-
Đời Sống Hằng Ngày Của Đức Phật
-
Hòa Thượng Narada
-
--- o0o ---
-
-
Đức Phật có thể được xem là vị giáo chủ hoạt động tích cực và
nhiệt thành nhứt trên thế gian. Ngài luôn luôn bận rộn với
công việc đạo pháp trọn ngày, trừ những lúc phải để ý đến vài
nhu cầu vật chất. Chương trình hoạt động của Ngài được sắp xếp
rất có qui củ và mực thước. Đời sống bên trong là tham thiền
nhập định và chứng nghiệm hạnh phúc Niết-Bàn, còn bên ngoài là
phục vụ vị tha, nâng đỡ phẩm hạnh của chúng sanh trong khắp
thế gian. Chính Ngài được tự giác, Ngài tận lực cố gắng để
giác ngộ người khác và dẫn dắt chúng sanh ra khỏi vòng phiền
não của đời sống.
-
Hoạt động hằng ngày của Đức Phật chia làm năm đoạn:
-
1.- Buổi sáng; 2.- Buổi trưa; 3.- Canh đầu; 4.- Canh giữa; và
5.- Canh chót.
-
1. Buổi Sáng
-
Thường ngày, lúc còn tảng sáng sớm, Đức Phật dùng thiên nhãn
để quan sát thế gian, xem có ai cần Ngài tế độ. Nếu thấy có
người cần hổ trợ tinh thần thì không đợi thỉnh cầu, Ngài tự ý
đến để dẫn dắt người ấy vào chánh đạo. Ngài đi bộ. Nhưng một
đôi khi Ngài cũng dùng phép thần thông bay trên không trung.
Thế thường, Ngài đến những người hư hèn, ô nhiễm, như tên cướp
sát nhơn hung tợn Angulimala và quỉ Dạ Xoa, bạo tàn ác độc.
Nhưng cô bé Visakha có tâm đạo nhiệt thành và nhà triệu phú
Cấp-Cô-Độc (Anathapindika) và những bực thiện trí như Xá-Lợi
Phất (Sariputta) và Mục-Kiền-Liên (Moggallana) thì tìm đến thọ
giáo để được Ngài dẫn dắt.
-
Trong khi tế độ thế gian, nếu không có ai thỉnh về trai tăng,
Đức Phật -- người mà các bực vua chúa đều tôn sùng kính nể và
khấu đầu đảnh lễ mỗi khi đến trước mặt đi trì bình khất thực
trên các nẽo đường, khi một mình, lúc với chúng Tăng. Im lặng
đứng trước cửa từng nhà. Không thốt ra một lời, Ngài thọ lãnh
vật thực nào mà tâm trong sạch bố thí của thiện tín hoan hỉ
sớt vào bát, rồi trở về chùa. Cho đến năm tám mươi tuổi, mặc
dầu đau ốm bất thường, Ngài vẫn đi bát trong thành Vesàli.
-
Đức Phật thọ thực trước ngọ. Sau đó chư vị tỳ-khưu hợp lại
nghe Ngài thuyết một bài Pháp ngắn. Sau thời Pháp, Đức Phật
ban lễ qui y Tam Bảo, truyền Ngũ Giới và nếu có vị nào đạt đến
trình độ tinh thần đầy đủ, Ngài chỉ dẫn vào Thánh Đạo, Con
Đường Giải Thoát. Một vài vị đến gần xin đề mục thiền định
thích hợp theo tâm tánh mình. Nếu có lời thỉnh nguyện, đôi khi
Ngài cũng ban lễ xuất gia.
-
2. Buổi Trưa
-
Sau khi giảng dạy hoặc kêu gọi chư vị đệ tử, Đức Phật lui về
tịnh thất. Nếu muốn, Ngài nằm nghiêng mình bên mặt và định
thần một lát. Lúc dậy, Ngài nhập Đại Bi Định (Maha Karuna
Samapatti) và dùng Phật nhãn [1] quan sát thế gian, nhứt là
các vị tỳ-khưu đã đi vào rừng sâu hành thiền nơi vắng vẻ và
các đệ tử khác ở xa, để hướng dẫn và khuyên dạy. Nếu có một vị
ở xa cần hổ trợ, Ngài dùng thần thông bay đến nơi để tế độ rồi
trở về tịnh thất.
-
Vào buổi chiều, thiện tín kéo đến nghe Pháp. Do Phật nhãn Ngài
nhìn vào khuynh hướng và tâm tánh của từng người trong cử tọa
để thuyết Pháp độ một tiếng. Mỗi người nghe, dầu tâm tánh và
tình cảnh hoàn toàn khác biệt, đều có cảm tưởng rằng bài Pháp
của Đức Phật đặc biệt hướng về mình. Đó là phương pháp giảng
dạy của Đức Phật. Ngài thường dùng những thí dụ, những hình
ảnh hay những bài ngụ ngôn có liên quan đến đời sống hằng ngày
trong nhà để giải thích giáo lý, và Ngài nhằm vào trí thức hơn
là tình cảm.
-
Đối vời người thuộc hạng trung bình, Đức Phật bắt đầu giảng về
hạnh bố thí, giới luật và hạnh phúc ở các cảnh Trời. Đối với
người tiến bộ hơn, Ngài đề cập đến mối nguy hại của thú vui
vật chất và hạnh phúc của sự từ khước, sự thoát ly. Với các vị
đã đạt đến trình độ cao thượng, Ngài giảng về pháp Tứ-Diệu-Đế.
-
Trong một vài trường hợp hiếm hoi -- như trường hợp Angulimala
và bà Khema -- Đức Phật dùng đến oai lực thần thông để ảnh
hưởng đến tâm người nghe.
-
Giáo Pháp Cao Siêu của Đức Phật gợi cảm cho cả đại chúng lẫn
hàng trí thức. Một thi sĩ Phật tử có hát lên những lời tán
tụng như sau:
-
"Đem phỉ lạc đến bực thiện trí, tạo kiến thức cho hạng trung
bình, và đánh tan bóng tối của người ngu muội, đây quả thật là
ngôn ngữ của tất cả mọi người". [2]
-
Cả hai lớp người, giàu và nghèo, cao sang và thấp kém, đều từ
bỏ đức tin cũ của mình để hướng về Thông Điệp Hòa Bình của Đức
Phật. Nền đạo pháp (sasana) sơ sanh bắt đầu với năm vị đạo sĩ
như hột nhân của tế bào, sớm sanh sôi nảy nở, và mở rộng đến
hàng triệu người và êm thắm, ôn hòa, tràn lan khắp miền Trung
Ấn.
-
3. Canh Đầu
-
Từ sáu đến mười giờ đêm là khoảng Đức Phật dành riêng để các
vị tỳ-khưu được tự do thỉnh cầu Ngài rọi sáng những mối hoài
nghi của mình, hỏi Ngài về những điểm phức tạp trong Giáo
Pháp, xin Ngài đề mục thiền định và nghe thuyết Pháp.
-
4. Canh Giữa
-
Từ mười giờ đến hai giờ khuya, chư Thiên và chư Phạm Thiên là
những chúng sanh mà mắt người không thể trông thấy, từ các
cảnh Trời, đếu hầu Phật và hỏi Ngài về Giáo Pháp. Trong Kinh
Sách có một đoạn thường được nhắc đi lập lại như sau: "Lúc bấy
giờ đêm đã khuya, một vị Trời có hào quang rực rỡ đến gần Đức
Phật, cung kính đảnh lễ và đứng lại một bên". Nhiều bài kinh
và nhiều lời vấn đáp được ghi trong tập Samyutta Nikaya (Tương
Ưng Bộ).
-
5. Canh Cuối Cùng
-
Canh cuối cùng trong đêm, từ hai giờ khuya đến sáu giờ sáng,
được chia làm bốn phần. Trong phần đầu tiên, từ hai đến ba
giờ. Đức Phật đi kinh hành (cankamana). Từ ba đến bốn giờ,
Ngài nằm định thần, nghiêng về phía tay mặt. Từ bốn đến năm
giờ, Ngài nhập Đại Bi Định (Mahà Karunà Samapatti), rãi tâm từ
khắp nơi và làm êm dịu tâm trí tất cả chúng sanh. Sau đó Ngài
quan sát thế gian bằng Phật nhãn xem coi có thể tế độ ai.
Những người đạo hạnh và những người cần đến Ngài, dầu ở cách
xa thế nào Ngài cũng nhận ra và mở lòng bi mẩn, Ngài tự ý đến
để đem lại sự hổ trợ tinh thần cần thiết.
-
Như vậy, trọn cả ngày, Đức Phật luôn luôn bận rộn với nhiệm vụ
đạo đức. Ngài chỉ ngủ một giờ đồng hồ. Trong hai giờ tròn,
buổi sáng và lúc bình minh, Ngài đượm nhuần toàn thể thế gian
với tâm Từ vô lượng và đem hạnh phúc đến cho hàng triệu chúng
sanh. Tự nguyện sống đời nghèo nàn, đi trì bình khất thực mà
không phiền đến ai, rày đây mai đó, tám tháng trời liền trong
năm để hoằng khai Diệu Pháp, Ngài không ngừng gia công đem lại
điều tốt đẹp và hạnh phúc cho tất cả, chí đến ngày nhập diệp,
vào năm tám mươi tuổi thọ.
-
Trích: "Đức Phật và Phật Pháp",
-
Phạm Kim Khánh chuyển dịch, Sài gòn 1970
-
Chú Thích:
-
[1] Buddhacakkhu, Phật nhãn, gồm tri kiến về những thiếu kém
và khuynh hướng cố hữu (ãsayãnusaya nãna) và tri kiến về tánh
cách dã dượi hay nhiệt thành của những khả năng như niềm tin,
tâm niệm, tâm định, tinh tấn và trí tuệ (indiryaparopariyatta
nana).
-
[2] Satapancasataka, câu 78.
|