PHÁP BẢO ÐÀN KINH
Trúc Giao ghi
--o0o--
 
Nói đến Pháp Bảo Ðàn Kinh là chúng ta liên tưởng đến ngài Huệ Năng là vị Tổ đời thứ sáu của Thiền Tôn Trung Hoa và sau nầy có ảnh hưởng lớn đối với Thiền Tôn của Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nói đến Thiền Tôn, là một tôn phái lớn và chi phối rất nhiều trong sự nghiệp tu học của chúng ta. Ðể cho có sự tiếp nối trước và sau, do đó chúng tôi xin được trình bày sơ lượt sự truyền thừa của Thiền Tôn trong phạm vi bài nầy. Theo sự truyền thừa của Thiền Tôn, thì vị sáng lập đầu tiên là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau đó truyền thừa Chánh Pháp Nhãn Tạng cho hai mươi bảy vị Tổ Sư kế tiếp. Vị Tổ Sư thứ hai mươi tám là ngài Bồ Ðề Ðạt Ma. Sau đó ngài Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa và truyền đạo, và trở thành vị Tổ Thứ Nhất của Thiền Tôn bên Trung Hoa. Tuy nhiên theo một số tài liệu cho rằng: Sau khi Tổ Sư Tử viên tịch thì Chánh Pháp Nhãn Tạng đã thất truyền từ đó. Còn về ngài Bồ Ðề Ðạt Ma thì cũng có một số tài liệu cho rằng: Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma chỉ là hình ảnh của người đời sau tạo nên chớ sự thực thì không có Bồ Ðề Ðạt Ma nào từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa. Cũng có tài liệu nói Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là người ở Miền Trung Á chớ không phải người Ấn Ðộ. Tất cả những sự bất đồng đó chúng ta hãy cứ để cho những nhà viết lịch sử thẩm định. Còn bây giờ căn cứ vào lịch đại truyền thừa chư vị Tổ Sư Thiền Tôn có hai mươi tám vị Tổ Sư như sau:
            1- Thích Ca Mâu Ni
            2- Ma Ha Ca Diếp
3- A Nan Ðà
            4- Thương Na Hoà Tu
            5- Ưu Ba Cúc Ða
6- Ðề Ca Ða
7- Di Già Ca
8- Phật Ðà Nan Ðế
9- Phật Ðà Mật Ða
10- Hiếp Tôn Giả
11- Phúc Na Gia Xá
12- Mã Minh Ðại Sĩ
13- Ca Tỳ Ma La
14- Long Thọ
15- Ca Na Ðề Bà
16- Ra Hầu La Ða
17- Tăng Ca Nan Ðề
18- Ca Gia Xá Ða
19- Cưu Ma La Ða
20- Xà Da Ða
21- Thế Thân
22- Ma Noa La
23- Hặc Lặt Gia
24- Sư Tử Tôn Giả
25- Ba Xá Tư Ða
26- Bất Nhị Mạt Ða
27- Bát Nhã Ða La
28- Bồ Ðề Ðạt Ma
Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là vị tổ thứ hai mươi tám bên Ấn Ðộ, nhưng khi truyền vào Trung Hoa ngài là vị Tổ Sư  Thiền Tôn đầu tiên bên Trung Hoa nhu đã nói ở trên. Những chi tiết về cuộc đời của ngài Bồ Ðề Ðạt Ma nói riêng, chư Tổ Sư của Thiền Tôn Trung Hoa nói chung được trình bày giản lượt như sau:
            Bồ Ðề Ðạt Ma
            Ngài là Vương Tử con thứ ba của vua Hương Chí ở Nam Ấn Ðộ. Thưở nhỏ ngài đã có chí siêu việt và tài hùng biện. Nhân dịp vua cha thỉnh Tổ Bát Nhã Ða La vào cung cúng dường, từ đó ngài có duyên gặp Tổ. Qua những lần đối thoại Tổ biết ngài là Pháp Khí của Phật Pháp. Sau khi vua cha băng hà, ngài quyết chí xuất gia tìm đạo. Do đó ngài tìm đến cầu xin Tổ Bát Nhã Ða La độ làm Ðệ Tử. Tổ hoan hỷ chấp nhận và làm lễ thí phát, truyền giới cụ túc, và đặt Pháp Hiệu là Bồ Ðề Ðạt Ma. Cơ duyên truyền Pháp đã thuần thục, một hôm Tổ gọi ngài đến và dặn dò: Ngươi hãy tạm giáo hóa ở đây, sau nầy thời cơ đến ngươi hãy sang Trung Hoa hóa truyền đạo mới thật là nhân duyên lớn. Nhưng ngươi phải chờ khi ta nhập diệt  khoảng sáu mươi năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm e có việc không tốt. Những việc kiết hung về sự giáo hóa ở Trung Hoa sau nầy  Ðạt Ma đều cầu tổ chỉ dạy. Tổ đều dùng những  lời sấm ký tiên đoán những việc kiết hung vận số ở Trung Hoa cho Ðạt Ma.
            Sau khi Tổ viên tịch và cơ duyên hoằng Pháp đã đến, ngài dùng thuyền buôn sang Trung Hoa. Sau gần ngót ba năm thuyền mới cặp bến Quảng Châu lúc đó nhằm vào đời nhà Lương niên hiệu Phổ Thông năm đầu( Năm 520 T.L.) ngày 21 tháng 9 năm Canh Tý. Thích Sử tỉnh nầy nghe tin liền ra đón tiếp ngài, đồng thời dâng sớ về triều tâu lên Vua Lương Võ Ðế. Vua được sớ liền sai sứ thần đến thỉnh ngài về Kim Lăng là Kinh Ðô của Nhà Lương.
            Sau vài ba câu chuyện qua lại với nhà Vua, ngài Bồ Ðề Ðạt Ma đã biểu lộ bản chất nghệ sĩ ngang nhiên của con người siêu phàm thoát tục, và tư tưởng của Bồ Ðề Ðạt Ma thì lại bay bổng lên tận những tầng cao vút của Siêu Tư Duy. Trong khi đó Vua Lương Võ Ðế chỉ là vị Vua Phật Tử ngoan đạo thuần thành, và vẫn chưa thoát khỏi trí nghĩ tầm thường của Phật Tử phàm tục. Chính vì lẽ đó mà nhà Vua không thể lãnh hội được tiếng Pháp diệu huyền của bậc đại nhân. Thế là ngài Bồ Ðề Ðạt Ma quyết định rời bỏ kinh đô nhà Lương đi về phía Bắc Giang. Tới Lạc Dương thuộc tỉnh Hà Nam, ngài ngụ lại Chùa Thiếu Lâm ở núi Tung Sơn. Ở đây ngài ngồi quay mặt vào vách suốt ngày trong chín năm trời để trở về với nỗi cô đơn tuyệt đối của một người thiết tha giúp đời nhưng đời không hiểu nổi ý chí tâm thành của mình. Ở đây, trong khoảng thời gian nầy, chỉ trừ một số nhỏ môn đệ, còn hầu hết những Cao Tăng, Danh Sĩ đương thời đều xa lánh và coi thường Bồ Ðề Ðạt Ma, vì họ không hiểu nổi ý chí huyền diệu của ngài.
            HUYỀN THOẠI VỀ BỒ ÐỀ ÐẠT MA
            Nếu nhìn kỷ chúng ta sẽ thấy cuộc đời của ngài Bồ Ðề Ðạt Ma. Nói như Phạm Công Thiện đã từng nói: Cuộc đời của Bồ Ðề Ðạt Ma là một bài thơ, và tâm hồn của Bồ Ðề Ðạt Ma là tâm hồn của một nghệ sĩ. Một tâm hồn chẳng biết sợ ai, cũng không xu phụ quyền thế, và sống một cuộc đời cô đơn đến cùng cực. Chính cái bản chất nghệ sĩ trong con người của Bồ Ðề Ðạt Ma đã khiến cho các môn đệ yêu mến và gần gũi với ngài. Cuộc đời của ngài Bồ Ðề Ðạt Ma nói riêng, và tất cả các Tổ của Thiền Tôn Trung Hoa nói chung, có nhiều chi tiết mà chúng ta cứ ngỡ là hoang đường, khó tin. Sự thật thì trên đời có gì tốt đẹp và thi vị hơn bằng những câu chuyện hoang đường, thần Thoại, cổ tích truyền kỳ. Chính những câu chuyện hoang đường, thần thoại..mới nói lên được thực tại của con người và cuộc đời của chư Tổ.
            Theo truyền thống của Thiền Tôn tưởng tượng rằng: Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma có tướng mạo gay gắt hung dữ, đôi mắt luôn trợn trắng, mày quặm lại, râu đầy mặt, trông như tên cướp biển. Trong ngôn ngữ Trung Hoa có từ ngữ thông dụng là Bích Nhãn Hồ, nghĩa là tên Rợ Mắt Xanh, dùng để gọi Bồ Ðề Ðạt Ma. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy các vị Thiền Sư khi gọi Tổ Sư của tôn phái mình bằng những lời lẽ phạm thượng vô lễ như vậy. Ðó là thái độ tự nhiên của những Thiền Sư Trung Hoa, họ thường hay dùng những ngôn ngữ ngổ ngáo, nghịch đời như vậy. Ðối với họ, gọi ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là tên Rợ mới là thân mật, gần gũi và đầy lòng kính trọng chân thành. Về ngài Bồ Ðề Ðạt Ma có những truyện kỳ như sau:
            1- Sau khi hội thoại với Vua Lương Võ Ðế, thấy nhà Vua không thể hiểu được đạo lý giải thoát của Phật Ðà, ngài liền bỏ đi. Lúc vượt qua sông Dương Tử, ngài dùng một cộng cỏ lau để làm phương tiện qua sông. Truyền kỳ nầy được những nhà hoạ sĩ thường vẽ chân dung ngài và hiện thờ ở các Chùa.
            2- Một truyện kỳ khác, Có một lần khi đang tham thiền ngài bổng ngủ gục, vì thế mà ngài nổi giận, liền cắt đức mí mắt, và thịt của những mí mắt ấy rớt xuống đất mọc thành cây trà đầu tiên, sau nầy những Thiền Sư thường dùng trà để cho khỏi buồn ngủ, và trí óc được sáng sáng suốt quang minh. Về sau người Nhật Bản vẫn thường nói: Trà và Thiền giống nhau. Cũng từ đó các Thiền Sư đã làm nghệ thuật uống trà và trở thành Thiền Trà.
            3- Một tuyền kỳ khác, cách ba năm sau khi Bồ Ðề Ðạt Ma viên tịch, Tống Vân đi sứ sang Ấn Ðộ, lúc trở về đi ngang qua núi Thông Lãnh, thì gặp Bồ Ðề Ðạt Ma, trên vai quảy một chiếc dép đi nhanh như bay, Tống Vân hỏi:
            - Thầy đi đâu?
            Ngài đáp:
- Ði về Ấn Ðộ.
Ngài nói thêm:
- Chủ của ông chán đời rồi.
Tống vân ngớ ngẩn. Từ giã tổ, Tống Vân trở về triều.  Ðến triều mới biết Minh Ðế đã băng. Hiếu Trang lên ngôi, Tống Vân đem việc ấy tâu lại cho Vua hay. Vua ra lệnh mở nắp quan tài ra quả nhiên còn quan tài không, chỉ còn lại một chiếc dép. Vua sắc chỉ đưa chiếc dép về thờ ở Chùa Thiếu Lâm.
Qua những giai thoại truyền kỳ như trên, chúng ta thấy được tâm hồn ngộ nghỉnh của Bồ Ðề Ðạt Ma, và tâm hồn ấy bốc lửa sôi sục trong ánh sáng của đạo lý, tất cả những giai thoại ấy cốt làm nổi bật tánh chất của Bồ Ðề Ðạt Ma, một tâm hồn vừa bi đát, vừa khôi hài, nghịch đời, siêu việt trong phàm tục. Ðó cũng là những tính chất nổi bậc nhất trong Thiền Tôn Trung Hoa.
            NHỊ TỔ HUỆ KHẢ
            Sau khi từ bỏ Vua Lương Võ Ðế, Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma dừng chân ở Thiếu Lâm ở Tung Sơn, suốt ngày ngồi xây mặt vào vách im lặng. Tăng chúng đều không hiểu được, còn người đời đều gọi là Bà La Môn nhìn vách. Thời gian ngài Bồ Ðề Ðạt Ma tu tại Tung Sơn, một hôm có nhà sư tên là Thần Quang đến tìm tổ để cầu đạo.
            Sư Thần Quang quê ở Võ Lao, dòng Tôn Thất nhà Chu. Theo tương truyền nói cha mẹ của ngài lớn tuổi mà không có con, cha mẹ ngài phải đến Chùa cầu con, sau mẹ có thai mới sanh ra ngài. Thưở bé Ngài học hết sách đời, làu thông Lão Trang. Năm ba muơi tuổi ngài cảm thấy Lão, Dịch là sách thế gian không có được chân lý giải thoát, do đó Sư bắt đầu xem kinh sách Phật. Sau đó ngài vân du đây đó để tìm thầy học đạo. Ðến Lạc Dương ngài lên Hương Sơn Chùa Long Môn gặp ngài Bảo Tịnh và xin xuất gia. Sau đó nhiều năm tìm cầu học đạo, nhưng Sư không thấy thỏa mãn lòng mong mỏi cầu đạo. Khi được biết tại đỉnh Tung Sơn có Bồ Ðề Ðạt Ma là bậc dị nhân đắc đạo, do đó ngài tức tốc đến Tung Sơn để yết kiến Tổ. Mặt dầu Thần Quang đã đủ nghi lễ mà ngài vẫn ngồi yên ngó mặt vào vách. Thấy thái độ dửng dưng của Bồ Ðề Ðạt Ma nên Thần Quang suy nghĩ: Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được trong muôn một của các ngài. Lúc ấy nhằm tiết mùa đông nên tuyết rơi rất nhiều, Thần Quang vẫn đứng yên ngoài trời tuyết hướng về ngài. Ðến sáng tuyết ngập ngập lên khỏi đầu gối mà gương mặt vẫn thản nhiên. Tổ Ðạt Ma thấy thế thương tình quay ra bảo:
            - Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết ý muốn cầu việc gì?
            Thần Quang thưa:
            - Cúi mong Hòa Thượng từ bi mở cửa cam lộ rộng độ cho con.
Tổ Sư dạy:
- Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm những việc khó làm, hay nhẫn được việc khó nhẫn còn không thể đến thay, huống chi chỉ dùng một chút công lao nhỏ nầy mà cầu được pháp chân thừa sao? Thôi thì ngươi cứ đứng cho đến khi nào tuyết trắng thành màu hồng  rồi sẽ hay.
            Thần Quang nghe Tổ dạy như vậy, liền lấy dao chặc cánh tay trái, tức thì dòng máu đỏ, nóng trong người Thần Quang phun ra trên mặt tuyết. Cầm cánh tay trái đứt lìa khỏi thân đến bên cạnh Tổ, Thần Quang kính cẩn thưa:
- Bạch Hòa Thượng, tuyết trắng bây giờ đã thành hồng, cúi mong Hòa Thượng từ bi mở cửa Cam Lộ độ cho con.
Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma biết đây là Pháp Khí, là người có thể Tác Như Lai Sứ Hành Như Lai Sự, nên Tổ liền dạy:
            - Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân, nay ngươi tự chặc cánh tay, tâm cầu đạo của ngươi như vậy cũng rất khá.
            Nghe Tổ dạy như vậy, Thần Quang biết Tổ đã nhận lời truyền dạy đạo, nên vội vã thưa:
            - Bạch HòaThượng , Pháp Ấn của chư Phật con có thể được nghe không?
            Tổ dạy:
            - Pháp Ấn của chư Phật không phải từ nơi người khác mà được.
            Thần Quang thưa:
            - Bạch Hòa Thượng tâm con chưa an, xin Hòa Thượng dạy pháp an tâm cho con.
Tổ dạy:
- Ngươi đem tâm ra đây ta an tâm cho.
Thần Quang sửng sốt một hồi lâu rồi thưa:
- Con kiếm tâm mà chẳng thấy đâu cả.
Tổ dạy:
- Ta đã an tâm cho con rồi đó.
Khi nghe Tổ dạy như vậy Thần Quang nhân đây mà Khế Ngộ. Tổ liền đổi Thần Quang là Huệ Khả. Cơ duyên đã tới, một hôm Tổ kêu Huệ Khả truyền trao y bát, bốn quyển Kinh Lăng Già và bài kệ phú Pháp:
Ngô bổn lai tư độ
Truyền Pháp cứu mê tình
Nhất hoa sanh ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành.
Dịch là:
Ta sang đến cõi nầy
Truyên pháp cứu mê tình
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.
Cũng từ đây cả Tăng lẫn Tục bắt đầu đến yết kiến Tổ, và cũng từ đây Ðạo Thiền bắt đầu luân lưu khắp nơi trong xứ Trung Hoa
TÌM HIỂU VỀ SỰ AN TÂM CỦA HUỆ KHẢ
Qua mẫu chuyện đối thoại giữa Tổ và ngài Huệ khả:
- Bạch Hòa Thượng, tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm.
Tổ dạy:
- Ngươi đem tâm ra đây ta an cho.
Huệ Khả đáp:
- Con kiếm tâm mà chẳng thấy đâu cả.
Tổ đáp:
- Ta đã an tâm cho con rồi đó.
Ở đây chúng ta thấy, khi Huệ Khả tìm đến Bồ Ðề Ðạt Ma, không phải vì sự thị hiếu, không phải muốn học đạo lý để trở thành một học giả, mà Huệ Khả tìm đến với ngài Bồ Ðề Ðạt Ma như tư cách của một môn đệ của Phật cả tâm hồn lẫn thể xát, với tất cả lòng thành vô hạn của một con ngưòi đã từng đau khổ trong kiếp ngưòi, với những ưu tư khắc khoải, mong mỏi tìm lối thoát ra khỏi bể khổ trầm luân. Cho nên khi nghe ngài Bồ Ðề Ðạt Ma bảo:
- Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó, thì Huệ Khả hốt nhiên đại ngộ.
Thật tình chúng ta không thể hiểu được sự thâm sâu trong vài ba câu đối thoại đơn sơ, nếu chúng ta không có những ưu tư khắc khoải, những đau đớn trong một tâm hồn dốc tâm cầu đạo như Huệ Khả. Không phải chỉ có câu nói: Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó. Không phải chỉ có nghe như vậy mà có thể giác ngộ, mà chúng ta phải hiểu câu nói ấy như một tia lửa châm vào một cái pháo thăng thiên sẳn có trong đời sống tâm linh của Huệ khả. Nếu Huệ Khả chỉ là một học giả, hay một người không thành thật có tâm cầu đạo, thì câu nói đơn sơ của Bồ Ðề Ðạt Ma sẽ không có tác dụng gì cả. Sở dĩ câu nói ấy đưa Huệ Khả đến chỗ giác ngộ, là vì Huệ Khả chứng nghiệm quá nhiều phiền não đau khổ trong cuộc đời. Có thể nói Huệ Khả đang đứng trước hố thẳm của sinh tử, nên chỉ cần một lời nói đơn sơ: Ta đã an Tâm cho ngươi rồi đó là cũng đủ làm cho nguồn tuệ giác nội tại của Huệ Khả vùng dậy.
            TAM TỔ TĂNG XÁN
            Sau khi đắt Pháp với Sơ Tổ, ngài Huệ Khả ở tại núi Tung Sơn cho đến khi Sư Phụ Viên Tịch, sau đó ngài sang Bắc Tề hoằng truyền chánh pháp. Một hôm Nhị Tổ gặp một Cư Sĩ độ khoảng bốn mươi, không nói tên họ đến đảnh lễ Nhị Tổ và thưa:
            - Ðệ tử mang bệnh , ghẻ lở đầy mình, xin Hòa Thượng từ bi vì đệ tử mà sám tội.
            Nhị Tổ bảo:
- Ngươi đem tội ra đây, ta sẽ vì ngươi mà sám tội.
            Vị Cư Sĩ ấy sững sốt giây lát và thưa:
            - Ðệ tử tìm tội không thể được.
            Nhị Tổ dạy:
- Ta đã vì ngươi mà sám tội rồi, nhưng ngươi nên nương tựa Phật, Pháp, Tăng.
            Vị Cư Sĩ thưa:
            - Hiện giờ đệ tử thấy Hòa Thượng thì biết được Tăng, nhưng con không biết thế nào là Phật, và Pháp.
            Nhị Tổ dạy:
            - Tâm ấy là Phật, Tâm ấy là Pháp. Phật, Pháp không hai, ngươi có biết không?
            Vị Cư Sĩ thưa:
            - Nay đệ tử mới biết tánh tội không ở trong, không ở chặn giữa, không ở ngoài. Như tội, Tâm cũng vậy, Phật Pháp không hai.
            Nhị Tổ nghe nói như thế, biết đây là Pháp khí nên rất hoan hỷ cho cạo tóc xuất gia và bảo:
- Ngươi là vật báu của ta, nên ta đặt tên cho ngươi là Tăng Xán. Ngày 18 tháng 3 niên hiệu Thiên Bình năm thứ hai(Năm 536T.L.), Tăng Xán được Nhị Tổ cho thọ giới cụ túc tại Chùa Quang Phước, từ đó bệnh của ngài cũng thuyên giảm.
Tăng Xán hầu thầy được hai năm, Tổ thường giảng dạy nghĩa lý sâu mầu của Phật Pháp, và cơ duyên đã thuần thục, một hôm Nhị Tổ gọi đến bảo:
            - Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma chẳng ngại xa xôi từ Ấn Ðộ sang, đem Chánh Pháp Nhãn Tạng truyền trao cho ta, nay ta trao cho ngươi cùng với y bát, ngươi hãy khéo giữ gìn đừng có đoạn tuyệt. Nghe ta nói bài kệ:
            Bổn lai duyên hữu Ðịa
            Nhơn địa chúng hoa sanh
            Bổn lai vô hữu chủng
Hoa diệt bất tằng sanh.
Dịch:
            Xưa nay nhân có đất
            Bởi giống đất hoa sanh
Xưa nay không có giống
Hoa cũng chẳng từng sanh.
Ðọc xong bài kệ Nhị Tổ nói tiếp:
- Ngươi phải tìm nơi núi sâu ở ẩn, không nên đi giáo sớm, trong nước sẽ có nạn.
Tăng Xán Thưa:
- Thầy đã biết trước mọi việc, xin thầy từ bi dạy cho con rành rẻ.
Nhị Tổ nói:
- Ðây không phải tự ta nói, mà là lời huyền ký của Tổ Bát Nhã Ða La, do Tổ Ðạt Ma thuật lại cho ta nghe. Sau khi Tổ nhập niết bàn 150 năm sẽ có những việc xảy ra như bài kệ:
Tâm trung tuy kiết ngoại hung đầu
Xuyên hạ tăng phòng danh bất trung
Vi ngộ độc long sanh võ tử
Hốt phùng tiểu thử tịch vô cùng.
Dịch:
Trong tâm tuy kiết ngoại đầu hung
Ðất xuyên phòng tăng tên chẳng trúng
Vì gặp độc long sanh con võ
Chợt nghe chuột nhỏ lặng vô cùng.
Xét về niên số nhằm đời của ngươi, ngươi nên cố gắng giữ gìn. Ta cũng có nợ ngày trước, nay cần phải trả. Dặn dò mọi việc cho Tam Tổ Tăng Xán xong, Nhị Tổ sang xứ Nghiệp Ðô giáo hóa chúng sanh.
SỰ GIÁC NGỘ CỦA TĂNG XÁN
Qua mẩu chuyện đối thoại giữa Nhị Tổ và Tăng Xán:
- Ðệ tử mang bệnh, ghẻ lở đầy mình, xin thầy từ bi vì đệ tử mà sám tội.
Nhị Tổ bảo:
- Ðem tội ra đây ta sẽ vì ngươi mà sám tội.
Vị Cư Sĩ ngơ ngẩn:
- Ðệ tử tìm tội không thể được.
Nhị Tổ dạy:
- Ta đã vì ngươi mà sám hối rồi.
Như trên, chúng ta thấy phảng phất giống như tâm trạng của Nhị Tổ khi cầu đạo. Ở đây chúng ta thấy thái độ của Tam Tổ Tăng Xán tới gặp Nhị Tổ chỉ vì một lý do duy nhất đó là bệnh hoạn đau khổ triền miên, đi đến chỗ tuyệt vọng, nên khi Tăng Xán đến với Tổ cũng luôn cả tâm hồn lẫn thể xát, với tất cả lòng tín thành của con người đang bị nghiệp lực hoành hành. Như có lần chúng ta đã chứng kiến cách an tâm của Tổ Sư Ðạt Ma cho Nhị Tổ, thì bây giờ cũng như vậy, với những câu đối thoại đơn sơ giữa Nhị Tổ và Tăng Xán khó mà hiểu được ý nghĩa thâm trầm đó, nếu chúng ta không có đau khổ bệnh hoạn như vậy. Chúng ta cũng có thể hiểu câu nói nầy như một cái phi đạn trong đời sống tâm linh của Tăng Xán, cho nên lời của Nhị Tổ có tác dụng hữu hiệu trong việc giải phóng nghiệp lực và mang giác ngộ đến cho Tăng Xán. Ðã hơn một lần chứng nghiệm từ bản thân, nên Nhị Tổ chỉ nhận Tăng Xán làm môn đệ, khi Nhị Tổ biết chắc chắn rằng Tăng Xán là một con người hoàn toàn đau khổ vì nghiệp duyên. Khi đã biết rõ quá trình ý thức của Tăng Xán qua những mẫu đối thoại thông thường, Nhị Tổ đã biết rõ chổ cần thiết của Tăng Xán, nên chỉ đánh vào nhược điểm ấy bằng một câu đơn giản, thế là con người đau khổ, bệnh hoạn ấy ngã gục nhường chỗ cho con người mới sống dậy. Tăng Xán đang đứng trước vực thẩm của nghiệp báo, nên rất có thể chỉ vì một lời nói của Nhị Tổ có thể làm cho Tăng Xán tự tử, và có thể một lời nói làm cho Tăng Xán giác ngộ, và trong trường hợp nầy một lời nói của Nhị Tổ đã đánh thức được nghiệp thức của Tăng Xán.
TỨ TỔ ÐẠO TÍN
            Sau khi đắc pháp, và theo lời dạy của Nhị Tổ, Tam Tổ Tăng Xán ẩn mình nơi núi Hòan Công thuộc Thư Châu. Về sau Tổ sang ở núi Tư Không Huyện Thái Hồ, trong thời gian nầy có vị tăng người Ấn Ðộ tên Tỳ Ni Ða Lưu Chi sang Trung Hoa cầu pháp. Gặp Tổ, Tỳ Ni Ða Lưu Chi hết lòng ngưỡng mộ và xin làm đệ tử, Tổ truyền tâm ấn và khuyên qua phương nam tiếp độ chúng sanh. Nghe lời Tổ dạy, Tỳ Ni Ða Lưu Chi từ biệt thầy ra đi. Ðến Quảng Châu ngài trú trì ở Chùa Chế Chỉ ở đây ngài dịch Kinh Tượng Ðầu Báo nghiệp từ chữ Phạn sang chữ hán. Ðến năm canh Tý niên hiệu Ðại Tường thứ hai Nhà Chu, ngài qua Việt Nam Trú Trì tại Chùa Pháp Vân. Tính theo địa danh bây giờ, Chùa Pháp Vân nay thuộc làng Vân Giáp, huyện Thượng Phúc tỉnh Hà Ðông. Ở đây ngài dịch Kinh Tổng Trì. Năm Quý Sụu niên hiệu Khai Hòang thứ 14 đời Nhà Tùy( năm594) ngài truyền tâm ấn cho ngài Pháp Hiền rồi viên tịch.
            Sau khi truyền Pháp cho ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Tam Tổ vẫn tiếp tục sống ẩn dật ở núi Tư Không, mãi cho đến đời Nhà Tùy niên hiệu Khai Hoàng có một Sa Di tên Ðạo Tín, họ Tư Mã, tổ tiên quê ở Hà Nội, sanh và trưởng thành ở Kỳ Châu huyện Quảng Tế, đến lễ Tam Tổ và thưa:
            - Xin Hòa Thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thóat.
            Tam Tổ hỏi:
            - Ai trói buộc ngươi?
            Ðạo Tín thưa:
            - Không ai trói buộc cả.
            Tam Tổ dạy:
            - Không ai trói buộc đâu cần giải thoát.
            Nghe Tổ dạy như thế Ðạo Tín liền ngộ dạo. Từ đây Ðạo Tín theo hầu hạ Tổ suốt chín năm trời. Tổ thường dùng lý diệu huyền gạn hỏi, biết Ðạo Tín cơ duyên đã thuần thục, Tổ tuyền trao y bát cho ngài và dạy:
            - Chánh Pháp Nhãn Tạng của Như Lai, nay ta trao cho ngươi cùng với y bát. Ngươi gắng mà giữ gìn hãy nghe ta nói bài kệ.
            Hoa chủng tuy nhơn địa
Tùng địa chủng hoa sanh
Nhược vô nhơn hạ chủng
Hoa địa tận vô sanh.
Dịch:
Giống hoa tuy nhơn đất
Từ đất giống hoa sanh
Nếu không người gieo giống
Hoa đất trọn không sanh.
Tổ dạy tiếp:
- Xưa Tổ Huệ Khả trao pháp cho ta rồi, ngài đến xứ Nghiệp Ðô hoằng pháp hơn 30 năm mới tịch. Nay đã có người thừa kế cho ta thì việc đã xong.
            Sau khi truyền tâm ấn cho Ðạo Tín, tổ đến núi La Phù ngao du hai năm, rồi lại trở về Châu Thư ngụ tại Chùa Sơn Cốc. Dân chúng ở đây nghe Tổ đến đều vui mừng, họ tấp nập kéo nhau đến nghe pháp rất đông. Một hôm Tổ đăng tòa thuyết pháp cho tứ chúng nghe, sau khi thuyết pháp xong, Tổ đứng ngay thẳng dưới cây đại thọ chấp tay thị tịch.
            Sau khi được phú Pháp, Ðạo Tín trở thành đệ Tứ Tổ, từ đó về sau Tổ tinh tấn tu tập ngày đêm không nằm.
HOẰNG PHÁP LỢI SANH
            Trên con đường hoằng Pháp Lợi Sanh, năm 613T.L. niên hiệu Ðại Nghiệp năm thứ 13 đời Nhà Tùy, Tổ cùng đại chúng sang Kiết Châu, ở đó bị giặc cướp vây thành, dân chúng ai ai cũng kinh hoàng. Thấy vậy Tổ dạy mọi người chí thành niệm Ma Ha Bát Nhã, toàn dân chúng trong thành ai ai cũng tụng niệm. lúc bấy giờ bọn giặc cướp nhìn lên thành thấy thần binh trùng trùng điệp điệp, nên chúng vội vã rút binh.
            Sau Tứ Tổ về an trụ tại Kỳ Xuân, núi Phá Ðầu. Ở đây, tăng tín đồ đua nhau đến tham vấn học đạo rất đông. Trong thời gian ở đây Tổ cũng đã khai thị cho ngài Pháp Dung. Ngài Pháp Dung đắc pháp với Tổ và sau nầy truyền thừa phái Ngưu Ðầu Thiền.
            Một hôm Tứ Tổ đến huyện Hoàng Mai, giữa đường gặp một đứa bé độ chừng bảy tuổi. Tổ để tâm đến đứa bé, sau đó Tổ và tùy tùng tìm đến nhà đứa bé xin cha mẹ đứa bé cho nó xuất gia. Mẹ đứa bé đồng ý, Tổ nhận đứa bé làm đệ tử xuất gia và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Khi cơ duyên đến Tứ Tổ truyền trao y bát và Hoằng Nhẫn trở thành đệ Ngũ Tổ.
            CHỖ ÐẮC PHÁP CỦA TỨ TỔ
            Qua sự đối thoại của Ðạo Tín và Tam Tổ, tuy cũng đơn sơ nhưng ý nghĩa rất cao xa. Bởi vì nếu không phải là người đã có căn cốt tu tập từ đời kiếp trước thì dĩ nhiên khó mà nhận lãnh ý nghĩa cao thâm này. Như nói:
            - Xin Hoà Thượng từ bi mở cửa cam lộ, ban cho con pháp môn giải thoát.
            Tam Tổ hỏi:
            - Ai trói buộc ngươi?
            Ðạo Tín đáp:
Không có ai trói buộc.
Tam Tổ hỏi:
            - Ðã không ai trói buộc thì đâu cần phải giải thoát.
            Từ câu chuyện ngắn gọn như vậy, Tam Tổ đã thấy rõ ràng Ðạo Tín là người có căn duyên với Phật Pháp, tuy nhiên cũng vẫn là người chưa kiến tánh, do đó mà chưa thoát được những phiền não, những hệ lụy trói buộc của kiếp người, nên Ðạo Tín phải đi phải cần Tổ chỉ dạy phương tiện giải thoát. Lời Tổ dạy như muốn nói: Nếu muốn giải thoát phiền não thì phải đi tìm phật, mà tìm phật ở bên ngoài là điều không thể có được. Vậy thì hãy nhìn vào bản chất của chính mình, đó chính là Phật. Phật là bậc toàn năng, toàn trí, toàn giác, là bậc đã giải thoát hoàn toàn. Một bậc không còn làm gì nữa, vì đã làm nhiều rồi, cũng không cần thành tựu vì đã thành tựu rồi. Thay vì  quay đi và đi tìm Phật ở ngoại vật, thì sẽ không bao giờ thấy Phật. Như vậy phải nhìn vào bản tính của chính mình, Phật là tâm của của chính mình, vậy thì cũng đừng lầm lẫn mà tìm cầu vào ngoại vật. Phật chính là bản tính giác ngộ, và sự giác ngộ nầy nói về sự giác ngộ tâm linh, vì chính bản tính tâm linh của mình phản ứng lại ngoại giới, và giao tiếp với mọi sự vật. Bản tính nói ở đây là tâm, Tâm là Phật. Phật là Ðạo, Ðạo là ngôn ngữ Thiền. Thiền là tiếng nói giản dị, nhưng lại vượt lên trên tất cả sự hiểu biết của những cái khôn và dại để nhìn thẳng vào bản lai diện mục của mình đó là thiền. Dù người có thông hiểu kinh bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu không nhìn thấy bản tánh nguyên thủy của chính mình, thì người ấy vẫn còn bị phiền não sai sử, trói buộc triền miên. Ðạo lý không phải chỉ có ở nơi nghiên cứu lý thuyết để chứng ngộ. Chân lý cao nhất và sâu sắc nhất đến không thể dò được, chân lý ấy không phải là đối tượng của sự luận bàn, và ngay cả những kinh điển cũng không thể đem chân lý đến cho ta, mà hãy nhìn thấy bản tánh thật thụ của mình thì sẽ đạt chân lý, và giải thoát. Tam Tổ đã thấy được sự thành tựu ở lớp tuổi mười bốn của Ðạo Tín, nên chỉ bằng một câu đơn giản như vậy mà có mãnh lực như tia hào quang vi diệu chiếu vào bản lai diện mục của Ðạo Tín.
            ÐỆ NGŨ TỔ HOẰNG NHỞN
            Như đã trình bày ở trên, một hôm Tứ Tổ đến huyện Hoằng Mai, giữa đường gặp một đứa bé tướng mạo rất khôi ngô, độ chừng bảy tuổi, Tổ hỏi đứa bé:
            - Ngươi tên họ Là gì?
Ðựa bé đáp:
            - Họ có mà không phải thường.
            Tổ hỏi:
            - Là họ gì?
            Ðựa bé đáp:
- Là họ Phật.
            Tổ hỏi:
            - Ngươi không có họ à?
            Ðựa bé đáp;
- Vì họ ấy là không.
            Thấy thế Tổ nói với tùy tùng:
            Ðựa bé nầy không phải là người phàm, sau nầy sẽ làm cho Phật pháp hưng thịnh. Sau đó Tổ và tùy tùng tìm đến nhà đứa bé thuật lại những đặt tính khác thường của đứa bé và xin mẹ nó cho nó xuất gia. Mẹ đứa bé đồng ý, Tổ nhận đứa bé làm đệ tử xuất gia và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Nhận thấy cơ duyên đã đến, một hôm tổ gọi Hoằng Nhẫn đến bảo:
            - Xưa Như Lai Truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng đến đời ta, nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát. Ngươi hãy giữ gìn cẩn thận, truyền trao đừng cho đứt đoạn. Hãy nghe ta nói bài kệ:
Hoa chủng hữu sanh tánh
Nhơn địa Hoa sanh sanh
            Ðại duyên dữ trí hiệp
Ðương sanh hoa bất sanh
            Dịch:
            Giống hoa có tánh sống
            Nhân đất hoa nẩy mầm
            Duyên lớn cùng tín hợp
            Chánh sanh hoa chẳng sanh.
            Sau khi Tứ Tổ tịch, Ngũ Tổ thừa kế trụ trì tại núi Phá Ðầu, ngài giáo hóa chúng sanh, Phật Pháp nơi dây rất thịnh hành. Khi ấy dân chúng kính mộ tôn phong, cho nên dù xa ngàn dặm cũng tìm đến tham học rất đông. Tại Ðạo tràng nầy tăng chúng thường trực không dưới năm trăm người.
            Ðến niên hiệu Hàm Hanh( năm 670-674T.L.), đời nhà Ðường có một cư sĩ tên Lư Huệ Năng từ Lĩnh Nam đến yết kiến tổ để cầu đạo. Ngũ Tổ nhận thấy Huệ Năng là Pháp Khí nhưng sợ đương thời có người hãm hại, nên giả vờ không thâu nhận làm đệ tử xuất gia, mà chỉ thâu nhận như một người là công quả. Về sau cơ duyên đến Ngũ Tổ âm thầm truyền trao y bát và Huệ Năng trở thành Lục Tổ.
            HUYỀN THOẠI VỀ NGŨ TỔ
            Một hôm, Ngũ Tổ viếng thăm núi Long Phụng gặp một ông Sư Già trồng tòng, người đương thời gọi ông là Tài Tòng Ðạo Giả. Vị sư ấy hỏi Tổ rằng:
            - Ðạo pháp của Như Lai có thể cho tôi nghe được không?
Tứ Tổ đáp:
            - Tuổi của ông đã già dù cho có nghe kịp cũng không hoằng hóa kịp. Nếu có tái sanh được thì ta cũng nán chờ.
            Ðạo Giả nghe Tứ Tổ dạy như vậy, ông liền từ tạ Tổ và đi xuống núi. Ðến huyện Huỳnh Mai, thấy một cô gái đang giặt áo bên bờ sông, ông đến chào và hỏi:
            - Nhà cô cách đây gần hay xa. Cô có thể nào vui lòng cho tôi nghỉ nhờ được không?
            Cô gái đáp:
            - Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền, mời sư vào nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.
            Ðạo Giả hỏi:
            - Vậy cô có bằng lòng không cho tôi biết?
            Cô gái đáp:
            - Riêng tôi thì tôi bằng lòng.
            Ðạo Giả nghe cô hứa chịu, liền đi thẳng về núi viên tịch. Cô gái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa lời với Ðạo Giả rồi, không bao lâu cô ấy có thai, cha mẹ thấy cô chưa có chồng mà có thai, là làm ô nhục gia phong, nên cha mẹ quyết định đuổi cô đi.   
            Cô đang tuổi trẻ mà mang cái nợ giữa đường, sống bơ vơ không nơi nương đổ, phải đi làm thuê mướn nuôi miệng qua ngày. Ðến ngày khai hoa nở nhụy, cô sinh ra một đứa con trai xinh xắn, nhưng vì lý do không chồng mà có con, nên cô đành lòng đem đứa con mới sanh thả sông. Sáng ngày cô thấy đứa bé ngồi xếp bằng ngồi trên mặt nước, khí sắc tươi tỉnh lạ thường. Cô vừa lấy làm lạ, vừa xót thương nên bồng về nuôi dưỡng. Ðến bảy tuổi, đứa bé gặp Tứ Tổ và đối thoại một cách phi thuờng, do đó được Tổ để ý xin về cho xuất gia và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Hoằng Nhẫn, có nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có nghĩa Tứ Tổ nhẫn chờ đứa bé không lớn khôn để truyền pháp. Theo truyền thuyết này, Tổ Hoằng Nhẫn là thân sau của Tài Tòng Ðạo Giả.
            LỤC TỔ HUỆ NĂNG
            Trên đường Tứ Tổ Hoằng Pháp Lợi Sanh, một hôm có một Cư Sĩ tên Huệ Năng họ Lư người Lĩnh Nam đến ra mắt Ngũ Tổ, Tổ hỏi:
            - Ngươi từ đâu đến?
Huệ Năng thưa:
- Bạch Hòa Thượng con từ Lĩnh Nam đến.
Ngũ Tổ hỏi:
- Ngươi đến đây ý muốn cầu việc gì?
Huệ Năng thưa:
- Bạch Hòa Thượng, con đến đây chỉ muốn cầu làm Phật.
Ngũ Tổ quở:
- Người Lĩnh Nam không có Phật tánh, làm sao làm Phật được.?
Huệ Năng kính cẩn thưa:
- Bạch Hòa Thượng, người có nam có bắc, nhưng Phật tánh thì không có nam bắc.
Qua câu chuyện đối thoại Ngũ Tổ biết đây là bậc lợi căn, là hàng pháp khí. Tổ còn muốn nói chuyện thêm thì có người tới. Vì sợ người đời ganh tỵ nên Tổ bảo xuống nhà bếp làm công quả. Ở đây ngài làm công quả bửa củi, giã gạo. Cối gạo thì to, chày đạy thì lớn, trong khi đó Huệ Năng ở lứa tuổi hai mươi mốt hai mươi hai, người gầy dáng nhỏ, nên không đủ sức để làm việc, cho nên ngài mới cột thêm cục đá trên lưng để đủ sức giã gạo. Ngài làm việc như vậy gần sáu tháng trời mà không thối chí.
Một hôm Tổ xuống nhà bếp, đi ngang qua chỗ Huệ Năng giã gạo, Tổ bảo:
- Ngươi vì đạo quên mình như thế, ta biết ngươi căn tánh lanh lợi, nhưng ngại có người hại ngươi, cho nên ta không thể nói chuyện với ngươi, ngươi có biết không?
Huệ Năng kính cẩn thưa:
- Bạch Hòa Thượng con đã biết như thế.
Tổ biết thời cơ truyền Pháp đã đến, liền ra lệnh cho toàn chúng trình kệ:
- Chánh Pháp khó hiểu, không nên ghi nhớ lời nói suông của ta. Các ngươi tùy ý mỗi người thuật một bài kệ, nếu ý ngộ ta sẽ truyền trao y bát. Lúc đó hội chúng hơn bảy trăm người, ai cũng tôn sùng Thần Tú làm bực thầy, nên họ đồng nhường phần trình kệ cho Thần Tú. Thần Tú nghe lời bàn tán của đại chúng như vậy, nên ông làm một bài kệ. Làm kệ xong, ông lén biên lên vách chùa phía ngoài hành lang bài kệ như sau:
Thân thị Bồ Ðề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Mạc sử nhạ trần ai.
Dịch:
Thân là cội Bồ Ðề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi
Chớ để dính bụi bặm.
Sáng ngày, Ngũ Tổ đi kinh hành qua thấy bài kệ, Tổ biết thầnTú làm, nên khen:
- Người đời sau nếu y theo bài kệ nầy mà tu hành thì cũng được thắng quả. Thế là toàn chúng đua nhau đọc tụng.
Ở nhà bếp, ngài Huệ Năng đang giã gạo, có một ông đạo đi ngang qua tụng bài kệ ấy. Hỏi ra biết của Thần Tú làm, Huệ Năng bèn nhờ dẫn đến chỗ biên kệ đảnh lễ, đồng thời nhờ biên giùm một bài kệ hòa  lại:
            Bồ Ðề bổn vô thọ
            Minh cảnh diệt phi đài
Bổn lai vô nhất vật
            Hà xứ nhạ trần ai.
            Dịch:
            Bồ Ðề vốn không cội
            Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật
            Chỗ nào dính trần ai.
            Ngũ Tổ thấy bài kệ, biết là của Huệ Năng và bài kệ nầy đã thấy tánh, nhưng không tiện nói ra, sợ e có người hại Huệ Năng nên Tổ lấy dép bôi đi và nói:
            - Ai làm bài kệ nầy cũng chưa thấy tánh. Mấy hôm sau Ngũ Tổ tìm cơ hội xuống nhà bếp, đến cho Huệ Năng giã gạo và hỏi:
- Gạo trắng chưa?
Huệ Năng đáp:
- Bạch Hòa Thượng, gạo đã trắng rồi mà chưa có sàng.
Tổ cầm gậy gỏ lên cần cối ba cái rồi đi về phương trượng. Canh ba đêm ấy Huệ Năng đi vào tịnh thất của Ngũ Tổ, Tổ giảng Kinh Kim Canh cho Huệ Năng. Nghe đến câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm thì Huệ Năng tỏ ngộ tất cả pháp  bất ly tự tánh, nên quì xuống bạch rằng:
Rõ được tự tánh gốc thanh tịnh
Rõ được tự tánh gốc chẳng sanh diệt
Rõ được tự tánh gốc hoàn toàn
Rõ được tự tánh gốc không lay chuyển
Rõ được tự tánh gốc sanh các pháp.
Ngũ Tổ biết Huệ Năng tỏ ngộ được bổn tánh nên dạy rằng:
Chẳng biết bổn tâm, học Pháp vô ích, Biết được bổn tâm, thấy được bổn tánh, mới là Ðại Trượng Phu, là Thiên Nhân sư, là Phật.
Giữa canh ba đêm đó, Ngài Huệ Năng thọ giới không ai hay, Ngũ Tổ truyền phú đốn giáo cùng y bát và dạy rằng:
- Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên, bởi chúng sanh căn cơ có lớn nhỏ, tùy đó hướng dẫn, mới chia ra ba thừa, mười địa đốn tiệm đó gọi là giáo môn. Như Lai riêng đem chánh Pháp Nhãn Tạng Vô Thượng chơn thật vi diệu trao cho tổ Ca Diếp, lần lượt truyền đến đời thứ hai mươi tám là Tổ Ðạt Ma. Tổ Ðạt Ma sang Trung Quốc truyền nối ngọn đèn chánh pháp đến đời ta, nay ta đem Ðại Pháp và Y Bát đã thọ trao lại cho ngươi. Ngươi phải gắng gìn giữ truyền trao đừng để đọạn tuyệt. Bây giờ đây hãy nghe ta nói bài kệ:
Hữu tình lai hạ chủng
Nhơn địa quả toàn sanh
Vô tình ký vô chủng
Vô tánh diệt vô sanh
Dịch:
Có tình đến gieo giống
Nhơn đất quả lai sanh
Vô tình đã không giống
Không tánh cũng không sanh.
Huệ Năng thọ Pháp và y bát xong, lễ Tổ và thưa:
- Pháp thì con đã nghe thầy dạy, còn y bát có nên truyền cho người sau không?
Ngũ Tổ dạy:
- Xưa Tổ Ðạt Ma là người nước ngoài, truyền pháp cho Tổ Huệ Khả, vẫn ngại người đời không tin sự truyền thừa của thầy trò, nên lấy y bát truyền để tín nghiệm. Nay tông môn ta thiên hạ đều rõ, không còn ai không tin, nên y bát dừng ngay ở đời ngươi đừng truyền nữa. Chánh pháp đến đời ngươi truyền bá càng rộng, nếu còn truyền y bát sẽ có sự tranh giành. Ðã có sự tranh giành thì người được truyền y mạng sống rất là nguy hiểm. Ngươi nên đi liền, khéo tránh, thời gian sau sẽ hoằng hóa.
Huệ Năng lại hỏi:
- Nay con phải đi về đâu?
Ngũ Tỗ dạy:
- Ðến Hoài thì dừng, Hội thì ẩn. Huệ Năng lễ tạ ân thầy rồi ra đi ngay trong đêm hôm ấy. Ba ngày sau đại chúng mới hay Tổ đã truyền y Bát cho Huệ Năng. Bốn năm sau khi truyền y bát cho Huệ Năng, Tổ viên tịch nhằm niên hiệu Thượng Nguyên thứ hai( Năm 675T.L.) đời nhà Ðường, hưởng thọ 74 tuổi.
CON ÐƯỜNG HOẰNG PHÁP CỦA LỤC TỔ
Sau khi được truyền y bát, trên đường lánh nạn, Huệ Minh là một trong những người rượt theo Tổ để dành y bát, cuối cùng được tổ khai thị và Huệ Minh được giác ngộ. Trên hành trình truyền đạo, và theo lời dặn của Ngũ Tổ, nên Lục Tổ thường ẩn trú tại hai ấp Hoài và Tứ Hội.( Quảng Ðông). Nơi đây Tổ sống với đoàn thợ săn với hình thức của một cư sĩ, ngài thường tùy nghi mà thuyết pháp cho họ nghe. Sau đó Tổ đến Thiều Châu thuộc tỉnh Quảng Ðông, ngài trùng tu lại Chùa Bửu Lâm. Ở đây không bao lâu, lại có người tìm đến để dành y Bát. Tổ lại ẩn tránh một thời gian nữa. Suốt mười sáu năm trời ẩn tránh, Tổ biết cơ duyên hoằng pháp đã đến, ngài đi đến Quảng Châu, nhằm ngày mồng tám tháng giêng năm Bính Tý( năm 676T.L.), niên hiệu Nghi Phụng đời nhà Ðường. Tổ vào nghỉ nhờ ngoài hiên Chùa Pháp Tánh, nơi đây Pháp Sư Ấn Tông và mọi người biết được chân tướng của ngài, nên mọi người xin được coi y bát. Sau đó Pháp Sư Ấn Tông xin Lục Tổ nhận làm đệ tử, đồng thời cầu xin chỉ dạy Thiền Pháp. Bảy ngày sau đó tức là ngày rằm tháng giêng (năm Bính Tý năm 676T.L) Ấn Tông thỉnh các bậc danh đức đến thí phát cho Lục Tổ. Ngày mồng tám tháng hai, lập Giới Ðàn truyền giới Cụ Túc cho Tổ, ngài Luật Sư Trí Quang làm tuyên Luật Sư.
Theo huyền ký của ngài Cầu Na Bạt Ðà La đời nhà Tống cho biết:
- Sau nầy sẽ có nhục thân Bồt Tát thọ giới tại đây.
Thời Lương mạc, ngài Tam Tạng Chân Ðế đích thân trồng hai cây Bồ Ðề, và bảo đại chúng rằng:
- Sau khoảng 120 năm sẽ có bậc đại sĩ ở dưới cây Bồ Ðề nầy khai diễn Pháp Vô Thượng, độ chúng sanh vô lượng.
Tổ trụ trì tại Quảng Châu Chùa Pháp Tánh một thời gian, sau đó Tổ trở lại Chùa Bửu Lâm ở Tào Khê, nơi mà Lục Tổ đã trú trì trước đây. Ấn Tông cùng mọi người tiển đưa cả ngàn người. Tổ hoằng pháp ở đây, Tăng và Tục xa gần cùng nhau tới tham vấn rất đông. Trung bình chư tăng thường trú tại chùa không dưới ngàn người. Tổ đã dựng lên cờ Ðại Pháp, bốn phương đều trông thấy hướng về. Kinh Pháp Bảo Ðàn được Tổ diễn giảng và xuất phát từ đây.
CUỘC THỬ NGHIỆM GIỮA NGŨ TỔ& LỤC TỔ HUỆ NĂNG.
Như chúng ta biết ngài Huệ Năng không biết chữ cũng không biết Phật Pháp, bù lại ngài có một trực giác kỳ diệu, chưa từng thấy trong giới tu thiền. Tất cả những sự tu tập của ngài Huệ Năng, khi chưa đến Chùa thì chỉ quy vào âm hưởng của bộ kinh Kim Cương khi ngài nghe người khác tụng. Khi đến Chùa gặp Ngũ Tổ và một cuộc vấn đáp đã được diễn ra giữa thầy dạy đạo và người học đạo. Vấn đáp là một phép dạy độc đáo của Thiền. Lối vấn đáp nầy đã được in đậm nét vào tất cả giai đoạn tiến triển của Thiền từ thời Ðức Bổn Sư Thích Ca cho đến những vị Tổ Sư sau nầy. Thiền là vô tâm, vô niệm, nên lối vấn đáp của Thiền lúc nào cũng hồn nhiên sống động như nước chảy mây bay, không chần chờ suy nghĩ. Vì không suy nghĩ nên cuộc đối thoại Thiền bất thần bừng lên từ nơi sâu thẳm của tâm linh. Cuộc ứng đối đó giống như hai tấm gương phản chiếu liên miên những ánh sánh cho nhau, tia sáng nào vừa nhận được là trả lại ngay, không giữ lại gì hết, nên gương lúc nào cũng trong, lòng gương lúc nào cũng không, để lúc nào cũng sẳn sàng nhận đâu trả đó, thích ứng với những diễn biến chung quanh.
Trong trường hợp vấn đáp của Ngũ Tổ và lục Tổ, thoạt tiên chúng ta thấy Ngũ Tổ giả vờ chê trách nguồn gốc người Lĩnh Nam: Người Lĩnh Nam không có Phật Tánh, làm sao cầu làm Phật được. Ngay tức khắc Huệ Năng liền trả đủa bằng một câu của con người chứng ngộ mới dám khẳng định: Người có Nam Bắc, nhưng Phật Tánh không có Nam Bắc, tuy thân mọi rợ nầy so với Hòa Thượng thì có khác, nhưng Phật tánh trong Hoà Thượng và trong con vẫn không có khác.
Mới nhìn qua chúng ta cứ ngở là Huệ Năng hổn láo đối với một Vị Hòa Thượng nổi tiếng như Ngũ Tỗ, nhưng kỳ thực đây là niềm tự tin và hãnh diện về sự chứng ngộ tâm linh của mình và không hề có một tự ty mặc cảm nào khi mới vừa gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Theo tiêu chuẩn nghi lễ, lễ phép ở Tông môn thì cách đối đáp của Huệ Năng quả thật là vô lễ. Ðiều nầy từ cổ chí kim, chúng ta chưa thấy một người học trò trẻ măng  mới đến chùa xin tu mà lại cả gan đối đáp như vậy. Ngôn ngữ nầy chỉ có Ngũ Tổ mới hiểu nổi con người giác ngộ của Huệ Năng, vì vậy mà sợ sự đố kỵ của mọi người, nên Tổ chỉ nhận Huệ Năng vào chùa như một người làm công quả.
Suốt thời gian sáu tháng làm công quả, âm hưởng của Kinh Kim Cang mà huệ Năng nghe được vẫn tiếp tục theo đuổi và đánh phá, chấn động vào tâm hồn trong trắng ấy, thêm vào đó là bầu không khí thiền nung nấu hằng ngày trong thiền viện, tuy nhiên những yếu tố nầy chỉ là nhân ban đầu để dẫn Huệ Năng đến đích của sự giác ngộ. Ðộng cơ chính thúc đẩy để đưa Huệ Năng giác ngộ là bài kệ Kiến Tánh của Giáo Thọ Thần Tú. Bài kệ nầy, đã gây một sức phản động quyết liệt trong nội tâm của Huệ Năng, vốn xưa nay chỉ có linh cảm mơ hồ. Tác dụng của bài kệ của Thần Tú làm hiện rõ tất cả những gì mà Huệ Năng còn hoang mang chưa biết mình đã biết gì. Ðó là đòn tâm lý trí mạng quật chết chú Tiểu Huệ Năng để sống lại thành Thiền Tổ Huệ Năng. Công ơn của Thần Tú đối với Huệ Năng không phải là nhỏ. Thật vậy nếu không có Thần Tú chắc khó có hoặc không có Huệ Năng. Nếu không có bài kệ của Thần Tú:
Thân là cội Bồ Ðề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi
Chớ để dính bụi bặm.
Thì không có bài kệ vô tướng của Huệ Năng:
Bồ Ðề vốn không cội
            Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính trần ai.
Chính nhờ bài kệ vô tướng nầy đã đem lại cho ngài Huệ Năng y bát, nhất là cái tâm ấn của Thiền Ðông Ðộ. Cho nên khai thị cho Huệ Năng, Ngũ Tổ đã có sẳn mảnh đất tâm cày bừa sẳn, và đã gieo giống Bồ Ðề rồi. Tổ chỉ cần mạnh tay vào then chốt đó , thế là Huệ Năng thình lình tỉnh ngộ. Có thể nói rằng: Suốt thời gian sáu tháng, ngoài việc làm công quả ra, còn thì Tổ chưa có lần dạy đạo cho Huệ Năng. Trong trường hợp nầy Tổ chỉ giữ một vai trò danh dự là ấn chứng để mà truyền y bát cho hợp thức hóa mà thôi, vì thế mà Ngũ Tổ mới lén lút kêu Huệ Năng đêm khuya vào gặp riêng Tổ để ngài truyền y bát và giảng cho một thời kinh Kim Cang lấy lệ sau đó Tổ đuổi khéo Huệ Năng trở về lại Lĩnh Nam Việt Nam
LỤC TỔ HUỆ NĂNG LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
Trước khi xát quyết ngài Huệ Năng là người Việt Nam chúng ta hãy thử tìm hiểu dòng dõi, quê quán..v..v..Theo tài liệu cho chúng ta biết:
Lục Tổ họ Lư, mẹ là Lý Thị, cha là Hành Thao. Ðời Võ Ðức (618-627T.L) nhà Ðường. Cha làm quan ở Phạm Dương, sau đó bị giáng chức và làm thường dân ở Tân Châu, Lĩnh Nam và sanh Tổ ở đây. Lúc Tổ mới ba tuổi cha mang bệnh rồi mất, mẹ thủ chí nuôi con. Vì gia cảnh mẹ góa con côi nên sau đó mới dời về ở Nam Hải. Tổ lớn lên trong một gia đình rất nghèo túng , do đó mà mỗi ngày Tổ phải vào rừng đốn củi đem ra chợ đổi gạo nuôi mẹ.
Một hôm, vào dịp gánh củi ra chợ bán , có người mua bảo gánh củi đến nhà. Tổ gánh ngang qua một căn nhà, bổng nghe người trong nhà tụng kinh, âm ba vang ra, Tổ nghe và chợt tỉnh ngộ liền hỏi khách:
- Kinh đang đọc đó là kinh gì, xuất phát từ đâu ông có biết không ?
Khách đáp:
- Ðó là kinh Kim Cang, Xuất phát từ Ngủ Tổ Hoằng Nhẫn ở Chùa Ðông Sơn, tại Huyện Huỳnh Mai.
Nghe nói xong Tổ tỏ ý muốn tìm đến đó học đạo, nhưng vì gia cảnh còn mẹ già không ai nuôi dưỡng. Người khách quen nghe nói như thế, ông xin đài thọ số tiền để Tổ cung cấp nuôi dưỡng mẹ già. Gặp cơ hội tốt, Tổ về xin phép mẹ xuất gia, mẹ Tổ nghe nói rất lấy
hoan hỷ bằng lòng cho xuất gia.
Tổ khăn gói lên đường, trãi qua hơn một tháng mới đến huyện Huỳnh Mai và đắt Pháp tại đây.
Như tất cả mọi người ai cũng nói và đã biết là tất cả các sách, kinh lưu truyền đều nói Lục Tổ là người Trung Hoa, Tuy nhiên theo sự nhận xét và phân tích mới đây cho thấy rằng Lục Tổ Huệ Năng không phải là người Trung Hoa mà là người Việt Nam. Sự phân tích đó dựa trên những lý do chính như sau:
1- Vào đời nhà Ðường đặt nền móng đô hộ, lúc bấy giờ Việt Nam, là An Nam Ðô Hộ Phủ.
2- Tất cả những địa danh như: Tân Châu, Lĩnh Nam, Quảng Ðông, Quảng Tây, và Nam Hải đều là những phần đất của Việt Nam.
3- Việc sử dụng ngôn ngữ của Lục Tổ.
Theo như ở trong kinh Pháp Bảo Ðàn chứng minh cho chúng ta thấy Lục Tổ Huệ Năng nói Trung Hoa không rành như trong kinh có đoạn:
Vào lúc canh ba, Huệ Năng lãnh được y bát rồi thì mới hỏi: Năng này gốc gác người Lãnh Nam vốn không biết đi vùng núi nầy, làm thế nào mà ra vàm sông ?
            Ngủ Tổ đáp:
            - Con không cần lo, tự ta sẽ đưa con đi.    
            Tổ đưa Huệ Năng tới trạm cửu giang, rồi bảo Huệ Năng lên thuyền, ngài cầm chèo định chèo, nhưng Huệ Năng nói:
- Xin Hòa Thượng ngồi, hãy để đệ tử chèo mới phải.
         Ngủ Tổ nói:
- Ðáng lẽ ta độ cho ngươi
         Huệ Năng trả lời:
            - Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi thì tự mình độ lấy. Chữ Ðộ tuy có một mà chỗ dùng không giống nhau. Huệ Năng này sinh ở chốn biên thuỳ xa xôi, thành ra tiếng nói không được đúng. Nhờ thầy truyền pháp rồi nay đã được đắt ngộ rồi thì chỉ tự mình độ lấy mình thôi.
            Chúng ta nhận thấy, những lời ghi chép trên: Chữ Ðộ có nghĩa là đưa mà cũng có nghĩa là cứu độ. Khi Huệ Năng trả lời: Lúc mê thì Tổ Sư độ, ngộ rồi thì tự mình độ lấy. Huệ Năng này sanh ra tại nơi vùng biên giới, tiếng nói không rành và giọng nói không đúng, nhờ Tổ Sư truyền Pháp nay đã được sáng tỏ thì chỉ nên mình tự độ lấy mình. Ðoạn nầy mới nghe làm cho người ta có cảm tưởng giống như Ngài Huệ Năng chơi chữ với Ngũ Tổ, nhưng thật sự thì không phải như vậy. Chúng ta phải thấy, đây là giờ phút quan trọng, và ngôn ngữ được sử dụng trong lúc nầy là ngôn ngữ bí mật của hai Thiền Sư. Ngài Huệ Năng đã hiểu trọn vẹn thâm ý của Ngủ Tổ: Thầy muốn đưa con trở về Lĩnh Nam để cứu thoát con khỏi bị lâm nạn tại nơi nầy, vì con là người ngoại quốc, sống nơi biên địa xa xôi, đã vậy tiếng nói lại không rành. Nay lại lên ngôi vị Tổ Sư, nhưng thầy phải đưa con đi vì thầy muốn cứu thoát con, dù con ngôn ngữ nói không rành nhưng con cũng hiểu được ý của Thầy, nên khi Thầy muốn đưa con đi và đồng thời muốn cứu thoát con(độ con), con đã hiểu ý thầy rồi thì con phải tự cứu lấy mình mà trở về Lĩnh Nam.
            Tất cả những mật ý nói trên chỉ muốn nói lên một điều duy nhất là: Huệ Năng hiểu lý do tại sao Ngũ Tổ phải bảo Huệ Năng về lại Lĩnh Nam, vì rất nguy hiểm cho tính mệnh của người thanh niên trẻ tuổi, một con người được coi như là mọi rợ mà lại được trao truyền ngôi vị Tổ Sư thống lãnh tất cả môn đồ của Ðông Sơn Pháp Môn.
            Ở điểm nầy chúng ta có thể hiểu chắc chắn rằng: Nếu vì một lý do nào đó mà không đến trường để học nên không thể đọc được chữ thì đó cũng là việc thường, nhưng là người Trung Hoa thì ít ra phải nói được tiếng Trung hoa, nhưng theo những dữ kiện trong Pháp Bảo Ðàn Kinh cho chúng ta thấy Lục Tổ Huệ Năng không nói không nói rành tiếng Trung Hoa, từ những dữ kiện nầy cho ta có kết luận rằng: Lục Tổ Huệ Năng quả thật không phải là người Trung Hoa.
Sau mười sáu năm ở ẩn, khi xuất hiện thuyết pháp, Lục Tổ Huệ Năng hoằng pháp tại những nơi như: Quảng Ðông, Quảng Châu, và Nam Hải tức Phiên Ngung là kinh đô của nước Nam Việt dưới triều đại của Vũ Vương tức là Triệu Ðà. Như có lần chúng ta biết, Lục Tổ sinh trưởng tại Lĩnh Nam, mà Lĩnh Nam là phần đất của Việt Nam. Từ những chứng tích này chúng ta có thể kết luận rằng Lục Tổ Huệ Năng là người Việt Nam.       
            Quả thật ngài Huệ Năng là người Việt Nam thì chúng ta hãy thâm tạ những người đã có công trong việc trợ duyên cho ngài Huệ Năng đắc đạo, để mở rộng dòng Thiền Ðông Ðộ. Những người đó là:
1- Người khách hàng mua củi đã phát tâm tài trợ khoảng tiền để chu cấp cho thân mẫu của Lục Tổ.
2- Giáo Thọ Thần Tú, vì nếu không có bài kệ của Thần Tú thì không có bài kệ vô tướng của Huệ Năng.
3- Ngũ Tổ đã can đảm truyền trao y bát cho một thanh niên ngoại quốc, với số tuổi còn quá trẻ đã vậy ngôn ngữ lại không biết gì hết làm người chân truyền cho Ðông Sơn Pháp Môn.
           
            Tài Liệu Tham Khảo:
- Tổ Thiền Tôn
- Bồ Ðề Ðạt Ma
- Pháp Bảo Ðàn
- Lĩnh Nam Chích Quái
-- o0o --