-
NGHIÊN CỨU CỦA NGƯỜI NHẬT
-
VỀ NIÊN ĐẠI ĐỨC PHẬT
-
Nguyên tác: Giáo sư Hajime Nakamura
-
Thích Thiện Quý dịch
-
-
---o0o---
-
-
Các vấn đề về "Phật lịch" và niên đại của Đức Phật
đã được các học giả Nhật Bản đề cập trên nhiều quan điểm khác
nhau. Thậm chí trong các giới tu sĩ Phật Giáo cũng đã có những
quan điểm bất đồng.[1] Điển hình như các nước Phật Giáo Nam
tông cùng thống nhất tổ chức lễ tưởng niệm "Ngày Nhập Niết-bàn
của Đức Phật lần thứ 2500" vào năm 1956 sau Tây lịch.[2] Ở
Tích Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Thái Lan và một số nước Phật Giáo
Nam tông khác, hầu hết những buổi lễ tưởng niệm ấy đều được sự
ủng hộ và giúp đỡ của chính phủ và những thành viên trong Giáo
Hội.
-
Tuy nhiên, trong các nước Phật Giáo Bắc tông, đã có những quan
điểm bất đồng nảy sanh. Phần lớn các học giả phương Tây đã bác
bỏ truyền thuyết của Tích Lan, một trong những truyền thống
cho rằng niên đại mà Đức Phật Nhập Niết-bàn là năm 544 trước
Tây lịch, được thể hiện qua cách lựa chọn năm 1965 làm năm
tưởng niệm Đức Phật Nhập Niết-bàn lần thứ 2500. Truyền thống
này không thể truy nguyên (tức không thể có mặt) trước tiền
thế kỷ thứ 11.[3] Nó cũng không phù hợp với bảng niên đại của
các vị Vua nước Ma-kiệt-đà. Sự tuyên bố của các nước Nam tông
về tính chính thống trong niên đại của Phật chủ yếu là dựa
trên truyền thuyết rằng các Thầy Tỳ-kheo đã đưa ra một nguyên
tắc là phải "điểm vào một chấm" trong Luật tạng mỗi khi kết
thúc một mùa An Cư Kiết Hạ hàng năm. Tin tưởng rằng truyền
thống "chấm vào một điểm" không hề bị gián đoạn từ trước đến
giờ, họ cho rằng bảng niên đại dựa trên số lượng của các dấu
chấm trong các Luật tạng thì không thể nào sai được.
-
Tuy nhiên, cũng có sự nghi ngờ, vì cũng đã có một truyền
thuyết tương tự do Sanghabhara, người đã đặt chân đến đất nước
Trung Hoa vào năm 489 sau Tây lịch, đề xướng. Ngài cũng tuyên
bố rằng các Thầy Tỳ-kheo tại Ấn Độ trước đó cũng đã điểm một
chấm vào trong Luật tạng của họ vào mỗi lần An Cư Kiết Hạ,
nhưng có điều là Ngài đã đếm được tất cả 975 chấm. Số lượng
dấu chấm này cho ta kết luận rằng Đức Phật nhập Niết-bàn vào
năm 486 trước Tây lịch và năm Đản sanh của Đức Phật là năm 566
trước Tây lịch.[4] Theo giáo sư Pachow, "sự ghi nhận dấu chấm"
nhằm để chứng tỏ rằng niên đại mà Đức Phật Nhập Niết-bàn vào
khoảng năm 483 sau Tây lịch. Điều đó phù hợp với cách tính của
W. Geiger, dựa trên nền tảng của những bảng ký sự niên đại
bằng tiếng Pali.[5]
-
Về phương diện của bảng niên đại cổ xưa, truyền thuyết của
Sanghabhadra có phần đáng tin tưởng hơn những truyền thuyết
của các nước Phật Giáo Nam tông. Do vậy dưới sự lãnh đạo sau
này của học giả Nhật, Junjirò Takakusu (người đã chấp nhận
theo truyền thuyết của Sanghabhadra), nhiều Tu sĩ Nhật Bản đã
cùng nhau tổ chức lễ tưởng niệm ngày Niết-bàn của Đức Phật lần
thứ 2500 vào năm 1932 sau Tây lịch. Tuy nhiên, các tông phái
như Tịnh Độ (J‡ do), J‡ do–Shin và Nhật Liên tông (Nichiren)
đã không chính thức hợp tác với họ, bởi vì những vị sáng lập
ra những tông phái này như Hònen, Shinran và Nichiren lại chấp
nhận vào học thuyết cho rằng năm nhập Niết-bàn của Đức Phật là
949 trước Tây lịch. Đó là niên đại được Fo-lin (Horin)[6] đề
ra. Cần nói thêm rằng, ngày nay, có quá ít người, thậm chí chỉ
vài tín đồ của các tông phái này tin vào học thuyết ấy.
-
Cố học giả Hakuji Ui đã xác định lại niên đại của Đức Phật là
năm 466 – 386 trước Tây lịch, vốn dựa trên các truyền thuyết
của các ấn bản Kinh điển Phật Giáo bằng ngôn ngữ Trung Hoa,
Tây Tạng và Sanskrit điển hình như
Samayabheda-uparacana-cakra. Bởi vì niên đại của vua
A-dục, sự bắt đầu cho những nghiên cứu về bảng niên đại, phải
được thay đổi trong quan niệm của sự nghiên cứu gần đây. H.
Nakamura đề nghị rằng bảng niên đại của H. Ui phải được thay
đổi là 463 –383 trước Tây lịch, dựa trên những quan điểm chính
mà ông đã nghiên cứu.[7]
-
Những nghiên cứu của Genmyò Ono và Hakuji Ui đã có ảnh hưởng
đến giới học giả Trung Hoa. Thượng Tọa Yin-Shun, một học giả
Trung Hoa, đã phê bình các giả thuyết về ngày của đức Phật của
các nhà học giả Đông Nam Á và phương Tây, và cho rằng ngày Đức
Phật nhập Niết-bàn là năm 390 trước Tây lịch. Nguyên nhân phủ
nhận này cũng không khác nhau cho lắm so với Ui.
-
Trình bày một quan điểm tương đối dung hoà nhất của học giả
châu Âu, giáo sư M. Winternitz đã nói rằng:
-
"Khi chúng ta cân nhắc rằng có một chứng cứ có đầy đủ khả năng
để chứng tỏ rằng Đức Phật là người đương thời với vua
Tần-bà-sa-la và vua A-xà-thế, những người rất có khả năng sống
vào thế kỷ thứ 5 và thứ 6 trước Tây lịch. Như vậy, sau đó ít
nhất chúng ta có lý khi nói rằng các giả thuyết đáng tin cậy
nhất là đặt cuộc đời đức Phật vào giai đoạn này."[8]
-
Tuy nhiên, như vậy chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng khó phân
định, vì triều đại của các vị vua này lại không thể được xác
định trừ khi chúng ta đã xác định được niên đại của đức Phật.
-
Kanakura[9] phát triển quan điểm của cố giáo sư Jacobi, người
đã cho rằng năm nhập Niết-bàn của Đức Phât là năm 484 trước
Tây lịch, nhằm để ủng hộ truyền thuyết của các nước Phật Giáo
Nam tông. Mizuno lại nghi ngờ tính xác thật của truyền thuyết
của các nước Phật Giáo Bắc tông cho rằng vua A-dục xuất hiện
khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, và chấp nhận
vào truyền thống của các nước Phật Giáo Nam tông.[10] Đại biểu
của các Phật tử Nhật bản đã tham gia vào lễ tưởng niệm lần thứ
2500 ngày Đức Phật nhập Niết-bàn được tổ chức tại các nước
Phật giáo Nam tông vào năm 1956 sau Tây lịch. Họ đã tổ chức
ngày lễ tưởng niệm lần thứ 2500 khác vào năm 1959 dưới sự bảo
trợ của chính phủ Nhật Bản nhằm để đẩy mạnh tình hữu nghị với
các nước Phật giáo châu Á. Tuy nhiên điều này không có nghĩa
là Nhật Bản đã chấp nhận bảng niên đại của Tích Lan.[11]
-
***
-
[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Japanese Research on the
Date of the Buddha" của giáo sư Hajime Nakamura, đăng
trong tuyển tập "When did the Buddha live? The Controversy
on the Dating of the Historical Buddha" (Đức Phật sống
trong thời đại nào? Sự tranh luận về cách tính ngày của đức
Phật lịch sử) do giáo sư H. Berchert biên tập. Delhi: Sri
Satguru Publications, 1995, các trang 135-6].
-
CHÚ THÍCH
-
[1] Buttan Nisen-gohyakunen Kinen Gakukai (Hội các nhà nghiên
cứu tổ chức lễ tưởng niệm ngày sanh của đức Phật lần thứ
2500), Bukkyògaku no Shomondai (Các vấn đề Phật học),
Tokyo,
Iwanami, 1935, trang 275f; Genmyò Nendaikò (Các nghiên cứu về
niện đại Phật Giáo). Do Kaimei Shoin tái bản, 1977, Agency:
Meicho Fukyùkai.
-
[2] Tài liệu thảo luận về ngày Nhập Niết Bàn của Đức Phật do
Keishò Tsukamoto chọn lọc và khảo cứu, Shùkyo Kenkyù, 33,4
(Nr. 163) (tháng Ba - 1960), trang, 59 - 93.
-
[3] So sánh. Maurice Winternitz. Lịch Sử Văn Học Ấn Độ (A
History of Indian Literature), quyển thứ 2, nhà xuất bản của
trường Đại học Calcutta, 1933, trang 597.
-
[4] H. Ui, Indo Tetsugaku Kenkyù, quyển thứ 2, Tokyo,
kòshisha, 1926, trang 1- 112. Ông đã mạnh dạng đưa ra sự mâu
thuẩn về các truyền thuyết của những nứơc Phật Giáo phương
Nam, và đồng thời giới thiệu rằng truyền thuyết của các nứơc
Phật Giáo phương Bắc đã được nhiều bộ phái Phật giáo, cả Đại
thừa lẫn Tiểu thừa, chấp nhận.
-
[5] W. Pachow, "Nghiên cứu về sự ghi nhận dấu chấm" (A Study
of the Dotted Record), đăng trong Tạp chí Xã hội Đông phương
của Mỹ (Journal of the American Oriental Society), 85, 3
(1965), trang 342 - 349.
-
[6] Cao tăng Trung Hoa (572-640 Tây lịch)
-
[7] H. Nakamura, "Niên đại của triều đại Mauryan," (The Date
of the Mauryan), trong Tòhògaku 10 (1955), trang 1f; cũng được
đăng trong Kodaishi, Lịch Sử Cổ Đại AᮠĐộ,
(Ancient History of India).
Tokyo,
Shunjùsha, 1966, quyển thứ 2 trang 409-437.
-
[8] M. Wintermitz, sách đã dẫn., II, trang 598.
-
[9] E. Kanakura, Indo Kodai Seishinshi, trang 339f.: H.
Jacobi, Buddhas und Mahàvìras Nirvàna und die politische
Entwicklung Magadhas zu Jener Zeit, Berlin, 1930
(Sitzungsberichte der preuBischen Akademie der Wissenschaften
zu Berlin, 26).
-
[10] K. Mizuno, Có phải Phật Giáo đã bị phân hoá thành nhiều
bộ phái khác nhau trong suốt thời đại của vua A-dục," Indogaku
Bukkyògaku Kenkyù / Tạp chí Phật học và AᮠĐộ
học (Journal of Indian and Buddhist Studies), 6 (1958), trang
395 f. Truyền thuyết của các nứơc phương Bắc về niên đại của
vua A Dục cũng bị Kakue Miyaj phủ nhận; indogaku Bukkyògaku
Kenkyù / Tạp chí Phật học và Ấn Độ học (Journal of Indian and
Buddhist Studies), 8 (1960), trang 311f. Những quan điểm có
thể đưa đến sự tranh luận về niên đại của Đức Phật đã được
Keishò Tsukamoto tóm lược, Indogaku Bukkyògaku Kenkyù / Tạp
chí Phật học và Ấn Độ học (Journal of Indian and Buddhist
Studies), 8 (1960), trang598f.
-
[11] T. Hayashiya (Bukkyò oyobi Bukkyòshi no Kenkyù [nghiên
cứu Phật giáo và lịch sử Phật giáo], Tokyo Kikuya Shoten,
1948, trang 1-92) đã phát biểu quan điểm của ông về niên đại
nhập Niết Bàn của Đức Phật là năm 587 trứơc Tây lịch.
-
|