-
Ý Nghĩa Ðản Sanh
-
Nhất Quán
-
--o0o--
-
-
Sự xuất hiện của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni trong cõi Ta Bà nầy
là một phước đức lớn lao cho nhân loại. Ngài là hiện thân của
Từ Bi, Trí Tuệ, và ánh sáng của chân lý. Như trong kinh Ðại
Thừa Diệu Pháp Liên Hoa có nói: Ngài ra đời vì mục đích trọng
đại là Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến. Chúng ta là
môn đệ của ngài, cho nên dù muốn dù không cũng cần phải biết
một vài nét lịch sử sơ lược về cuộc đời của ngài.
-
Ðứng về phương diện bản thể mà xét thì Ðạo Phật có từ vô thỉ.
Nói là vô thỉ vì nó không có đầu mối. Cũng không giới hạn ở
trong thời gian, bởi vì Ðạo Phật là bản tánh sáng suốt của
chúng sanh, nên có chúng sanh là có Ðạo Phật, mà chúng sanh có
từ vô thỉ thì Ðạo Phật cũng có từ vô thỉ. Tất cả các Ðức Phật
nói chung và Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nói riêng, trước
khi thành đạo các ngài cũng như tất cả các chúng sanh khác
trong tam thiên đại thiên thế giới. Trong lúc tu nhân để trở
thành những vị bồ tát và cuối cùng là Bổ Xứ Bồ Tát trước khi
giáng trần thì theo trong Nhân Duyên Ðàm Phật truyện được chia
ra làm ba thời kỳ:
-
Thời Kỳ Viễn kỳ: Là thời kỳ kinh lịch của Phật từ A Tăng kỳ
trăm nghìn kiếp về trước cho đến khi thành nhất sanh bổ xứ ở
trên Cung Trời Ðâu Suất.
-
Thời Kỳ Trung Kỳ: Là kể lại từ Cung Trời Ðâu Suất giáng sinh
làm Thái Tử Tất Ðạt Ða, rồi xuất gia và thành đạo.
-
Thời Kỳ Cận Kỳ: Là thời kỳ từ khi thành đạo bắt đầu thuyết
pháp cho đến khi nhận Kỳ Viên Tịnh Xá.
-
Như trên là ba thời kỳ từ khi tu nhân cho đến ngày giáng trần
của chư Phật, tuy nhiên theo học giả Kimura Taiken thì ông
chia ra làm hai thời kỳ đó là: Thời gian tu nhân của Bồ Tát ở
quá khứ và từ Ðản Sanh đến Nhập Niết Bàn.
-
A- Phương Diện Tôn Giáo Học: Thời Quá Khứ Bồ Tát Tu Nhân
-
Vào thời Ðức Phật Nhiên Ðăng cách đây bốn A Tăng Kỳ và trăm
nghìn kiếp về trước, có một cư sĩ tên là Thiện Tuệ vì nhận
thấy đời là vô thường nên xuất gia tu đạo trong núi tuyết và
có ý định nhập diệt tại đó. Nhưng khi gặp Phật Nhiên Ðăng xuất
hiện thuyết pháp cho nghe thì Thiện Tuệ bỏ đi ý định nhập Niết
Bàn, trái lại còn phát tâm độ hết thảy tất cả chúng sanh và
quyết tu cho đến khi thành Phật. Thiện Tuệ một mực thờ Phật
Nhiên Ðăng, và cuối cùng được Phật thọ ký trải qua bốn A Tăng
Kỳ trăm ngàn kiếp sau được thành Phật hiệu là Thích Ca. Ðó là
khởi đầu cho các kiếp làm Bồ Tát ở quá khứ. Bồ Tát có nghĩa là
người tìm cầu trí tuệ, điều kiện chủ yếu của Bồ Tát hạnh là
quên mình, vì người, nghĩa là lấy việc trên cầu Bồ Ðề, dưới độ
chúng sanh làm căn bản tu hành. Sau khi được thọ ký, Bồ Tát
trải qua nhiều đời nhiều kiếp sinh vào các loài hữu tình để
hoàn thành những hạnh nguyện của mình, cho nên có khi Bồ Tát
làm Chuyển Luân Thánh Vương, có khi làm Ngư Phụ, có khi mang
thân phàm phu nhiều phiền não, cũng có khi sinh làm Vượn, Khỉ,
Giả Can, loài Thỏ..v..v..tất cả những hình tướng đó rốt cuộc
cũng chỉ để hoàn thành tâm nguyện trên cầu Phật Ðạo, dưới hoá
độ chúng sanh. Trong tất cả các cảnh giới và các loại thân
hình, Bồ Tát tuy nổ lực hành trì, nhưng pháp tướng để các ngài
dùng làm căn bản tu tập vẫn là mười Ba La Mật:
-
01- Bố Thí Ba La Mật
-
02- Giới Ba La Mật
-
03- Xuất Ly Ba La Mật
-
04- Trí Huệ Ba La Mật
-
05- Tinh Tấn Ba La Mật
-
06- Nhẫn Nhục Ba La Mật
-
07- Chân Thật Ba La Mật
-
08- Quyết Ðịnh Ba La Mật
-
09- Từ Bi Ba La Mật
-
10- Xả Ba La Mật
-
Trong khoảng thời gian bốn A Tăng Kỳ trăm ngàn kiếp ấy Bồ tát
đã được gặp và cúng dường vô số Phật, nhưng mối quan hệ đặc
biệt thâm thiết thì chỉ có hai mươi bốn đức Phật:
-
01- Nhiên Ðăng Phật
-
02- Kiều Trần Như Phật
-
03- Cát Tường Phật
-
04- Thiện Ý Tu Ma Da Phật
-
05- Ly Bà Ða Phật
-
06- Du Tỳ Ða Phật
-
07- Anomadass Phật
-
08- Hồng Liên Hoa Phật
-
09- Na La Ðà Phật
-
10- Thượng Liên Hoa Phật
-
11- Thiện Tuệ Phật
-
12- Thiện Sinh Phật
-
13- Piyadassi Phật
-
14- Atthadassi Phật
-
15- Dhammadassi Phật
-
16- Tất Ðạt Ða Phật
-
17- Ðể Sa Phật
-
18- Bổ Sa Phật
-
19- Tỳ Bà Thi Phật
-
20- Thi Khí Phật
-
21- Tỳ Xá Bà Phật
-
22- Câu Lưu Tôn Phật
-
23- Câu Na Hàm Mâu Ni Phật.
-
24-
Ca Diếp Phật
-
Như vậy những kiếp làm Bồ Tát, Phật Thích Ca đã
được gặp rất nhiều Phật, mà mỗi lần gặp một vị Phật nào đều hy
sinh bản thân để cúng dường Phật đó, đồng thời cũng nhận chịu
sự giáo hóa của vị đó. Trên con đường tu Bồ tát hạnh Ðức phật
Thích Ca đã lấy sự phát tâm từ thời đại Thiện Tuệ làm khởi
điểm để rồi hiện thân nơi Liên Hoa Ðài Tạng, rồi qua phương
Ðông tại cung trời Thiên Vương diễn nói kinh Ma Thọ Hóa trong
suốt thời gian dài như vậy cũng chỉ cốt để hoàn thành các Ba
La mật, và cuối cùng an trú nơi Cung Trời Ðâu Suất, sau đó
giáng trần độ sanh.
-
B-
Về Phương Diện Lịch Sử:
-
a- Niên Ðại Ðản Sanh:
-
Bồ Tát ở tại Cung Trời Ðâu Suất được mấy nghìn tuổi thì thời
gian thành Phật đã đến. Lúc đó, trên thiên cung các thiên sứ
tuyên ngôn về sự xuất hiện của Phật: Từ đây đến một ngàn năm
sau ở cõi Ta Bà sẽ có một vị Phật ra đời. Nghe xong chư thiên
tụ họp lại để thỉnh cầu Bồ Tát sớm thành Phật. Lúc đó Bồ Tát
liền dự liệu về thời gian giáng sinh, châu, quốc độ, chủng tộc
và thân mẫu. Sau cùng ngài đã quyết định thác thai vào hoàng
hậu Ma Da, vương phi của vua Tịnh Phạn, thuộc cõi Diêm Phù Ðề.
Ðể thích ứng với điều đó, hoàng hậu Ma Da đã thấy một giấc
mộng đẹp. Vào một buổi cuối mùa hạ, sau khi hoàng hậu bố thí
cho mọi người, lúc lui về yên nghỉ, thì thấy bốn vị thiên thần
đến khiêng giường hoàng hậu đi về phía núi tuyết, đặt dưới gốc
cây Sa La rồi mời hoàng hậu vào tắm trong ao nước tám công
đức. Lúc đó một con voi trắng, nơi vòi có quấn một bông sen
trắng đến lạy hoàng hậu rồi theo đường hông bên hửu mà vào
thai tạng. Hoàng hậu khi tỉnh giấc liền đem chuyện chiêm bao
thuật lại cho nhà vua, nhà vua liền cho triệu thầy tướng vào
cung để hỏi giấc mộng kỳ lạ đó. Thầy tướng cho đây là điềm
mang thai, và người con sau nầy nếu đi tu sẽ là một bậc Ðại
Giác, còn nếu ở tại thế gian thì sẽ là một vị Chuyển Luân
Thánh Vương. Khi đủ ngày tháng, theo tục lệ của người Ấn Ðộ,
hoàng hậu phải về nhà cha mẹ tại thành Thiên Chỉ để sanh,
nhưng mới đi được nửa đường đến vườn Lâm Tỳ Ni thì sinh Thái
Tử bên gốc cây Hoa Vô Ưu.
-
Về niên đại Ðản Sanh của Ðức Thích Ca Mâu Ni có nhiều thuyết
nói khác nhau, như nói ngài sanh và năm 1023 TCN, 685 TCN, 624
TCN, 623 TCN, 566 TCN, 561 TCN, 559 TCN, 557 TCN. Tuy nhiên
theo Phật Giáo Việt Nam từ khởi thỉ cho đến ngày nay vẫn
thường kỷ niệm vào những ngày lễ như:
-
Ngày 08 tháng 4 đức Phật đản sanh
-
Ngày 08 tháng 02 - - xuất gia
-
Ngày 08 tháng 12 - - thành đạo
-
Ngày 15 tháng 02 - - niết bàn.
-
Theo phổ thông hiện nay, thì ngày đức Phật Ðản Sanh là ngày 15
tháng 04 âm lịch năm 623 TCN. Như vậy tính đến năm 1997 ngày
Phật Ðản Sanh là 2621 năm. Năm 1952 trong Ðại Hội Nghị Phật
Giáo Thế Giới kỳ II tại Tokyo kinh đô của Nhật Bản đã quyết
định lấy năm đức Phật nhập Niết Bàn làm ngày kỷ niệm Phật Lịch
thống nhất cho toàn thế giới, và như vậy tính cho đến năm 1997
mùa Phật Ðản năm nầy là Phật Lịch lần thứ 2541.
-
b- Nơi Ðản Sanh Của Thái Tử:
-
Như chúng ta biết trước đức Phật xuất thế, văn hoá Ấn Ðộ cũng
đã phát triển đến mức khá cao nhưng tất cả đều dựa trên căn
bản tư tưởng của Bà La Môn giáo. Từ khi Ðức Phật xuất thế, thế
lực của Bà La Môn lần sút kém và được thay thế vào đó bằng tư
tưởng Phật Ðà. Chính vì sự mất địa vị, cho nên người Bà La Môn
giáo lúc nào cũng nuôi ý chí khôi phục lại quyền lực của họ.
Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, nhân sự phân hóa trong tổ chức
của Phật đệ tử, nên người Bà La Môn trà trộn vào hàng ngũ tăng
chúng để hoạt động bằng cách trá hình làm tăng sĩ để tạo những
điều nghi kỵ phân tán trong tăng chúng. Vua A Dục là một đệ tử
thuần thành của Ðức Phật thấy thế ông rất lo ngại cho tiền đồ
đạo pháp, nên ông quyết ý muốn minh xét lại giáo nghĩa của đức
Thế Tôn. Nhà vua cho sứ giả đến núi Ahoganga cung thỉnh ngài
Mục Kiền Liên Ðế Tu về triều và tuyển chọn 1000 cao tăng để
kết tập kinh điển tại thành Hoa Thị. Hội nghị nầy được đặt
dưới quyền chủ tọa của ngài Mục Kiền Liên Ðế Tu. Ðại hội làm
việc 9 tháng thì hoàn thành. Nội dung kết tập kỳ nầy là Kinh,
Luật, và Luận Tạng. Trong dịp nầy nhà vua cũng đã loại bớt một
số người Bà La Môn đội lốt Phật Giáo để gây sự phân hóa trong
hàng thánh chúng, đồng thời nhà vua cũng cho dựng những trụ đá
để lưu niệm tại nơi Ðản Sanh của đức Từ Phụ nói riêng và nói
chung là nơi nào có dấu chân của đức từ phụ là nơi đó ông cho
dựng bia đá để kỷ niệm. Riêng về nơi đức Phật Ðản Sanh, khi
dựng trụ đá xong nhà Vua ra lệnh cho một phần tám dân số đến
cư ngụ quanh vùng để bảo vệ di tích.
-
Ðến thế kỷ thứ 13 tức là vào khoảng năm 1203 quân Hồi Giáo do
tưóng Iktiyar Uddin chỉ huy, đem đại quân đánh chiếm và tiêu
diệt vương triều Sena rồi làm bá chủ cõi Trung Ấn. Về sau thế
lực quân Hồi bành trướng khắp các nơi, đi đến đâu họ tiêu diệt
đến đó, nếu nơi đó không phải là Hồi Giáo. Phật Giáo và Ấn Ðộ
giáo đều bị thảm họa chung trong lúc đạo quân Hồi Giáo xâm
lăng, nhưng riêng về Phật Giáo quân đội Hồi Giáo lại tàn bạo
hơn. Họ phá hủy chùa tháp, thánh tích, thiêu đốt kinh điển,
tịch thu bảo vật, hãm hại tăng ni, làm cho Phật Giáo ở Ấn Ðộ
lúc bấy giờ gần như không còn gì nữa. Có thể nói Phật Giáo Ấn
Ðộ chỉ thấy được cái huy hoàng của 15 thế kỷ đầu, nhưng từ 15
thế kỷ trở về sau Phật Giáo Ấn lu mờ dần. Mãi cho đến khi
người Anh cai trị, lớp tri thức Anh bắt đầu tìm hiểu đời sống,
phong tục tập quán, văn hoá Ấn, họ rất ngạc nhiên khi thấy nền
triết học thâm thúy của Phật Giáo đã bị chôn vùi trong quên
lãng, trong khi đó dân tộc Ấn không mảy may lưu tâm tới. Chính
lúc người Anh bắt đầu thiết lập những công trình khảo cứu, sưu
tầm những di tích, thánh tích lịch sử Phật thì cũng là lúc
giới tri thức của Ấn cũng bắt đầu thức tỉnh, từ đấy họ hô hào,
phát động những phong trào chấn hưng Phật Giáo.
-
Trong công cuộc sưu tầm những di tích của Phật Giáo Ấn Ðộ,
trong năm 1897 bác sĩ Fuhrer đã đào được một trụ đá do vua A
Dục dựng tại vườn Lâm Tỳ Ni nơi đức Phật Ðản Sanh, trên trụ
đá đó có ghi năm dòng chữ:
-
Người yêu quý của vua
-
Vua A Dục thứ 20 đã đến đây
-
Chính ta thân hành đến đây, để chiêm bái nơi giáng trần của
Thái Tử Sakya.
-
Ta ra lệnh làm trụ đá nầy
-
Ðể bảo vệ thánh địa nơi Ðức Thế Tôn đã sanh tại Lâm Tỳ Ni.
-
Những ngày gần đây, một thành công khác trong việc sưu tầm
cũng được công bố. Vào ngày 6 thánh 2 năm 1996 tờ báo Seattle
Post Intelligencer có đăng tải một bài viết ngắn về bản công
bố của chính phủ Nepal đề ngày 5 tháng 2 năm 1996. Trong bản
công bố đó họ cho biết: Hơn 200 nhân công của 6 phái đoàn khảo
cổ của sáu quốc gia Nhật, Nepal, Ấn Ðộ, Hồi, Tích Lan và
Bangladesh đã đào trên hai năm trời, cuối cùng họ tìm thấy di
tích 15 căn phòng, nơi Thái Tử Tất Ðạt Ða đản sanh, diện tích
rộng hơn 3 dặm vuông, trong đó có cả hồ nước nhỏ mà người ta
nghĩ rằng hoàng hậu Ma Da đã tắm ở đó trước khi hạ sanh Thái
Tử đã bị chìm trong lòng đất dưới một ngôi chùa xưa hơn 2000
năm trong khu vườn Lâm Tỳ Ni. Khu vườn Lâm Tỳ Ni nầy nằm gần
vùng biên giới của hai quốc gia Ấn Ðộ và Nepal và cách thủ đô
Nepal 145 dặm về hướng tây.
-
Những thành quả trong công cuộc tìm kiếm nầy có được là nhờ
vua A Dục, là vị vua Ấn Ðộ trước khi gặp Phật đã là tín đồ của
Ấn Ðộ Giáo, nhưng khi gặp Ðức Phật ông quy y Tam Bảo và trở
thành một Phật Tử thuần thành như nói ở trên đã làm thạch trụ,
cho mọi người biết vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, Thái Tử
Tất Ðạt Ða đã từ bỏ thế giới vật chất để trở thành một du tăng
hành khất và ngài đã trở thành đấng Giác Ngộ. Những bia ký mặt
thạch trụ nằm trên những căn phòng mới đào nầy đã ghi rõ đấng
Giác Ngộ đã sinh ở đây. Theo ông Babu Krishna Rijal là một
trong hai nhà khảo cổ gốc Nepal nói rằng sự khám phá những di
tích nầy đã xác nhận những điều mà sách vở bia ký đã nói từ
trước về Thái Tử Tất Ðạt Ða là sự thật có trong lịch sử chớ
không mơ hồ hoang tưởng.
-
C- Giáo Lý Của Ðức Phật & Cuộc Sống Hiện Thực: Niết Bàn
-
Sau khi từ bỏ cuộc sống thế tục, Thái Tử Tất Ðạt Ða xuất gia
tu học và ngài trở thành bậc chánh giác. Lúc ngài 80 tuổi, khi
chí nguyện độ sanh đã thành tựu. Một hôm, ngài cho triệu tập
các đệ tử từ khắp bốn phương lại và ngài di chúc những lời tối
hậu: Này các con, hãy tôn kính thanh tịnh giới, tịnh giới còn,
đạo ta còn. Những kinh luật ta đã dạy từ khi ta thành đạo đến
giờ sẽ là nơi nương tựa che chở cho các con. Những giáo pháp
của ta có những lợi ích như vậy, cho nên các con hãy cố gắng
học và làm theo. Cho dù các con ở trong núi rừng thâm sơn cùng
cốc, nơi những bờ sông bùn lầy nước đọng, hoặc bất cứ nơi nào
cũng vậy, các con hãy tưởng nhớ đến giáo pháp của ta, đừng sao
nhãng vì một đời luống qua không làm gì...để rồi tự kết liễu
trong ân hận hối tiếc. Các con hãy vì lòng từ bi rộng lớn mà
đi gieo rắc hạnh phúc cho đời, đừng đi trùng nhau trên một ngã
đường. Các con hãy truyền đạo mầu nhiệm cho đời hiểu thế nào
là cuộc sống cao cả trong sạch hoàn toàn và gương mẫu.
-
Những lời vàng ngọc của Ðức Phật dạy làm rung động đến tận tâm
thức của những đệ tử của ngài. Có thể nói trên đường đi do Ðức
Phật chỉ đạo, mỗi bước đi là mỗi bước đi đến gần ánh sáng của
chân lý. Những lời dạy giản dị nhưng cao cả, ít nhưng hàm chứa
một sức sống vô biên, vậy mà có người cũng cho rằng đạo Phật
quá cao siêu huyền bí, không thể thực hành bởi những người
thông thường trong cuộc sống hằng ngày. Theo quan niệm nầy
nói, những ai muốn trở thành những phật tử chân chánh thì phải
từ bỏ thế giới nầy để rút lui vào một tu viện hay một nơi nào
đó yên tĩnh để sống cuộc sống xa cách mọi người, tách rời xã
hội mới là cuộc sống thánh thiện. Quả thật cũng có thể đúng
nhưng không hoàn toàn. Chúng tôi nói không hoàn toàn bởi vì
đối với một số người có thể là lối sống thanh thoát khi họ
sống ẩn dật trong một nơi yên tĩnh, xa hẳn ồn ào phức tạp, như
vậy cũng là điều đáng ca ngợi hơn những ai thực hành Phật Giáo
mà vẫn sống giữa phồn hoa đô hội. Có lẽ trong trường hợp đó sẽ
có ích cho những người dùng cuộc sống ẩn dật để trau dồi tâm ý
và tính tình như một sự trau dồi về đạo đức, tâm linh để về
sau có đủ khả năng phục vụ nhân sinh. Nhưng nếu con người sống
suốt đời trong cô độc chỉ nghĩ đến hạnh phúc riêng mình, không
lo nghĩ đến đồng loại, thì điều nầy chắc chắn không phù hợp
với giáo lý Ðức Phật. Bởi vì giáo lý của Ðức Phật vốn căn bản
trên tình thần từ bi, và sự giúp đở người khác. Nhưng cũng có
người thấy rằng sự xa lánh đó làm cho họ chán ngán buồn phiền
cả thể xác lẫn tinh thần và như vậy sẽ không giúp ích gì cho
đời sống tri thức và tâm linh của họ. Theo như ngài Xá Lợi
Phất, một trong số các đại đệ tử của Ðức Phật thì sự ẩn dật
chân chính không có nghĩa là thân xác phải xa lánh thế gian,
vì vậy ngài dạy: Một người có thể sống trong rừng miệt mài với
những luyện tập khổ hạnh, nhưng không kiểm soát tư tưởng, để
cho tâm tư đầy dẫy những xấu xa bất tịnh, thì còn tệ hại hơn
là những người sống trong làng mạc hay thành thị, không thực
hành kỷ luật ép xác nào, nhưng người ấy có thể kiểm soát được
tư tưởng, tâm người ấy trong sạch không cấu bẩn. Quan niệm rút
lui khỏi thế giới hiện thực nầy rất sai lạc do sự thiếu hiểu
biết về giáo lý của Ðức Phật. Từ sự thiếu hiểu biết, người ta
thường đi đến một kết luận sai lầm và vội vã, sau khi tình cờ
nghe hay đọc một cái gì đó về Phật Giáo do những tác giả hoặc
số người nào đó, vì đã không hiểu thấu vấn đề trong mọi khía
cạnh, hoặc cố tình bóp méo sự thật, để đưa ra những quan niệm
thiên lệch về Phật Giáo. Xin xác định, giáo lý của đức phật
không phải chỉ dành cho những tăng lữ trong chùa, trong viện
mà là cho tất cả những nam nữ Phật Tử cư sĩ sống ở thế gian,
trong gia đình họ. Năm giới cấm, Bát Chánh Ðạo..v..v.. một lối
sống theo Phật là để cho tất cả, không phân biệt màu da chủng
tộc, già trẻ, giàu nghèo. Như chúng ta biết, trên thế gian nầy
chỉ có một số nào đó có đầy đủ nhân duyên từ bỏ cuộc sống gia
đình xuất gia học đạo, còn đại đa số mọi người trên thế giới
không thể đi tu hoặc sống ẩn dật trong hang động núi rừng. Ðạo
Phật dù cao cả thuần khiết đến đâu cũng sẽ trở thành vô dụng
đối với nhân loại nếu họ không thể áp dụng được trong đời sống
hằng ngày. Hiểu đạo Phật là nguồn giáo lý nhân bản chân chính,
đồng thời chúng ta cố gắng thực hành nó trong đời sống hằng
ngày của một người thế tục hoặc trong các tự viện của những vị
xuất thế, tùy theo điều kiện sẳn có của mình, thì chắc chắn sẽ
mang lại nhiều an lạc. Như trong các kinh điển của Phật
có vô số những chỗ nói đến những người có đủ duyên tu hạnh
xuất thế đạt thành đạo quả. Cũng có chư thiện nam, tín nữ sống
đời sống gia đình bình thường mà vẫn thực hành được giáo pháp
của Phật một các rất tích cực. Hiệu quả là gia đình hạnh phúc,
anh em hoà thuận, chồng vợ thương yêu...như một phật tử tên
Sigàla khi cha hấp hối có căn dặn là phải lạy sáu phương. Anh
không biết gì và vì sao phải lạy sáu phương, nhưng theo lời di
chúc của cha anh cứ lạy. Một hôm anh gặp Ðức Phật và ngài mới
dạy cho anh rõ:
-
Lạy phuơng Ðông là lạy cha mẹ
-
Lạy phương Tây là lạy vợ con
-
Lạy phương Nam là lạy thầy bạn
-
Lạy phương Bắc là lạy quyến thuộc, láng giềng
-
Lạy phương Dưới là lạy tôi tớ, người làm công, thợ thuyền
-
Lạy phương Trên là lạy thầy dạy đạo.
-
Sở dĩ có được phước lợi như vậy mà chính Sigàla không biết là
vì anh không hiểu ý nghĩa. Phải biết, mọi người chúng ta chỉ
lễ bái những cái gì thiêng liêng, đáng sùng kính tôn trọng,
chứ không phải vì mê tín thần quyền nhảm nhí. Một trong những
khía cạnh nhỏ như vậy cũng đủ chỉ cho chúng ta thấy được đời
sống trong thế gian, với những liên hệ gia đình, xã hội, tất
cả đều được bao gồm trong kỷ luật cao cả, và đều nằm trong
khung theo lối sống của phật giáo như Ðức Phật đã quan niệm.
-
Kết Luận:
-
Nhìn chung chúng ta thấy đạo Phật là con đường sống, và điều
cốt yếu là mọi người phải thật hành Bát Chánh Ðạo. Trong
truyền thống Phật Giáo có những lễ tục rất đẹp và đơn giản như
những ngày Ðức Phật Ðản Sanh, và tất cả những ngày lễ khác,
chư Phật Tử thường về chùa lễ Phật, nơi khuôn viên lễ đài
những bảo tháp có tượng Phật...Tất cả ở những nơi đó thường có
Phật Tử lễ bái, dâng hoa thắp đèn, và đốt hương. Ðiều nầy
không nên xem tương tự với sự cầu nguyện trong các tôn giáo
hữu thần. Mà phải coi đây là cách chiêm ngưỡng, tưởng nhớ lại
vị đạo sư đã chỉ con đường chân chánh giác ngộ giải thoát cho
nhân loại. Những sự lễ bái cổ truyền nầy, có đôi khi không cần
thiết, nhưng vẫn có một giá trị ở chỗ thỏa mãn những cảm xúc
và nhu cầu tôn giáo nơi những ai mới phát tâm vào con đường
chân chánh về phương diện tinh thần và tâm linh, từ đó mới có
thể giúp họ bước chân theo chánh đạo.
-
-
Tài Liệu Tham khảo:
-
-
Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận
-
-
Phật Học Tinh Hoa
-
-
Lươc Luận Câu Xá Luận
-
-
Con Ðường Thoát Khổ
-
-
Ðại Thừa Diệu pháp Liên Hoa Kinh
|