-
ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
-
HT. Thích Thiện Hoa
-
(Trích từ Phật Học Phổ Thông)
-
---o0o---
-
-
A. MỞ ĐỀ
-
ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA LÀ MỘT TẤM GƯƠNG SÁNG
-
Bắt nguồn một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là một
tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước. Nhưng trong
các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới này,
không có một vị* nào đầy đủ ý nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu
xa bằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ,
mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học
quý báu cho chúng ta. Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà
không hiểu rõ đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta
còn phiến diện, thiếu sót. Đời Ngài chính là những biểu hiện
giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời
Ngài đã nói. Đời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người
đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực hiện được, chứ
không phải là những lời nói suông, những không tưởng, những
lâu đài xây dựng trên mây, trên khói.
-
Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta không nên
có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn tánh hiếu kỳ, mà
chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm túy của đời sống ấy để
đem áp dụng cho đời sống của chúng ta.
-
Làm được như thế mới khỏi phụ ý nguyện lớn lao của đức Phật
khi giáng sanh xuống cõi Ta Bà này và đã cam chịu bao nỗi đau
khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng ta.
-
B. CHÁNH ĐỀ
-
I-
ĐỊNH NGHĨA HAI CHỮ "GIÁNG SANH"
-
Thường trong danh từ nhà Phật, khi nói đến sự hiện diện của
đức Phật Thích Ca trong cõi đời này, người ta thường dùng chữ
đản sanh (nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm hân hoan, xán lạn
cho cõi đời); hay thị hiện (nghĩa là hiện ra bằng xương bằng
thịt, cho con mắt trần của chúng ta thấy được); hay giáng sanh
(nghĩa là từ một chỗ cao mà xuống một chỗ thấp để sanh ra).
-
Ba chữ ấy đều có 3 ý nghĩa khác nhau: Chữ đản sanh dùng để ca
tụng một bậc tôn quí ra đời; chữ thị hiện hàm cái ý Phật bao
giời cũng có cả, nhưng vì mắt người không thấy được, phải hiện
rõ ràng ra mới thấy; chữ giáng sanh hàm cái ý đức Phật ở một
cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần
này. Ba chữ ấy mặc dù khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ
sự ra đời của đức Phật. Trái lại, khi một nguời phàm ra đời
thì gọi là "đầu thai". Đầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc
thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành hay
dữ. Còn giáng sinh hay thị hiện thì không hàm cái nghĩa bị
nghiệp nhân câu thúc, mà do nơi lòng từ bi, muốn lợi ích cho
chúng sanh, nên tự nguyện ứng thân xuất hiện ra đời trong một
thời gian để cứu độ chúng sanh; xong xuôi thì thâu thần tịch
diệt, tự tại vô ngại ra ngoài sống chết.
-
II- HOÀN CẢNH VÀ DÒNG DÕI CỦA ĐỨC THÍCH CA
-
Đức Phật giáng sinh ở xứ trung Ấn Độ, bây giờ là nước Népal,
một nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, là một dãy núi cao
nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp; đến mùa xuân cả nước
đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ đại. Dân cư ở xứ ấy rất là
thuần lương. Vị vua trị vì là Tịnh Phạn, một vị vua thuộc dòng
Thích Ca, là một dòng họ lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì
đất nước này. Bà Hoàng Hậu Ma Da, cũng là một người thuộc dòng
vua chúa đã lâu đời. cả hai ông bà vua Tịnh Phạn đều là người
đã nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ
muôn dân.
-
Một hôm, trong thành Ca Tỳ La Vệ, là kinh đô của vua Tịnh
Phạn, có lễ vía tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội ăn chơi.
Hoàng Hậu Ma Da, sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung
điện rồi, ra ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân bần cùng.
Khi trở về cung an giấc, Bà nằm mộng thấy một con voi trắng
sáu ngà từ trên hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của
Bà mà chun vào. Bà đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua
Tịnh Phạn nghe. Vua ra lịnh mời các thầy đoán mộng. Các nhà
tiên tri đoán rằng: "Hoàng hậu sẽ sanh một quý tử tài đức song
toàn". Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ, vì ngôi báu từ đây sẽ có
người truyền nối.
-
Đến sáng ngày mồng tám tháng tư âm lịch (trước Tây lịch 624
năm), tại vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ 15 cây số,
Hoàng hậu Ma Da đang ngoạn cảnh, trông thấy cành hoa Vô Ưu mới
nở, thơm ngát, bà đưa tay phải với hái, thì Thái Tử cũng vừa
xuất hiện ngay đấy.
-
Ngày đản sanh Thái Tử, trong thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật đều
vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa trổ trái;
sông, ngòi, mương, giếng nước đều trong đầy; trên hư không
chim chóc và hào quang chiếu sáng cả mười phương.
-
Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn xiết mời các vị tiên tri đến xem
tướng Thái Tử. Trong số ấy, có đạo sĩ tên A Tư Đà tu ở núi Hy
Mã Lạp, tiên đoán rằng: Thái Tử vì có 32 tướng tốt xuất hiện,
nên sẽ trở thành một vị Thánh. Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ
muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì
thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi số mệnh con mình, nên đặt tên
cho Thái Tử là Tất Đạt Đa *(Siddartha) theo tiếng Phạn, nghĩa
là: "Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ". Chức vị mà Tịnh Phạn
Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi Vua. Ngài không ngờ rằng
chính thật chức vị của Ngài là chức vị Phật.
-
Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, vui thú
quá vì thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý, và đã rửa sạch
nghiệp báo nên Bà trút được xác phàm và sanh về cõi trời Đao
Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử cho em gái Hoàng hậu là Ma Ha
Ba Xà Ba Đề nuôi dưỡng.
-
III-
TÀI
NĂNG VÀ ĐỨC HẠNH CỦA THÁI TỬ
-
Thái Tử mỗi năm mỗi lớn, thì diện mạo càng thêm khôi ngôi, tài
năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một sức khỏe hơn người, một
trí thông minh xuất chúng. Từ nghề văn cho đến nghiệp võ, Thái
Tử học với ông nào thì trong ít hôm sau, vị giáo sư ấy phải
xin cáo thối, vì không còn đủ sức để dạy nữa. Cho đến ông thầy
danh tiếng đệ nhất thời bấy giờ là Sằn Đề Đề Bà cũng chịu
khuất phục Ngài luôn.
-
Nhưng, mặc dù tài sức hơn người, thông minh xuất chúng lại ở
trong địa vị cao sang quyền quý tột bậc, Thái Tử không bao giờ
tỏ vẻ ngạo mạn, khinh người. Ngài có một thái độ rất hòa nhã
ôn hòa, vô tư, bình đẳng. Lòng thương người, thương vật của
Ngài không ai sánh kịp, hễ có dịp giúp đỡ, thì dù khó khăn bao
nhiêu Ngài cũng không từ nan. Bởi thế, Ngài được trên Vua cha
yêu quý, dưới thần dân kính trọng, nể vì.
-
IV- NHỮNG RÀNG BUỘC CỦA TỊNH PHẠN VƯƠNG ĐỂ NGĂN CHÍ XUẤT GIA
CỦA THÁI TỬ
-
Càng thương yêu, quý trọng con Tịnh Phạn Vương lại càng lo sợ
con mình sẽ không ở lại với mình, mà sẽ xuất gia tìm Đạo để
thành một vị Thánh, như lời tiên đoán của đạo sĩ A Tư Đà. Nhất
là khi nhận thấy càng lớn, Thái Tử lại càng có vẻ suy nghĩ xa
xăm, và nét mặt Thái Tử lại không được vui tươi như thời thơ
ấu, Vua Tịnh Phạn lại càng lo sợ rằng lời tiên tri xưa sẽ
*thực hiện. Bởi thế, Vua cùng triều thần ngấm ngầm sắp đặt mọi
kế hoạch để ràng buộc Thái Tử ở lại ngôi báo. Ngài truyền xây
dựng ba tòa lâu đài nguy nga tráng lệ để Thái Tử thay đổi nơi
ăn chốn ở cho hợp thời tiết quanh năm, và chọn từng trăm cung
phi mỹ nữ có tài đàn ca hay, múa giỏi để giải khuây cho Thái
Tử. Nhưng chừng ấy cũng chưa đủ Ngài còn làm lễ thành hôn cho
Thái Tử với một Công chúa con vua Thiện Giác là Da Du Đa La,
một Công chúa tuyệt đẹp và đức hạnh vô cùng.
-
Thái Tử bị bắt buộc phải lập gia thất và có một con là La Hầu
La.
-
Nhưng, mặc dù sống một cuộc đời quá đầy đủ: nào chức tước danh
vọng, nào lâu đài cung điện, nào đàn ca múa hát, nào vợ đẹp
con ngoan, Thái Tử vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn
khoăn, thắc mắc. Ngài cho cảnh đời Ngài đang sống đây không
phải là hạnh phúc chân thật, mà là giả dối, mê muội, chỉ làm
cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ. Ngài thấy cần phải tìm một
lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn.
-
V- NHẬN RÕ 4 TƯỚNG KHỔ Ở ĐỜI
-
Một hôm, nhân ngày lễ hạ điền, Thái Tử theo vua cha ra đồng
xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp
mắt, nào hoa lá tốt tươi, muôn chim đua hót; nào bầu trời
quang đãng, gió xuân phơi phới. Cảnh tượng có vẻ thái bình, an
lạc lắm. Nhưng tâm hồn Thái Tử không phải là một tâm hồn hời
hợt, xét đoán một cách nông nỗi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào
trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ
an vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy người nông phu và trâu
bò làm việc một cách cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi
lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống
côn trùng đang giãy giụa* trên những luống đất mới cày. Cũng
trong lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những
con chim kia, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang rình
bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không
phút giây nào ngừng ! Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật
dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm.
Ngài nhận thức rõ ràng sự sanh sống là khổ.
-
Một hôm khác, Ngài xin phép Vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành
để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Đông, Ngài gặp một
ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng, nương
gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã.
-
Đến cửa
Nam, Thái Tử thấy một người đau nằm trên cỏ, đang khóc than
rên siết, đau đớn vô cùng.
-
Đến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa đường,
ruồi lằng bu bám, và sình lên, trông rất ghê tởm.
-
Ba cảnh khổ già, đau, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng tương
tàn trong cuộc sống mà Thái Tử đã nhận thấy khi đi xem lễ cày
ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sanh vô cùng.
-
Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo
nghiêm trang, điềm tỉnh thản nhiên như người vô sự đi ngang
qua đường. Thái tử thấy trong lòng nẩy sinh một cảm mến đối
với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của
sự tu hành. Vị Sa môn đáp rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt
mọi sự ràng buộc của cõi đời, *về cầu cho mình khỏi khổ và
thành chánh giác để phổ độ chúng sanh đều được giải thoát như
mình"
-
Lời giải đáp trúng với hoài bão mà Thái Tử đang ấp ủ bấy lâu,
nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung xin vua cha
cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời. Thái Tử yêu
cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn viêđi
tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn diều này là:
-
1. Làm sao cho con trẻ maic không già
-
2. Làm sao cho con mạnh mãi không đau
-
3. Làm sao cho con sống hoài không chết
-
4. Làm sao cho mọi người hết khổ
-
Bốn điều này làm cho vua cha bối rối, không giải quyết được
điều nào cả.
-
VI- SỰ XUẤT GIA TÌM ĐẠO
-
Tịnh Phạn Vương, khi biết được ý định xuất gia của Thái Tử,
lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng buộc Ngài
trong "cung vui". Nhưng một khi Thái Tử đã quyết thì không có
sức mạnh gì ngăn trở được Ngài.
-
Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ
say ngủ sau một tiệc linh đình, Thái Tử lén trổi dậy, *khi
nhìn vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc dậy,
thắng yên cương, rồi hai thầy trò trốn ra khỏi thành. Lúc bấy
giờ nhằm đêm mồng tám tháng h ai, và Ngài được 19 tuổi.
-
Sau khi vứt bỏ khỏi cuộc đời vương giả, Thái Tử đi vào vùng
sdsâu *tìm Đạo.
-
Ban đầu Ngài đến ở tu với các vị tu khổ hạnh. Nhưng hạng người
này sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn uống, dãi nắng, dầm
sương, hành thân hoại thể một cách ghê rợn. Thấy cách tu hành
như thế không hiệu quả, Ngài khuyên các vị đó nên bỏ phương
pháp tu hành ấy, nhưng họ không nghe. Ngài lấy làm thương họ,
nên tìm đi nơi khác để tu hành. Ngài đi hết chổ này đến chổ
khác, ở đâu nghe có một vị tu hành đắc đạo thì Ngài tìm đến
học; nhưng đến đâu thì Ngài thấy đạo của họ vẫn còn hẹp hòi,
thấp thỏi, không thể giải thoát cho con người hết được. Từ đấy
Ngài * chốn tu tập một mình, đêm ngày nghiền ngẫm đến đạo giải
thoát, quên ăn bỏ ngủ thân hình mỗi ngày mỗi tiều tụy. Một hôm
Ngài kiệt sức, nằm ngã liệt trên cỏ, và được một người chăn cỏ
đến đổ sủa cho Ngài tỉnh lại. Từ đó Ngài nhận thấy nếu muốn có
kết quả, cần phải bổ dưỡng thân thể cho được mạnh khỏe, chứ
không bỏ quên nó đi được.
-
Khi thấy mình đủ sức khỏe để chiến đấu trong trận cuối cùng
với bóng tối si mê và dục vọng, và đem lại ánh sáng giác ngộ,
Ngài đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề và thề rằng: "nếu
ta không thành đạo thì thịt nát sương tan, ta cũng quyết không
rời chổ này."
-
VII- THÀNH ĐẠO
-
Đức Thích Ca đã ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ Đề.
Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn giặc phiền não ở
nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn...và chiến đấu với giặc
Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy.
-
Sau khi thắng cả giặc ở nội tâm cả ngoại cảnh, tâm trí được
khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngộ.
-
Trong đêm thứ 49, vào canh hai, Ngài chứng được quả "Túc Mệnh
Minh", thấy rõ được tất cả quá khứ của mình trong tam giới.
Đến nữa đêm, Ngài chứng được quả "Thiên Nhãn Minh", thấy được
tất cả bản thể của vũ trụ và Ngài *nguyên nhân cấu tạo của nó.
Đến canh tư, Ngài chứng được *quả của đau khổ và phương pháp
dứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi tư *pháp luân hồi.
-
Từ ngày ấy, Ngài được Đạo vô thượng, thành bậc "Chánh Đẳng
Chánh Giác", hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày thành đạo của
Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng 8 tháng 12, vào lúc sao
mai mọc. Lúc ấy Ngài được 30 tuổi.
-
VIII- Ý NGHĨA CAO CẢ TRONG SỰ XUẤT GIA TÌM ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
-
Những chiến sĩ chiến thắng quân địch ở ngoài chiến trường,
thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến thắng được nhiều
quân địch càng được hoan hô là anh hùng cái thế. Nhưng những
kẻ anh hùng cái thế ấy, như Nã Phá Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê
Đa (*Céar), chính mình? cho nên thắng người đã khó mà thắng
mình lại khó hơn. Đức Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm,
đã thắng được giặc Ma Vương * Dục Vọng. Đức Phật thật xứng
đáng với danh hiệu Đại Hùng Đại Lực.
-
Ngài không phải * quyền lời riêng mình mà chiến đấu. Ngài
chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở đây cũng không phải
chỉ nhằm tình thương trong phạm * hẹp hòi của gia đình: thương
cha mẹ, vợ con, bạn bè. Tình thương ở đây là tình thương chúng
sanh, tất cả cõi đời. Tình thương ấy nó rộng sâu như trời bể,
thiết tha như tình mẹ thương con. Đức Phật thật xứng đáng với
danh hiệu Đai Từ Đại Bi.
-
Lại tình thương ấy*, Ngài đã hoan hỷ lìa bỏ ngôi báu cung vàng
điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp, mùi ngon vị lạ
để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa rừng
thiêng nước độc. Một khi mà rời bỏ thứ mà người đời cho là qúy
báu nói trên, Ngài không một phút giây nào hối tiếc, muốn quay
về để hưởng thụ lại. Bằng cớ là Ma Vương đã sai con gái mình
giả làm nàng Gia Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về cung, mà
Ngài không một chút bận tâm thối chuyển. Ngài xứng đáng với
danh hiệu là Đại Hỷ Đại Xả.
-
Cho nên ngày nay, mỗi khi xưng tán danh hiệu Ngài, chúng sanh
không thể không suy gẫm cái ý nghĩa sâu sắc và đúng đắn mà
người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng Ngài là Đại Hùng, Đại
Lực, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả.
-
C. KẾT LUẬN: CHÚNG TA NÊN PHÁT TÂM RỘNG LỚN VÀ MẠNH MẼ
-
Chúng ta đã được biết qua đời sống của Đức Phật từ khi sơ sanh
cho đến thành đạo. Bài học của đời Ngài dạy cho chúng ta nhiều
ý nghĩa, nhiều phương diện quý báu.
-
Nhưng điều quý báu nhất đối với kẻ sơ cơ như chúng ta là phải
phát tâm Bồ Đề rộng lớn, nguyện vì đời, vì đồng bào, đồng loại
mà tu hành, chứ không phải *là ích lợi riêng cho chúng ta.
-
Chúng ta lại phải phát tâm dõng mãnh, tích cực trong sự tu
hành; một khi vào đường đạo, thì dù gặp nguy nan, hiểm trở khó
khăn cũng nhất thiết không thối lui quay gót. Chúng ta phải
tập cho được cái đức kiên trí như Đức Phật khi ngồi thiền định
dưới gốc Bồ Đề.
-
Được như vậy mới xứng đáng là "chân chánh Phật tử".
-
-
Phần II
-
Từ Thành Đạo đến nhập Niết Bàn
-
A.
MỞ ĐỀ:
-
Trong bài trước, chúng ta đã thấy đức Phật Thích Ca vì một đại
nguyện lớn lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà xuất gia tìm
đạo. Đại nguyện và lòng từ bi lớn lao ấy là: "cầu thành Phật
quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ".
Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài không vội nhập Niết Bàn, mà
nghỉ ngay đến sứ mạng của Ngài là: thay thế chư Phật đời
trước, tiếp tục chuyển* khai mê cho tất cả mọi người.
-
Sứ mạng ấy Ngài biết không phải dễ dàng, vì cái Đạo của Ngài
thì cao thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn cơ lại không đều,
mà từ muôn kiếp đã lặn hụp trong si mê lầm lạc, khó có thể
nhận hiểu ngay được ý nghĩa cao thâm của giáo lý Ngài. chúng
sanh từ lâu đời lâu kiếp quen sống trong bóng tối của si mê,
ngày nay chắc không phải chóa mắt hoảng sợ khi tiếp xúc với
ánh sáng bừng chói của trí tuệ.
-
Nhưng Ngài xét thấy dù sống trong tâm tối, nhưng mỗi chúng
sanh đều có mầm Phật tánh, như hoa sen, mặc dù sống trong bùn
tanh hôi như vẫn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Ngài cương quyết
thực hiện sứ mạng của mình.
-
B.
CHÁNH ĐỀ:
-
I- SỰ HÓA ĐỘ RỘNG LỚN VÀ CÙNG KHẮP CỦA ĐỨC PHẬT
-
Sứ mạng hóa độ của đức Phật, như chúng ta đã biết, thật nặng
nề và khó khăn. nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, nhờ lòng từ bi
rộng sâu, nhờ tinh thần bình đẳng triệt để và nhờ ý chí dõng
mãnh không thối chuyển mà Đức Phật đã hoàn thành sứ mạng của
mình một cách viên mãn. Trong khi hóa, Ngài đã dựa theo ba
nguyên tắc sau đây:
-
1. Hóa Độ Theo Lớp Căn Cơ
-
Khi bắt đầu đi truyền đạo, ý nghĩ trước tiên của Ngài là đi
vườn Lộc Uyển tìm thấy* người bạn đồng tu với Ngài trước kia
để thuyết pháp. Các người bạn ấy là các ông: *Kiều Trần Như,
Ác Bệ, Thấp Lực, Ma Ha Nam và Bạc Đề. Bài thuyết pháp đầu tiên
ấy làTứ Diệu Đế. Năm vị này điều được khai ngộ và trở thành
năm đệ tử đầu tiên của Ngài. Kế đó, Ngài thuyết pháp trong 3
tháng cho 55 *người này đều xin quy y theo Ngài và họp với 5
người trong nhóm ông Kiều Trần Như thành 60 đệ tử. Sáu mươi đệ
tử này, sau khi giữ đúng giới luật, được Ngài thọ ký cho đi
truyền đạo khắp nơi.
-
Ngài rời Lộc Uyển đi về phía nam đến xứ Ưu Lầu Tần Loa và hàng
phục một vị tổ sư rất có uy tín của đạo Thờ Lửa là ông Ma Ha
Ca Diếp và hai em ông.
-
Ông Ca Diếp mang tất cả đệ tử của mình gồm 2250 vị xin quy y
theo Phật.
-
Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần Bà Xa La, Ngài đi đến xứ Ma
Kiệt Đà vào thành Vương Xá để độ cho vua. Vua Tần Bà Xa La gặp
lại Ngài vui mừng khôn xiết, truyền xây tịnh xá Trúc lâm để
thỉnh Phật và chúng Tăng ở lại thuyết pháp độ sanh.
-
Trong lúc Phật ở tại tịnh xá Trúc Lâm, thì vua Tịnh Phạn nghe
tin Ngài đã thành Phật, truyền sứ giả đi thỉnh Ngài về thành
Ca Tỳ La Vệ. Nhưng chín lần chín sứ giả ra đi đều biệt tăm,
không trở lại. Thì ra những người này khi đến Trúc Lâm nghe
Ngài thuyết pháp, đã say mê quên sứ mạng của mình và xin thọ
giới xuất gia.
-
Lần thứ mười, Tịnh Phạn Vương sai một cận thần thân tín là Ưu
Đà Di, mới thỉnh được Phật về. Trên đường từ thành Vương Xá
trở về Ca Tỳ La Vệ, đức Phật đã thuyết pháp độ cho không biết
bao nhiêu người. Về thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc
dù chỉ trong vòng thời gian ngắn ngủi ấy, Ngài cũng cảm hóa
tất cả dòng họ Thích và tất cả những người trong dòng họ này
đều xin xuất gia theo Phật, như các ông:
Nan
Đà, A Nan Đà, A Nâu Lâu Đà,
La Hầu La...
-
Sau khi trở về thăm gia đình và quê hương, đức Phật cùng các
đệ tử lại tiếp tục đi truyền đạo. Ngài đi đến thành Xá Vệ là
kinh đô nước Kiều Tát La, thuộc quyền thống trị của vua Ba Tư
Nặc. Ở thành này, có một đại thần tên là Tu Đạt Đa, giàu lòng
bố thí cho kẻ bần cùng côi cút, nên được gọi danh hiệu là Cấp
Cô Độc Trưởng Giả. Ông rất ngưỡng mộ đức Phật nên đã trút tất
cả tiền của vàng bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của
Thái Tử Kỳ Đà để làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở,
thuyết pháp độ sanh.
-
Được ít lâu, nghe vua Tịnh Phạn đau nặng, sắp thăng hà, đức
Phật vội vã trở về thăm cha lần cuối cùng. Thấy phụ thân buồn
rầu trên giường bệnh, Phật thuyết về "Lẽ vô thường, khổ,
không, vô ngã" cho vua nghe. Nghe xong, vua liền dứt hết phiền
não, gương mặt vui tươi, cất tiếng niệm Phật, rồi băng hà một
cách êm ái.
-
Sau khi Tịnh phạn Vương mất, bà mẹ nuôi của Phật là Ma Ha Ba
Xà Ba Đề và bà Da Du Đà La cùng nhiều người bên nữ giới họ
Thích xin được phép xuất gia. Từ đó trong đạo Phật, lần đầu
tiên có hàng Tỳ Kheo Ni.
-
Đức Phật cũng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Đạo. Đi đến đâu
Ngài cũng được sùng mộ, tin theo và nhiều người noi theo gương
của ông Cấp Cô Độc lập tịnh xá, cất giảng đường để Ngài thuyết
pháp độ sanh.
-
Như thế, chúng ta thấy đức Phật đã tuần tự hóa độ và kết nạp
đệ tử, từ những hạng người đủ căn trí dễ hiểu thấu giáo lý của
Ngài rồi mới rộng ra những người khác; lập Tỳ Kheo trước, rồi
Tỳ Kheo Ni sau.
-
2. Hóa Độ Tùy Phương Tiện:
-
Trong suốt thời kỳ thuyết pháp độ sanh, lắm khi Ngài cũng gặp
nhiều cảnh gay go trái ngược do lòng đố kỵ của ngoại đạo, tà
giáo, hay lòng ganh ghét của nội thân quyến thuộc gây ra.
Nhưng lúc nào Ngài cũng tùy phương tiện để cảm hóa họ và đưa
họ về đường ngay lẽ phải. Chẳng hạn, khi thì Ngài bị cô gái
con của ngoại đạo độn bụng giả có chửa đến giữa đạo tràng để
vu oan cho Ngài; khi thì Ngài bị anh chàng Vô Não đuổi theo
quyết giết Ngài để lấy ngón tay góp thêm cho đủ số 1000 ngón
mà nó đã giết người để lấy, vì theo thuyết tà đạo, nó tin rằng
có làm được như thế mới chứng quả; khi thì Ngài bị Đề Bà Đạt
Đa, người anh em họ hung ác, âm mưu hãm hại Ngài bằng cách thả
bầy voi say cho chạy đến chà đạp Ngài, hay lăn đá to từ trên
núi cao xuống đè Ngài.
-
Nhưng tất cả những âm mưu ấy đều vô hiệu quả, vì oai đức uy
danh và trí tuệ của Ngài bảo bọc Ngài, không một hành động xấu
xa nào có thể thắng Ngài được. Ngài có đủ phương tiện khôn
ngoan khéo léo, xoay chiều đổi hướng dễ dàng, hoán cải được
tất cả những nghịch cảnh trở thành thuận lợi. Và cuối cùng, kẻ
khinh ghét Ngài trở lại kính mến Ngài; người chống Ngài trở
lại phục Ngài; kẻ ngoại đạo trở thành Phật tử. Bằng chứng là:
Đề Bà Đạt Đa cũng được Ngài thọ ký, anh chàng Vô Não cũng được
quy y, bầy voi say cũng được sám hối, vua A Xà Thế cũng hối
cải và quay về đường ngay.
-
Nói tóm lại, đức Phật có đủ muôn ngàn phương tiện thích ứng
với mọi người, mọi vật, mọi hoàn cảnh để hóa độ tất cả những
ai mà Ngài đã gặp trên đường truyền đạo của Ngài. Không phải
chỉ ngoài đời, mà ngay trong Giáo Hội của Ngài, Ngài cũng tùy
theo căn cơ; tâm lý của mỗi đệ tử mà áp dụng phương pháp thích
hợp. Chẳng hạn như đối với ông Nan Đà, mặc dù thân đã xuất gia
mà tâm vẫn muốn ngao du, luyến ái bạn bè, Ngài dùng thần thông
để đưa ông lên cõi trời xem những cảnh sống tốt đẹp, vui thú
khác thường, rồi đưa ông xuống địa ngục mục kích những hình
phạt đau đớn rùng rợn, hãi hùng để ông so sánh hai cảnh đời
trái ngược mà tự chọn lựa lấy một đường.
-
Còn đối với ông A Nan, người học rộng nghe nhiều, nhưng vì
nghiệp duyên còn nặng, nên mắc nạn "Ma Đăng Già, thì Phật lại
đem giáo lý thâm sâu là kinh Lăng Nghiêm ra giảng dạy để cho
ông A Nan thấy rõ được cái quý giá của chân tâm mà lo tu
luyện, chứ không giong ruổi theo giả cảnh nữa.
-
Xem như thế thì *đức Phật đã dùng phương tiện để tùy duyên hóa
độ, như ông lương y giỏi tùy bệnh cho thuốc, chứ không nhứt
thiết phải theo một đường lối cố định nào cả. Đối với kẻ thân,
người thù, đối với kẻ thông minh hay người ngu độn, đối với kẻ
giàu, người nghèo, Ngài đều có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và
quy y theo Ngài.
-
3. Hóa Độ
Theo
Tinh Thần Bình Đẳng:
-
Tinh thần triệt để bình đẳng là một điểm son quý giá nhất
trong giáo lý của đức Phật, cũng như trong tâm hồn của Ngài.
Ngay từ khi còn ấu thơ, tinh thần ấy đã được bôc
lộ trong những cử chỉ cứu giúp những kẻ bần cùng, những con
vật lâm nạn, như chúng ta đã thấy trong bài trước.
-
Khi thành đạo, tinh thần bình đẳng ấy lại bộc lộ rõ ràng hơn
nữa. Ngài đã có những câu nói bất hủ, khiến cho ngày nay,
người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thước ngọc. Như khi Ngài
xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn Độ,
người này sợ làm lây ô uế cho Ngài, thì Ngài phán bảo: "Không
có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn.
Mỗi người sanh ra đều có Phật tánh và có thể thành Phật".
-
Trong Giáo hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc giai
cấp hạ tiện. Như ông Ưu Ba Ly một đệ tử có tiếng tăm của Ngài
về phương diện giới luật, là một người thuộc giai cấp hạ tiện
Chiên Đà La, làm nghề gánh phân.
-
Sự thâu nhận ấy đã làm cho các vị vua chúa bất mãn. Chính vua
Ba Tư Nặc đã bạch Phật: "Đấng Chí Tôn thâu nhận kẻ hèn hạ vào
hàng Tăng đồ như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn lộn với châu
ngọc, làm mất giá trị của chúng Tăng sao?".
-
Phật dạy rằng:
-
- "Người hèn hạ mà biết phát tâm Bồ Đề, xuất gia tu hành,
chứng được quả Thánh, thì quý báu vô cùng, chẳng khác gì hoa
sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho".
-
"Một người sinh ra không phải liền thành Bà La Môn (giai cấp
trên hết) hay Chiên Đà La (giai cấp thấp nhất), mà chính vì sở
hành của người ấy, tạo thành Chiên Đà La hay Bà La Môn".
-
Ngài xâu giùm kim cho người mù, hoan hỷ nhận hòn đất sét mà
đứa bé đã nắn để dâng Ngài, thọ lãnh bữa cơm cuối cùng do một
người đốt than nghèo nàn dâng cúng.
-
Chính vì sự hóa độ bình đẳng như thế, mà kinh Đại Niết Bàn đã
tán thán:
-
"Đức Như Lai không chỉ thuyết pháp cho các hạng người quyền
quý như vua Bạt Đề Ca, mà cũng thuyết pháp cho hạng người bần
cùng như ông Ưu Ba Ly; không riêng thọ lãnh sự cúng dường của
những người giàu có như ông Tu Đạt Đa, mà cũng thọ lãnh sự
cúng dường của các hạng nghèo khổ như ông Thuần Đà; không
riêng cho phép xuất gia các hạng không có tánh tham như Ngài
Ca Diếp, mà cũng cho phép xuất gia những người có nhiều tánh
tham như ông Nan Đà; không những thuyết pháp cho hạng người an
tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp cho vua Tần Bà Ta
La trong lúc đang bận rộn việc nước; không những thuyết pháp
cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết pháp cho bà Hoàng
hậu Mạt Ly, *mà thuyết pháp cho dâm nữ Liên Hoa".
-
II- NĂM THỜI NÓI KINH:
-
Tóm lại, trong một đời của đức Phật, tùy theo trình độ của mọi
người mà thuyết pháp giáo hóa, mãi đến khi Ngài nhập diệt,
cộng lại là * 49 năm. Những Kinh Pháp của Ngài nói ra, về sau
các đệ tử kiết tập chia ra làm năm thời:
-
1. Thời Thứ Nhất Phật Nói Kinh Hoa Nghiêm:
-
Khi Phật mới thành đạo, ở tại cội Bồ Đề, nói kinh Hoa Nghiêm
21 ngày, vạch rõ chân tánh, chỉ bày chỗ cao sâu mầu nhiệm của
đạo Phật. Chủ đích có hai điều:
-
a) Dắt dẫn các bậc Bồ Tát lên địa vị Đẳng Giác và Diệu Giác.
-
b) Nêu bày giáo pháp rốt ráo của Như Lai, chỉ có Phật với Phật
mới rõ mà thôi; ngoài ra hàng Nhị thừa ngồi nghe như đuôi, như
điếc, huống chi ngoại đạo tà giáo làm sao hiểu nổi! Đức Phật
trình bày giáo pháp siêu việt tuyệt vời ấy, là muốn cho đại
chúng phải tu theo Đại Thừa Phật Giáo mới được hoàn toàn rốt
ráo.
-
2. Thời Thứ Hai Phật Nói Kinh A Hàm:
-
Biết rằng: "Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao phải từ
nơi thấp", đức Thích Ca y theo chư Phật mà nói pháp Tam Thừa.
Vì vậy thời thứ hai, Ngài nói kinh A Hàm trọn 12 năm, dùng thí
dụ thật tế, chỉ rõ chân lý cho hàng Tiểu Thừa dễ thừa nhận, mà
lo bề tự tu và tự độ.
-
3. Thời Thứ Ba Phật Nói Kinh Phương Đẳng:
-
Đạo Phật chẳng những dạy pháp giác ngộ phần mình mà Ngài còn
chỉ bày phương pháp giác tha nữa, tức là khuyến khích từ cái
giác ngộ tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu Thừa (A La Hán) để tiến lên
cái giác ngộ tích cực bao la của Đại Thừa Phật Giáo. Ấy là
thời nói kinh Phương Đẳng trọn 8 năm, dẫn Tiểu Thừa qua Đại
Thừa.
-
4. Thời Thứ Tư Phật Nói Kinh Bát Nhã:
-
Đến khi đức Phật xem căn cơ của chúng sanh có thể tiến lên một
tầng cao nữa là hấp thụ được hoàn toàn giáo pháp Đại Thừa, nên
Ngài chỉ bày đạo lý chân không của vũ trụ, thuyết minh cái
thật tướng vô tướng của các pháp. Ấy là thời nói Kinh Bát Nhã
trọn 22 năm.
-
5. Thời Thứ Năm Phật Nói Kinh Pháp Hoa & Niết Bàn:
-
Sự hóa độ một thời* của Phật gần viên mãn, thêm thấy căn cơ
chúng sanh đã thuần thục, có thể gánh vác Đại Thừa chánh pháp
của Như Lai, nên Ngài bèn nói rõ bản hoài của Ngài thị hiện ra
đời là vì một nguyên nhân lớn: "Khai thị chúng sanh ngộ nhập
Phật tri kiến". Ngài phú chúc, thọ ký cho các hàng đệ tử,
tương lai sẽ thành Phật. Ấy là thời nói Pháp Hoa và Niết Bàn
trọn 8 năm. Đến đây nhiệm vụ thuyết pháp độ sanh của đời Ngài
đã viên mãn.
-
Tóm lại 5 thời thuyết pháp, Cổ nhơn có làm bài kệ như sau:
-
- Hoa Nghiêm tối sơ tam* thất nhựt
-
A Hàm thập nhị Phương Đẳng bát
-
Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm
-
Pháp Hoa Niết Bàn cộng bát niên
-
DỊCH NGHĨA
-
- Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày
-
A Hàm mười hai, Phương Đẳng tám
-
Hai mươi hai năm nói Bát Nhã
-
Pháp Hoa Niết Bàn cộng tám năm
-
III- SỰ HÓA ĐỘ VIÊN MÃN:
-
Từ khi thành đạo dưới gốc cây Bồ Đề cho đến ngày nhập diệt,
trải qua một thời gian 49 năm, đức Phật đã đi khắp xứ Ấn Độ
rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có
chân Ngài giẫm đến là ánh Đạo vàng bừng tỏa huy hoàng.
-
Mỗi ngày, Ngài theo một thời dụng biểu, một chương trình nhất
định, không bao giờ xao lãng, giải đãi, từ khi trẻ cho đến
già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Mỗi ngày, khi trời chưa
sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi tắm rửa, thay đổi y phục rồi
vào phòng quán cơ *cho đến lúc mặt trời xuất hiện. Sau đó Ngài
thuyết pháp cho chúng Tăng đến lúc trưa mới nghỉ để thụ trai.
-
Buổi chiều, Ngài thuyết pháp cho tín đồ ở các vùng lân cận đến
nghe; rồi lại giảng giải những nghi vấn của các chúng Tăng về
những vấn đề mà Ngài đã thuyết pháp buổi sáng.
-
Mỗi năm, Ngài đi chu du để thuyết pháp độ sanh trong chín
tháng nắng ráo còn ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo thời
tiết Ấn Độ), thì Ngài lại ở luôn trong các tịnh xá để an cư
kiết hạ.
-
Ròng rã 49 năm như thế, hạt giống từ bi được Ngài tinh tấn
gieo khắp các xứ ở Ấn Độ. Từ Bắc chí
Nam,
từ Đông sang Tây, từ rừng núi đến đồng bằng, không nơi nào là
Ngài không đặt chân đến, hay truyền đệ tử đến thay Ngài để hóa
độ chúng sanh. Và ở đâu Ngài và các đệ tử cũng được nhân dân,
từ vua đến dân, từ giàu đến nghèo, từ già đến trẻ, từ phái nam
đến phái nữ, đổ xô ra đón tiếp Ngài, vui thú được tắm gội
trong ánh sáng Trí Tuệ và nước Từ Bi do Ngài tưới xuống. Ở đâu
có ánh Đạo vàng đến, thì tà giáo và ngoại giáo lui xa dần, tan
biến như những làn mây, như những bóng tối, tan biến trước
bình minh đang lên. Giọng thuyết pháp của Ngài có cái oai lực
như tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp phục, như
tiếng hải triều lên, lấn át tất cả bao nhiêu tiếng tỉ tê của
côn trùng, *chom chóc.
-
Đạo Bồ Đề từ đấy đã ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Ấn Độ bao la,
và trở thành một tôn giáo chính của các nước lớn, nhỏ thời bấy
giờ tại Ấn Độ. Đức Phật sau khi tự giác, đã giác tha và đến
đây giác hạnh của Ngài đã viên mãn.
-
IV-
TRƯỚC KHI NHẬP NIẾT BÀN:
-
1. Phật Báo Tin Sắp Lìa Cõi Đời
-
Khi giác hạnh của Ngài đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Đến
đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến
đổi, yếu già. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng Sa La trong xứ Câu Ly,
cách thành Ba La Nại chừng 129 dặm.
-
Một hôm, Ngài gọi ông A
Nan,
người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:
-
- "A Nan ! Đạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta
đã có đủ 4 hạng đệ tử: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà
Di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe Pháp, và Đạo cũng đã
truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các người mà ra đi.
Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ như một cỗ xe đã
mòn rã. Ta đã mượn nó để chở Pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy ta
còn mến tiếc làm gì trong cái thân tiều tụy này nữa? A
Nan
! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết Bàn".
-
Tin đức Phật sắp vào Niết Bàn, lan ra như một tiếng sét. Các
đệ tử Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng
đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.
-
Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, đức Phật vẫn
không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo.
-
Một hôm, Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một
người làm nghề đốt than, ông Thuần Đà, thỉnh Ngài về nhà để
thọ trai. Ngài im lặng cùng các đệ tử đi theo ông. Đến nhà,
ông Thuần Đà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm, thường
gọi là nấm heo rừng, vì thứ nấm này rất được giống heo rừng ưa
thích.
-
Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử lại từ giã ông Thuần Đà ra
đi. Được một khoảng đường, Ngài giao bình bát cho ông A Nan và
truyền treo võng lên trong rừng cây Ta La (Tàu dịch là Song
Thọ: cây có hai cành lớn chia ra như cái nạn) để Ngài nằm
nghỉ. Ngài nằm xuống võng giữa hai cây Ta La, đầu trở về hướng
Bắc, mình nghiêng về phía tay phải, mặt xây về phía mặt trời
lặn, hai chân tréo vào nhau.
-
Nghe tin Ngài sắp nhập Niết Bàn, dân chúng quanh vùng đến kính
viếng rất đông, trong số ấy có một ông già ngoài tám mươi
tuổi, tên Tu Bạt Đà La đến xin xuất gia thọ giới Sa Di với
Ngài. Ngài hoan hỷ nhận lời. Đó là người đệ tử chót trong đời
Ngài.
-
2. Phật Nói Kinh Di Giáo Và Những Lời Phú Chúc:
-
Lúc bấy giờ các đệ tử Ngài đều có mặt đông dủ, chỉ trừ ông Ca
Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa kịp về. Ngài hội tất cả đệ tử
và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc
như sau:
-
a) Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.
-
b) Các đệ tử phải lấy giới luật làm thầy.
-
c) Ở đầu các Kinh, phải nêu lên 5 chữ: "Như thị ngã văn".
-
d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm 3 phần:
-
-
Một phần cho thiên cung,
-
-
Một phần cho long cung,
-
-
Một
phần chia cho tám vị Quốc vương ở Ấn Độ.
-
Sau đây là lời vàng ngọc của Ngài đã để lại trong giờ phút
cuối cùng.
-
-
"Này ! Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi ! Các người hãy
lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải
thoát ! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự
giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người !...".
-
-
"Này ! Các người đừng dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở
đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có đạo ta
là quý báu. Chỉ có Chân lý của đạo ta là bất di, bất dịch. Hãy
tinh tấn lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta
!".
-
Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết
Bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày Rằm tháng hai âm lịch (theo giáo sử
Trung Hoa).
-
Rừng cây Ta La tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u
ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót, vạn vật như
chìm lặng trong những giây phút nặng nề của sự chia ly.
-
Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vào kim quan và bảy ngày sau, đưa
kim quan Ngài vào thành Câu Thi để tại chùa Thiện Quang và làm
lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).
-
Tám vị Quốc Vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tướng dũng đến
toan tranh giành Xá Lợi. Nhưng ông Hương Tích y theo di chúc
của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thể sự phân chia xá lợi
đều được ổn thỏa.
-
A-
KẾT LUẬN
-
Đức Phật đã nhập Niết Bàn, nhưng gương sáng của đời Ngài vẫn
còn chiếu sáng rực trước mắt chúng ta. Suốt một đời, trong 80
năm trời, không một lúc nào Ngài xao lãng mục đích tối thượng
là hóa độ chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ. Khi còn tại
gia, Ngài là người ở trong địa vị có diễm phúc nhất, cao nhất
của người đời, thế mà Ngài vẫn không màng* tưởng đến; khi vào
trong đạo, Ngài là người ở trong địa vị cao chót vót của Đạo,
thế mà Ngài vẫn không chịu ở yên trong địa vị ấy, lại vất vả
duỗi rong trên mọi nẻo đường bụi bặm, gai góc để đưa dắt chúng
sanh lên con đường hạnh phúc an vui và giải thoát hoàn toàn.
Lòng thương của Phật thật là vô lượng, ân đức của Phật thật vô
biên.
-
1. Người Đời Nên Noi Gương Sáng Của Phật
-
Sự hy sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng suốt, ý
chí dũng mãnh của Ngài không những là bao nhiêu gương sáng cho
riêng hàng Phật tử, mà còn cho tất cả mọi người. Nếu chúng ta
quan niệm Ngài là một vĩ nhân, thì đó là một vĩ nhân trên hết
các vĩ nhân của nhân loại từ xưa đến nay. Nếu chúng ta quan
niệm Ngài là bậc siêu nhân, thì đó là một siêu nhân cao hơn
bao nhiêu bậc siêu nhân khác. Nếu chúng quan niệm đời Ngài là
một sự thị hiện của Phật, thì đó là sự thị hiện đẹp đẽ nhất và
đầy đủ ý nghĩa hơn hết trong các sự thị hiện.
-
Cho nên không những đối với tín đồ Phật Giáo, mà đối với toàn
thể mọi người, đức Phật đáng được kính cẩn tôn sùng và chiêm
ngưỡng.
-
2. Tín Đồ Nên Ghi Nhớ Những Lời Di Chúc Của Phật
-
Chúng ta, những Phật tử, ai cũng biết đời đức Phật là đẹp đẽ,
cao cả; bài học của đời Ngài là quý báu, sâu xa. Nhưng nếu
chúng ta không cố gắng học tập, thì bài học dù hay ho quý báu
bao nhiêu cũng vô ích. Đức Phật, trước khi nhập diệt, đã dặn
chúng ta một câu cuối cùng:
-
·
" Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã.
Chỉ có Đạo ta là quý báu. Chỉ có Chân lý của Đạo ta là bất di
bất dịch. Hãy tinh tấn lên để giải thoát !".
-
Vậy thì điều kiện trọng yếu nhất để giải thoát là sự tinh tấn.
Chúng ta đừng bao giờ quên điều kiện ấy trong sự tu hành.
-
NIÊN LỊCH CỦA PHẬT THÍCH CA
-
(Theo Kinh Điển Đại Thừa)
-
- PHẬT GIÁNG SANH NGÀY MÙNG 8 THÁNG 4
-
(Trước Chúa giáng sanh 624 năm. Nếu tính năm Phật Nhập Diệt
thì trước Chúa giáng sinh 544 năm).
-
- 19 TUỔI XUẤT GIA, NHẰM NGÀY MÙNG THÁNG 2
-
- 5 NĂM TẦM HỌC CÁC ĐẠO
-
- 6 NĂM TU KHỔ HẠNH
-
- 49 NGÀY NHẬP ĐỊNH
-
- 30 TUỔI THÀNH ĐẠO, NHẰM NGÀY MÙNG 8 THÁNG CHẠP
-
- 49 NĂM THUYẾT PHÁP ĐỘ ĐỜI
-
- 80 TUỔI NHẬP NIẾT BÀN, NHẰM NGÀY RẰM THÁNG 2.
-
|