trần gian giả tạm.
Ngài thấy được những khả năng tiềm ẩn cũng như sức mạnh sáng
tạo của mọi người. Ngài không tự tôn mình là một đấng thần
linh mà chỉ khuyên nhủ đệ tử của mình hãy noi gương Ngài mà tu
tập vì Phật tánh luôn tìm ẩn trong mỗi người.
-
Đức Phật được các đệ tử tôn kính như là một bậc đạo sư có đức
hạnh tối thượng, nhưng họ không thờ phụng Ngài như một vị thần
linh để mong cầu những đặc ân về vật chất hay tinh thần. Ngài
cũng không để cho các đệ tử nhiệt thành tôn sùng Ngài như một
đấng thần linh. Tuy nhiên có một điểm đáng lưu tâm là không có
một bậc đạo sư đức độ nào"phi thần linh như Đức Phật, nhưng
không có ai thánh thiện như Đức Phật". Bertrand Russell, người
được tặng giải Nôbel văn chương vào năm 1950 đã ca ngợi Đức
Phật là "nhà vô thần kỳ vĩ nhất của mọi thời đại". Để tạo nên
nền hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại, thì sự tỉnh thức
thuần hậu về tôn giáo là một yếu tố hoàn toàn cần thiết trong
thế giới mà nền đạo đức bị suy đồi trầm trọng như hiện nay.
Điều quan trọng là không phải đức tin hời hợt vào giáo lý, tín
điều hay sự quan sát cạn cợt đối với những nghi lễ truyền
thống phục vụ cho quần chúng, mà chính là một đời sống hữu
ích, thanh tịnh, chan chứa một tình thương dào dạt, hòa trong
nguồn tuệ giác vô biên và lối hành xử cao đẹp dựa trên những
nguyên tắc cao thượng mà các vị giáo chủ đã chỉ dạy. Giáo sư
Joad cho rằng:" Vào thế kỷ thứ`VI trước Tây lịch, ở A? Độ và
Trung Quốc đã xuất hiện ba vị đạo sư vĩ đại. Họ đã giúp nhân
loại hiểu rằng việc thực hiện những gì đúng đắn mang lại lợi
ích cho bản thân là vô cùng quan trọng, dù rằng có Thượng đế
hay không. Trong ba vị đạo sư ấy, Đức Phật Cồ Đàm là vị thầy
siêu tuyệt nhất". Đức Phật nhấn mạnh rằng đạo đức là một
phương tiện quan trọng để đạt đến cứu cánh. Ngài khuyên chúng
ta nên trau dồi chánh tư duy vô ngã, lòng từ và vô hại; tu tập
chánh ngữ là từ bỏ lời dối trá, độc ác; thực hành chánh nghiệp
là từ bỏ sự sát sanh, trộm cướp dù trực tiếp hay gián tiếp và
từ bỏ tà hạnh; và chánh mạng là tạo ra tài sản của cải một
cách hợp pháp, không bóc lột, đúng đạo lý . Tất cả những điều
trên đều đặt trên nền tảng đạo đức . Đức Phật đã thuyết giảng
bức thông điệp thấm nhuần luân lý đạo đức, chan chứa lòng từ
bao la và tinh thần phụng sự vô ngã không chỉ cho các bậc vua
chúa vương tử, các nhà quý tộc, triệu phú, mà còn giảng dạy
cho những người hèn hạ, nghèo cùng, khốn khổ . Ngài mang lại
sự bình đẳng cho mọi người và đề cao địa vị của con người .
Ngài tuyên bố rằng con đường đưa đến sự thăng hoa tâm linh
đang rộng mở cho tất cả mọi người, ai cũng như ai, cao sang
hay thấp hèn, bậc đạo đức hay kẻ phạm tội, những ai đang cố
gắng sống một cuộc sống thuần thiện, hoàn hảo .
-
Hàng ngày, Đức Phật thuyết pháp cho chư Tỳ kheo và các vị cư
sĩ . Nhưng những gì Ngài dạy chỉ là một phần rất nhỏ so với
những gì mà Ngài biết . Một lần nọ, Ngài cầm một nắm lá trong
tay, và nói rằng những gì Ngài dạy giống như lá trong tay, còn
những gì Ngài biết giống như lá trong rừng . Ngài chỉ dạy
những gì cần thiết giải thoát của chúng ta . Trong cuộc sống
thường nhật, Ngài quan sát những người cần được giúp đỡ, Ngài
giảng dạy và khích lệ các đệ tử thành tâm với Ngài, và Ngài
giảng pháp cho chư Thiên, cho những người dân chất phác và
giới trí thức bác học . Lời dạy của Ngài như sữa cho trẻ thơ,
như thức ăn bổ dưỡng cho người lớn . Trước khi thuyết giảng,
Ngài quan sát thính chúng như người đói cần ăn . Thức ăn cho
thân cũng cần thiết như thức ăn cho tâm . Ngài chăm sóc người
bệnh bằng chính đôi tay của mình và Ngài tuyên bố rằng :"Ai
chăm sóc người bệnh cũng chính là chăm sóc Như Lai" .
-
Đức Phật đã tạo nên một mô hình xã hội không có giai cấp bằng
cách thiết lập Tăng đoàn cho những người muốn kế thừa sự
nghiệp của Ngài, không phân biệt giai cấp, tầng lớp xã hội,
chỉ có sự phân định về giới phẩm như : Sa di, Tỳ kheo, Thượng
tọa, Thượng tọa Trưởng lão và sự thành tựu thứ lớp chứng đắc
bốn Thánh quả siêu thế. Các nguyên tắc của Tăng đoàn được hình
thành cũng mang tính dân chủ . Liên hệ về điều này, Zetland đã
nói :"Nhiều người rất ngạc nhiên khi nhận ra rằng các cuộc hội
nghị của người Phật tử tại A? độ cách đây hơn 2500 năm đã trở
thành những mô hình căn bản mà ngày nay chúng ta thực thi tại
nghị trường . Cũng thế, lần đầu tiên trong lịch sử, Đức Phật
đã thành lập giáo đoàn Tỳ kheo ni cho người phụ nữ, không phân
biệt tầng lớp hay đẳng cấp xã hội . Ngài đã mang lại quyền
bình đẳng cho người phụ nữ trong sự thăng tiến tâm linh" .
-
Đức Phật cũng được xem là người đầu tiên trong lịch sử nhân
loại quyết tâm xoá bỏ chế độ nô lệ khi Ngài đưa ra quan niệm
về tình thân ái cũng như chân giá trị của con người, Ngài kiên
quyết chống lại các cuộc tế lễ đem những con vật xấu số ra
cúng tế và Ngài luôn tỏa rộng lòng từ đến cho muôn loài . Một
người Phật tử chân chính là người luôn mang lòng từ đến cho
chúng sanh mà không hề có ý niệm phân biệt nào cả . Chính lòng
từ là nền tảng tạo ra tình thân ái giữa các quốc gia và tôn
giaó, từ đó phá vỡ tất cả những hàng rào chắn ngăn cản giữa
quốc gia này và quốc gia khác, giữa tôn giaó này và tôn giaó
khác . Nếu như những tín đồ thuộc các hệ thống tín ngưỡng khác
nhau không thể cùng gắn bó trong tình huynh đệ chỉ vì họ theo
các tôn giaó khác nhau, thì chắc chắn rằng những vị giaó chủ
cao thượng của họ không làm tròn được sứ mạng thiêng liêng
phục vụ cho sự nghiệp của nhân loại . Đức Phật là một người
giàu lòng khoan dung . Thiếu khoan dung độ lượng là kẻ thù lớn
nhất của tôn giaó . Do đó Đức Phật khuyên các đệ tử Ngài không
nên sân hận, bất mãn hay sầu buồn khi người khác phỉ báng
Ngài, giaó pháp của Ngài hay các Tỳ kheo, Ngài dạy rằng :"Nếu
các con biểu lộ sự bất mãn thì không những các con đã tự tạo
ra những nguy hiểm về sự mất mát tinh thần mà các con cũng
không thể xét đoán những gì mà người ta nói là đúng hay là
sai". Tiến sĩ Radha Krishnan nói rằng :"Đó là một tình cảm
toàn giác cao thượng nhất suốt 2500 năm sau khi Đức Phật giác
ngộ". Đức Phật không hề giảng dạy những giaó lý để người ta mù
quáng tin theo, không yêu cầu con người phải chấp nhận những
giáo điều, tín ngưỡng nếu chưa dùng lý trí để soi xét . Ngài
không đặt ra lễ nghi mê tín để dẫn dắt người vào đạo, không
bày ra sự sám hối hay tế lễ vô nghĩa để cầu sự thanh tịnh hoá
. Đức Phật chỉ trình bày những chân lý đơn giản cho quần chúng
và giảng dạy những triết lý thâm sâu cho giới trí thức . Ngài
khuyên những người tìm cầu chân lý không nên tin vào quyền
năng của một ai mà hãy thực nghiệm bằng trí tuệ và tự mình xem
xét điều đó là đúng hay sai .
-
Suốt chặng đường 2500 năm ôn hoà của Phật giaó, không giọt máu
nào đổ xuống vì sự truyền bá chánh pháp, không có sự cảm hoá
bằng võ lực hay bất kỳ một phương tiện cưỡng bách nào khác.
Đức Phật mãi là nhà truyền giaó đầu tiên và vĩ đại nhất đã
từng sống trên thế gian này. Những lời dạy cao siêu của Ngài,
đã được hoằng truyền rộng rãi và đang tỏa rộng trên khắp thế
giới, hòa nhập vào tất cả quốc gia bởi những lời dạy ấy luôn
mang tính lý luận chặt chẽ, khả năng hiện thực, tính hữu hiệu,
bất bạo động, đầy khoan dung và luôn khế hợp với các nguyên lý
vũ trụ . Phật giáo đã có những đóng góp to lớn cho sự tiến hoá
của nhiều quốc gia tại châu Á . Thực ra, tất cả những quốc gia
Phật giáo đang lớn mạnh từ chiếc nôi Phật giaó .
-
Có những quốc gia hưng thịnh rồi suy tàn . Cónhững đế quốc
được xây dựng trên bạo lực và cường quyền đã trở nên thịnh
vượng rồi cũng bị tan rã, nhưng vương quốc chánh pháp do Đức
Phật lập ra bằng tình thương, lòng từ bi và tuệ giác vẫn đang
phồn thịnh và sẽ tiếp tục thịnh vượng trên thế gian này .
-
( Theo The Buddha, Minh Cảnh dịch )
-
(Tuần báo Giác Ngộ số 16 – 5/2000)
-
Source:
Lotusnet
-
|