-
Vì Sao Phật Giáo
-
Suy Tàn Tại Ấn Ðộ II
-
By D.C. Ahir
-
Dịch Giả: Trần Ðức Phi Bằng
-
--o0o--
-
-
-
Vì có nhiều người thắc mắc việc Ðạo Phật biến mất trên đất Ấn
Ðộ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng
tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Ðộ, cũng là
một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Ðộ Giáo, dưới quan điểm
của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
-
-
***
-
-
SỰ NGƯỢC ĐÃI
-
Một trong những nguyên nhân chính làm cho Phật Giáo suy
tàn và sụp đỗ nhanh chóng ở Ấn Ðộ là sự đàn áp của những
nhà cầm quyền cũng như những người cuồng tín.
-
Bố Sa Mật Ða La(Pushyamitra), một tướng lãnh
Bà La Môn dưới triều Brihadratha, vua cuối cùng của
vương triều Khổng Tước(Maurya), là người đầu tiên ngược
đãi Phật Giáo. Ông ám sát nhà vua vào năm 185 trước tây
lịch; soán lấy ngôi vua nước Ma Kiệt Ðà (Magadha), cai
trị bằng sự khủng bố. Một ông vua Ấn Ðộ Giáo khác đàn áp
Phật Giáo là Sasanka, vua nước Gauda (Bengal), hành động
phản bội đầu tiên của ông là giết Rajyavardhana vào năm
605 sau tây lịch, anh của Harsha, vị hoàng đế Phật Giáo
cuối cùng. Sasanka là một người thuộc giai cấp Bà La Môn
và tín ngưỡng thần Shiva. Ông cuồng tín đến nổi trong
cơn giận dữ ông đã phá hủy cây Bồ Ðề. Ngài Huyền Trang
ghé Bồ Ðề Ðạo Tràng vào năm 637 sau tây lịch, vào khoảng
ba thế hệ sau biến cố trên, ghi lại như sau:
-
- Trong thời gian sau Sasanka-raja, một tín đồ dị giáo,
phỉ báng Ðạo Phật, và vì ganh ghét đã phá hủy những tu
viện và chặt cây Bồ Ðề, đào đến tận mạch nước dưới đất,
nhưng ông không thể đào đến chổ rể tận cùng của nó. Sau
đó ông dùng lửa đốt và tưới nước mía lên, với ý muốn
tiêu diệt nó hoàn toàn, và không để lại một vết tích nào
về sau. Ông cũng đã dời tượng Phật từ ngôi chùa gần cây
Bồ Ðề và thay vào bằng thần Shiva. Ông cũng đã liệng vào
sông Hằng tảng đá thiêng liêng có dấu bàn chân của Ðức
Phật ở thành Hoa Thị (Pataliputra). Và để làm tròn những
kế hoạch tội lỗi của ông, Sasanka được cho biết là đã
tiêu diệt tăng sĩ trong khu vực Câu Thi La (Kushinagar).
-
Một trong những người đàn áp Phật Giáo lớn
lao nhất là thủ lãnh Hung Nô, Mihirakula, đã làm thiệt
hại lớn lao cho những chùa Phật Giáo ở Gandhara, Punjab,
và Kashmir. Mihirakula là một người thờ Shiva và là một
nhà bảo hộ lớn cho Bà La Môn giáo. Trong cơn điên rồ của
ông, ông đã san bằng 1,600 tu viện, tháp, và chùa, và
giết hại hằng trăm tín đồ Phật Giáo tại gia. Toramana,
một ông vua cũng của vương triều tàn bạo đó, được cho
biết là đã tiêu hủy chùa Ghostarama ở Kiều Thưởng Di
(Kausambi).
-
Về việc đàn áp Phật Giáo ở Kashmir, F.M.
Hussnain viết:
-
- Chính Nara, người đã khởi sự tiến hành việc tiêu diệt
Phật Giáo ở Kashmir. Ông cho thiêu hủy những tu viện
Phật Giáo ở Kashmir và trừ diệt quần chúng Phật tử bằng
cách tịch thu đất đai của họ để ban cho những người Bà
La Môn. Những gì xảy ra ở Kashmir là một phần trong cùng
tiến trình tiêu diệt Phật Giáo trong nước. Trong cuộc
đấu tranh giữa Phật Giáo và Bà La Môn Giáo, Bà La Môn
giáo đã chiến thắng, trong những hoàn cảnh đó, sự tiêu
diệt của Phật Giáo ở Kashmir chỉ là vấn đề thời gian.
-
Hussnain nói thêm:
-
- Pravarasena nắm quyền vào khoảng cuối thế kỷ thứ sáu.
Ông ta phải đánh lui những cuộc tấn công của Mummuni,
một thủ lãnh Hồi Giáo đến từ Trung Á. Ông xây dựng thành
phố Pravarasenanagar với những ngôi đền năm vị Nữ Thần.
Chú ông là Jayendra xây một tu viện nổi tiếng là
Jayendravihara, thờ một tượng Phật lớn nhất. Ngài Huyền
Trang đã viếng tu viện nầy trong thời gian ở tại
Kashmir. Tu viện nầy đã bị Ksemagupta thiêu hủy, ông nấu
chảy bức tượng khổng lồ để dùng cho đền thờ thần Shiva
của ông.
-
Một người khác được coi như đối thủ của Phật
Giáo, người đã tuyên bố: Giáo lý của Phật là thứ vô dụng
giống như chất mủ chảy ra từ da chó là Kumarila Bhatt,
một người Bà La Môn. Ông sống vào thế kỷ thứ bảy sau tây
lịch. Theo đề nghị của ông, Suddhanvan, vua nước Ujjain,
được nói là đã tiêu diệt những tín đồ Phật Giáo. Sự đàn
áp tàn nhẫn tín đồ Phật Giáo của Suddhanvan, dưới sự xúi
dục của Kumarila Bhatt, được ghi lại trong hai tài liệu
về tiểu sử của Sankaracarya, đó là tác phẩm
Sankaravijaya do Anandagiri, đệ tử trực tiếp của
Sankaracarya viết, và tác phẩm Sankara-digvijayam do
Madhava (thế kỷ mười bốn) viết. Thực vậy, Madhava
Acharya xác nhận rằng, với sự xúi dục của Kumarila
Bhatt, Suddhanvan ra lệnh giết chết tất cả tín đồ Phật
Giáo từ Ramesvaram đến vùng Hy mã lạp sơn. Ông còn ra
lệnh nếu ai không giết tín đồ Phật Giáo sẽ bị xử tử.
-
Sankaracarya, một vị thầy Vedanta, cũng chịu
trách nhiệm trong việc đàn áp Phật Giáo. Thật vậy, ông
đã gieo sự khũng bố trong tâm tín đồ Phật Giáo. Theo
truyền thống Tây Tạng, khi ông đến, tín đồ Phật Giáo
trong các chùa bắt đầu phân tán tứ tung. Chính ông đã có
lần viết trong Bhashya của kinh Phạm Thiên rằng: Phật Ðà
là một kẻ thù của quần chúng và đã dạy những điều mâu
thuẫn và lộn xộn.
-
Cách thức người Ấn Ðộ Giáo xử dụng để đẩy
Phật Giáo ra khỏi nơi sinh sản ra nó được soi sáng trong
câu chuyện thần thoại Gaya Asura ghi trong Gaya
Mahatmya, một phần trong Thánh thư Vaya. Theo huyền
thoại nầy, Gaya Asura (con quỉ) đạt được quả vị thần
thánh đến mức độ bất cứ ai thấy hay chạm được nó là sanh
về cỏi trời. Yama, vua Diêm Vương, nổi lòng đố kỵ, cầu
chư thần giảm bớt năng lực của Gaya Asura. Các vị thần
đợi Gaya và xin nó bố thí sự trong sạch và thân thể
thánh thiện của nó để tế lễ. Ðáp ứng lại điều đó, Gaya
đến và nằm xuống, cái đầu đặt tại vị trí xưa là Gaya.
Các thần đặt một tảng đá trên đầu nó. Nhưng điều đó chưa
đủ chứng minh nó có thể nằm yên. cuối cùng Gaya Asura
trở nên bất động khi thần Vishnu ngồi trên tảng đá để
giữ không cho nó cử động, và hứa rằng tảng đá trên đầu
nó sẽ được tuyên dương, là nơi linh thiêng nhất trên
trái đất; chư thiên sẽ nghỉ trên tảng đá đó; chỗ đó sẽ
được đặt tên là Gaya-Kashetra; và rằng ai cúng dường
bánh trong tang lễ và thực hành tang lễ ở đó thì chính
mình được phước và làm cho tổ tiên được sinh lên trời,
nơi của Phạm Thiên.
-
Câu chuyện về Gaya Asura xưa đến độ nào
chúng ta khó biết. Dù luận điệu của những người Ấn Ðộ
Giáo chính thống về sự cổ xưa của Gaya như thế nào,
chúng ta thấy rõ rằng thành phố Gaya đã được nâng lên
địa vị như ngày nay trong thế giới Ấn Ðộ Giáo chỉ sau
khi Phật Giáo suy sụp ở Ấn Ðộ.
-
Theo quan điểm của tiến sĩ Rajindralah
Mitra, một học giả với tầm nhìn về lịch sử có một không
hai, câu chuyện thần thoại khó tin trong Thánh thư Vayu
hàm chứa một biểu tượng về sự chiến thắng cuối cùng của
Bà La Môn giáo đối với Phật Giáo, tôn giáo đã từng nẩy
nở mạnh mẽ trong và quanh Gaya suốt nhiều thế kỷ. Xin
trích một đoạn của ông:
-
- Những người Ấn Ðộ Giáo tin rằng câu chuyện
nầy là có thật theo nghĩa đen, nhưng tiến sĩ Buchanan
gọi đó là một chuyện thần thoại quái đản và có thể là
vậy. Thoạt nhìn qua không có gì có thể hồ đồ và ngu xuẩn
hơn câu chuyện nầy; nó vi phạm mọi ý nghĩa khuôn phép,
và ngay cả giá trị về tính chân thật trong sự kể chuyện
của nó cũng không có. Ðồi Brahmayoni, cũng là núi
Kalahala, dài ba dặm, và tưởng tượng đặt trên đó một
người 125 yojan (do tuần) hay 576 dặm bề cao, và 268 dặm
chu vi không thể nào làm được, cho dù là người có đầu óc
nghèo nàn nhất cũng nhận được. Một chiếc đầu một dặm chu
vi trên một cơ thể 576 dặm cao, cũng giống như cây kim
nằm trên cơ thể của một người bình thường. Sự vô dụng
của các thần để giữ một con ma đang nằm và những cố gắng
vô ích của họ để giữ con ma không cựa quậy, quả thật trẻ
con. Và trong trường hợp nầy, một vấn đề được đặt ra:
Làm thế nào tác giả của thánh thư Vayu trong đó Gaya
Mahatmya là một bộ phận, tạo ra một câu chuyện quá trẻ
con để bảo đảm sự tôn kính và sùng bái của số đông quần
chúng đối với địa danh nầy? Ông không thiếu sự thông
minh, vì ông đã thảo luận những vấn đề triết học khó
hiểu với tài xử trí và khéo léo đáng lưu ý. Cũng vô lý
và không thật khi nói rằng ông không thể phân biệt sự
hợp lý với tính trẻ con và hàm hồ. Vì vậy, coi câu
chuyện nầy như là một thứ hồ đồ, theo ý tôi, là một kết
luận vội vàng, và là dấu hiệu của sự thiếu kiên nhẫn.
Chúng tôi cần đứng trên quan điểm của một sử gia triết
học để giả thiết rằng có một cái gì đó bí mật dấu sau
lớp vỏ bên ngoài của câu chuyện; với một ý nghĩa bí mật.
Tôi tin tưởng, điều nầy dễ nhận thấy, câu chuyện nầy là
một phúng dụ về sự thành công của Bà la môn giáo đối với
Phật Giáo:
-
- Gaya được gọi là một Asura, thông thường có nghĩa là
người khổng lồ, một ma quỷ, một con ma dụ dỗ, một người
chửi rủa các thần và tôn giáo; nhưng nó không được vẽ ra
như vậy. Nó không ham mê trong tội lỗi, không làm thương
tổn ai, và không chống lại các thần cũng như tôn giáo
bằng lời nói hay hành động. Ngược lại, nó được diễn tả
là một người sùng kính Vishnu, hiến mình cho sự sám hối
nghiêm nhặt, và những cuộc thiền định kéo dài, và cho
những yêu cầu làm trong sạch tột cùng thể xác và tâm
hồn; một người mà chỉ chạm đến là có thể rửa sạch những
tội lỗi lớn nhất của con người và được sinh vào cõi
trời. Sự buộc tội nghiêm trọng nhất đối với y là đã làm
sự cứu rỗi quá đơn giãn và ngắn gọn. Trong trường hợp
của y, vì vậy, sự việc chỉ có nghĩa là y đã không theo
tín ngưỡng của người Bà la môn, cũng không theo đường
hướng của họ, tóm lại y là một người dị giáo. Tính chất
nầy đã luôn luôn được gán cho những người lãnh đạo trong
khối Phật Giáo. Họ sùng tín, họ biết sống khổ hạnh, họ
hết lòng dấn thân vào sự sám hối và thiền định; nhưng họ
tránh xa sự tế tự và những cuộc lễ của người Bà La Môn,
và vì vậy Gaya có thể được coi như sự nhân cách hóa Phật
Giáo. Thân thể của nó đo được 576 x 268 dặm, và khu vực
từ Kalinga đến Hy mã lạp sơn, và từ Trung Ấn đến Bengal,
khu vực mà Phật Giáo đã lan tràn trong thời gian câu
chuyện được viết ra bao trùm khắp không gian đó, và còn
hơn nữa. Tổng hành dinh của Phật Giáo là Gaya; và thị
trấn Gaya, ngay cả ngày nay, có bề rộng vừa một dặm. Cố
gắng của các thần để đặt xuống chiếc đầu của con ma là
một điển hình cho cố gắng của người Ấn Ðộ Giáo tấn công
Phật Giáo ở trung tâm gây cảm hứng cho nó, trung tâm đầu
não, và đòn gậy của Vishnu chỉ cho phương sách đã dùng
để tấn công khi sự thuyết dụ không đạt được kết quả cuối
cùng. Tảng đá tôn giáo được đặt lên đầu của kẻ không
theo đạo, sức mạnh của các thần giữ nó cố định và không
thể lay chuyển. Cũng chính là phúc lành của chư thần đã
thánh hóa cái nôi của Phật Giáo trở thành một nơi tôn
nghiêm của tín ngưỡng Ấn Ðộ Giáo. Chúng ta biết quá rõ
về những phương tiện được dùng đến ở Puri, Bhuvnesvana,
và những nơi khác để biểu hiện những biểu tượng Phật
Giáo. Những nơi thiêng liêng của Phật Giáo, và ngay cả
những tượng Phật Giáo có ích cho sự lễ bái của Ấn Ðộ
Giáo, và không vô lý một chút nào khi giả thuyết cùng
một tiến trình đã được xử dụng tại Gaya.
-
Ngoài sự đàn áp của vua chúa và tôn giáo,
Phật Giáo còn là đối tượng đàn áp và tẩy chay của xã
hội. Chúng ta thấy rõ rằng khi Phật Giáo bắt đầu suy
tàn, người Ấn Ðộ Giáo đã lợi dụng sự nghèo khó của tín
đồ Phật Giáo, cho phép họ vào lại cộng đồng Ấn Ðộ Giáo
nhưng lên án họ là những người Không Thể Chạm Ðến, ghép
vào giai tầng thấp nhất, ở ngoài bốn giai cấp của Ấn Ðộ
Giáo. Họ hoàn toàn bị rút phép thông công với xã hội, và
bị gán cho danh hiệu là Pariah, Pamchama, Avarna,
Ati-Shudra là những người mà chỉ chạm vào hay chạm vào
bóng là có thể làm ô uế giai cấp Ấn Ðộ Giáo. Họ bị buộc
phải sống ở bên ngoài làng và đã là mục tiêu cho nhiều
chứng bịnh xã hội. Họ bị từ chối khả năng học hành, và
chỉ có thể làm những nghề nghiệp thấp thỏi hèn hạ. Không
những họ bị cấm không được xử dụng nước giếng, hồ chứa
nước, và những nơi công cộng, họ còn không có quyền có
sở hữu. Tóm lại, họ bị coi là những người nô lệ, họ
không có chọn lựa nào khác hơn là phục dịch cho những
cái gọi là giai cấp cao hơn mà không có một phần thưởng
nào. Chúng ta không nghi ngờ, khi bị đè dưới gánh nặng
của nghèo nàn, cộng với sự đàn áp và bốc lột của xã hội,
những đệ tử của Ðức Phật đã quên di sản huy hoàng của họ
và cam chịu số phận đau thương. Sự đối xử lỗ mãng đối
với người Không Thể Chạm Ðến, ngày nay là những giai cấp
phụ bởi giai cấp Ấn Ðộ Giáo chỉ có thể được giải thích,
đó là kết quả của thành kiến và thù ghét của họ đối với
Phật Giáo. Bằng không, tại sao một khối người lớn lao
lại bị tước đoạt phương tiện và bị nguyền rủa là Không
Thể Ðến Gần, Không Thể Nói Chuyện, và Không Thể Va Chạm.
-
Việc những Người Không Thể Chạm Ðến, hay là
những Giai Cấp Phụ ở Ấn Ðộ ngày nay là những tín đồ Phật
Giáo ngày xưa có thể được chứng minh:
-
- Ðầu tiên, hầu hết những phong tục và tính chất của họ
nền tảng là Phật Giáo.
-
- Thứ hai, họ không quan tâm nhiều đến những thần linh
Ấn Ðộ Giáo. Giống như tín đồ Phật Giáo, họ thờ phụng Ðức
Phật, vị Thầy vĩ đại nhất của họ và họ tôn thờ những vị
Thầy như Ravidas, Chokhamela, Kabir, v.v. Như vậy, giống
như tín đồ Phật Giáo, họ là những người Gu-bhaju, những
người tôn thờ Thầy, chứ không phải là những Dev-bhaju,
những người thờ phụng thần linh như trong trường hợp
những người Ấn Ðộ Giáo.
-
- Thứ ba, một vài giai cấp phụ ở Punjab, Himachal
Pradesh, Delhi, và Rajasthan tự xưng là Ad-Dharmi hay
Adi-Dharmi. Chữ Ad có nghĩa là cổ, xưa hay nguyên thủy
và người Ad-Dharmi tin tưởng rằng họ là tín đồ của một
tín ngưỡng cổ xưa. Không nghi ngờ rằng những từ như
Ad-Dharmi hay Adi-Dharmi có mầm giống Phật Giáo vì chúng
tương tự những thành ngữ Phật Giáo như Adi-Buddha và
Adi-Dharma mà theo truyền thống Ðại thừa, chúng biểu thị
cho trí tuệ hay Tâm và Vật. Hơn nữa, những tín đồ Phật
Giáo từ lâu đời đã gọi tôn giáo của họ là Dharma hay
Saddharma, và những tín đồ Phật Giáo ở Orissa gọi họ là
Mahima Dharmi (những tín đồ của Giáo Pháp đáng tán
dương).
-
Thật vậy những người nầy đã là những tín đồ
Phật Giáo trong quá khứ. Ðiều xảy ra sau nầy dường như
là do sự đàn áp và không được học hành, họ đã quên tên
Phật Ðà hay có thể họ từ bỏ tên của Ðấng Pháp Vương để
không còn chịu gian khổ như Achyutananda một thi sĩ ở
Orissa vào thế kỷ thứ mười sáu, an ủi họ bằng cách nói
rằng: vì sự đáng ao ước trong Kaliyuga mà những tín đồ
Phật Giáo phải cải trang.
-
Sự xâm nhập của người Hồi Giáo đẩy mạnh sự
điêu tàn của Phật Giáo trên đất Ấn. Khi người Hồi Giáo
đến, họ có hai đối tượng trước mắt:
-
- Thứ nhất là nắm quyền chính trị,
-
- Thứ hai là truyền bá Hồi Giáo.
-
Ðể đạt được mục đích thứ hai, họ có kế hoạch khử trừ
những đền chùa Phật Giáo và Ấn Ðộ Giáo, các tăng sĩ và
thầy tế của Bà La Môn, vì chúng là những kho tàng tư
tưởng tôn giáo. Họ có khuynh hướng chống những tu sĩ
Phật Giáo, những người đã truyền bá thông điệp bình đẳng
do đức Như Lai dạy. Khuynh hướng nầy được trù hoạch vì
người Hồi Giáo, thấy rằng họ gặp khó khăn trong việc
truyền dạy thông điệp tiên tri của họ về bình đẳng dưới
quan điểm của những giáo lý tương tự như của Ðức Phật.
Do đó, những người Hồi Giáo cuồng tín san bằng các tu
viện, và thủ tiêu hầu hết các tăng sĩ trong tu viện đó.
Thiểu số may mắn thoát khỏi lưỡi gươm của Hồi Giáo, họ
phải chạy trốn để giữ mạng và tìm nơi ẩn náu ở những
nước láng giềng. Hai ông vua Hồi Giáo đáng chú ý đã tàn
phá những nơi thiêng liêng của Phật Giáo là Mahmud
Gazinavi và Bakhtiaruddin Khilji. Ông vua trước đã cướp
bóc những chùa chiền ở Kot Kangra (Mimachal Pradesh) vào
thế kỷ thứ mười, và ông vua sau đã phá hũy những tu viện
Nalanda, Vikramasla, và Odentapuri là những trụ sở sống
động cho đến thế kỷ thứ mười hai. Nói về sự xâm lăng của
Hồi Giáo, tiến sĩ Ambedkar nói:
-
- Những người xâm lăng Hồi Giáo cướp phá những Ðại Học
kể ra một số ít là Nalanda, Vikramasila, Jagaddala,
Odantapuri. Họ nhổ tận nền những tu viện Phật Giáo rãi
khắp nơi trong nước. Tăng sĩ hàng ngàn người chạy trốn
qua nước Nepal, Tây Tạng, và những xứ ngoài Ấn Ðộ. Một
số rất lớn bị giết bởi những người lính Hồi giáo. Tu sĩ
Phật Giáo bị tàn hại dưới lưỡi gươm của những người xâm
lăng Hồi giáo như thế nào đã được các sử gia Hồi Giáo
ghi lại. Tóm tắt tài liệu liên quan đến sự tàn sát tu sĩ
Phật Giáo của tướng Hồi Giáo gây ra ở Bihar khi ông đem
quân xâm lăng vào năm 1197 sau tây lịch, Ông Vincent
Smith viết:
-
- Tướng Hồi Giáo đã làm cho mọi người biết tên ông trong
lúc khủng bố bằng những cuộc viễn chinh cướp bóc nhiều
lần ở Bihar, chiếm đoạt kinh đô bằng những trận đánh táo
bạo. Sử gia đương thời, gặp một trong những người sống
sót trong toán tấn công vào năm 1243 sau tây lịch, và
được cho biết là pháo đài của Bihar bị chiếm lấy do một
nhóm quân chỉ gồm hai trăm kỵ binh, họ lao vào cửa Ðông
một cách dũng cảm và chiếm lấy vị trí. Một số lượng lớn
đồ cướp bóc được thu thập và sự tàn sát những ỔNgười Bà
La Môn Ðầu TrọcỖ, chỉ những tu sĩ Phật Giáo, hoàn toàn
hoàn tất, và khi người chiến thắng tìm một người có thể
giãi thích được những sách trong thư viện các chùa, thì
không còn tìm được một người nào còn sống để có thể đọc
những sách đó. Chúng tôi được cho biết rằng: ỔNgười ta
khám phá ra rằng toàn bộ pháo đài ở thành phố đó là một
trường cao đẳng, và theo cách nói của người Ấn Ðộ Giáo
thì họ gọi là trường Bihar.
-
Sự tàn sát giới tu sĩ Phật Giáo do những
người Hồi giáo xâm lăng gây ra là như vậy. Vì muốn tiêu
diệt Phật Giáo, nên Hồi Giáo giết giới tu sĩ Phật Giáo.
Ðó là cuộc khủng bố lớn lao nhất làm cho tôn giáo của
Phật Ðà suy tàn ở Ấn Ðộ. Tôn giáo cũng giống như ý thức
hệ khác, có thể được duy trì chỉ bằng sự truyền bá. Nếu
sự truyền bá thất bại, tôn giáo phải biến mất. Lưỡi gươm
của Hồi Giáo gieo mạnh xuống giới tu sĩ. Họ bị tiêu diệt
hay trốn thoát ra nước ngoài. Không còn ai ở lại để
thắp sáng ngọn lửa Phật Giáo.
-
Một số hành giả Ấn Ðộ Giáo lợi dụng tình
trạng người Hồi Giáo gây ra trong việc xâm chiếm những
nơi thờ phụng của Phật Giáo ở Bihar được Dharmasvamim,
một người hành hương Tây Tạng viếng Bihar khoảng ba thế
hệ sau cuộc tai biến, diễn tả một cách sống động. Theo
ông Ratnabodhi, thư viện lớn nhất ở Nalanda, thoát khỏi
sự tàn phá dưới bàn tay người Hồi Giáo, đã bị những khất
sĩ Ấn Ðộ Giáo đốt cháy. Ông nói:
-
- Họ (những người Ấn Ðộ giáo) thực hiện một Yana, lễ tế
lửa, và liệng những than hồng và tro lấy từ hầm tế vào
những ngôi chùa Phật Giáo, v.v. Ðiều nầy gây nên một đám
cháy lớn thiêu rụi Ratnabodhi, thư viện chín tầng của
Ðại Học Nalanda.
-
Việc những kẻ đối lập Phật Giáo trong hàng
ngũ Ấn Ðộ Giáo đã không lùi bước trong việc tàn phá
những nơi thiêng liêng của Phật Giáo, ở những nơi khác
cũng được thấy rõ từ những đống tro tàn, những hình ảnh
bị đốt cháy, và xương của những tăng sĩ được các nhà
khảo cổ tìm thấy ở Sarnath và vùng phụ cận. Rõ ràng, các
chùa bị thiêu hủy do những người cuồng tín và việc nầy
dường như đã xãy ra nhiều lần, như thiếu tá Kittoe,
người tiến hành công việc khai quật ở Sarnath vào năm
1851 đã nói:
-
- Tất cả mọi thứ đều bị cướp phá và thiêu
hủy, tu sĩ, chùa, tượng, tất cả cùng với nhau, vì ở một
số nơi, xương, sắt, gỗ, và đá được tìm thấy từng khối
lớn, và việc nầy xảy ra nhiều lần.
-
Sự suy tàn của những trung tâm Phật Giáo
thổi đến một ngọn gió định mệnh cho tín đồ Phật Giáo, họ
không thể phục hồi trở lại nền tảng đã mất. Vì vậy, trải
qua những thế kỷ kế tiếp, Phật Giáo một mặt bị chính
những người hâm mộ nó thờ ơ, và mặt khác, hàng ngàn chùa
chiền của nó bị những kẻ đối lập hủy diệt, cướp bóc hay
chiếm đoạt. Những công trình Phật Giáo tiếp tục bị tiêu
hủy, cướp bóc trong nhiều thế kỷ chỉ vì vật chất, sẽ
được cho thấy rõ ràng với một vài trích dẫn sau đây:
-
1- Ngôi tháp tráng lệ Bharut ở Madhya Pradesh, từ đó nó
được gọi tên và nổi tiếng khắp thế giối về những mẫu
tinh vi nhất của Nghệ Thuật và Ðiêu Khắc Ấn Ðộ vào thế
kỷ thứ hai sau tây lịch, đã bị những người địa phương
ngu dốt kéo sập chỉ để lấy gạch làm nhà riêng của họ.
Cunningham, người đã khám phá và khai quật ngôi tháp nầy
vào năm 1873-74, nói rằng làng ngày nay là Bharhut gồm
đến hai trăm ngôi nhà đều hoàn toàn được xây bằng gạch
lấy từ ngôi tháp này. Việc làm của dân làng Bharhut làm
cho những làng lân cận bắt chước. Họ tháo dở một số lớn
những cột trụ và chấn song mang về dựng nhà của họ.
Cunningham đã khám phá ra sáu cây trụ ở làng kế bên là
Batanmara và tám trụ ở Pathora. Ông cũng khám phá ra một
số những tảng đá điêu khắc từng các chấn song của tháp
trong hầu hết các làng rộng lớn xung quanh Bharhut, đặc
biệt là ở Uchahara, Batamara, Pathora, và Madhogarh (hay
Patharhat).
-
2- Tháp Dharmarajika ở Sarnath bị Jagat Singh tháo dỡ
vào năm 1794 chỉ để lấy gạch xây chợ ở Varanasi. Chợ nầy
ngày nay được biết đến với tên là Jagatganj. Trụ của vua
A-Dục cũng bị đập vỡ.
-
3- Về ngôi tháp danh tiếng Amaravati ở Andhra Pradesh,
V.R. Narla, một người có thẩm quyền về nghệ thuật Phật
Giáo ở Andhra, nói:
-
- Hầu hết những tàn tích ngày nay đều rủi ro không còn.
Ngay cả vào thời Ðại tá Colin Mackenzie người đã thấy
tháp Amaravati vào cuối thế kỷ thứ mười tám, nhiều tảng
đá hoa điêu khắc đã bị tiêu hủy. Chúng bị đào lên và đốt
thành vôi do người cầm đầu ở nơi đây, người nầy vào năm
1797 đã dời tổng hành dinh về Amaravati, đám tro tàn của
nó mang nhiều tính chất lịch sử và được truyền thống
thánh hóa, và làm một sự cố gắng yếu ớt để dựng một
thành phố mới gần chùa Amaresvara. Và ngay cả những tác
phẩm điêu khắc thoát khỏi sự phá hoại văn hóa nầy, ngày
nay cũng bị phân rải nhiều nơi.
-
4- Vào năm 1840, ngôi tháp Phật Giáo ở Gudivada trong xứ
Andhra Pradesh bị phá hủy để lấy vật liệu sửa sang con
đường giữa Bezwada và Bandar. Ðề cập đến sự phá hoại văn
hoá nầy, ông Rea nói:
-
- Thật là hối tiếc, tất cả những công trình nầy đã phải
chịu hủy hoại bởi những bàn tay của những người cầm vật
liệu để xây dựng đường và những công việc tương tự. Mặc
dù những công trình kiến trúc cổ xưa nhất còn tồn tại
một nền văn minh cổ, tính chất thái cổ của chúng không
có sự bảo vệ cho chúng khỏi những bàn tay tước đoạt.
-
PHẬT GIÁO BỊ ÐỒNG HÓA
-
Ðể đối đầu tương xứng với Phật Giáo, Ấn Ðộ Giáo đã sớm
tiến hành việc sửa đổi và tự biến dạng. Về việc nầy họ
đã vũ trang hệ thống của họ bằng những tính chất tốt đẹp
của Phật Giáo cả trong lý thuyết và thực hành. Trong
tiến trình cải cách nầy, người Ấn Ðộ Giáo tiếp nhận lý
tưởng Bất Sát (Ahimsa) và từ bỏ việc tế súc vật; và cũng
bắt đầu tổ chức theo cách thức trong các tu viện Phật
Giáo. Xa hơn, để chấm dứt việc đấu khẩu lâu dài và khó
khăn để giành phần thắng của những tín đồ của hai tôn
giáo, Ðức Thích Tôn được họ đặt vào trong các thần Ấn Ðộ
Giáo, như là một Hóa Thân (Avatara) của thần Vishnu. Và
điều nầy được công bố trong quảng đại quần chúng do các
tác giả Purana. Bên cạnh thánh thư Varaha, nói rằng nhờ
tuân theo lời nguyện của Buddhavadasi, vua Tịnh Phạn
(Suddhodana) đã được thần Vishnu xuống làm con dưới hình
tướng Phật Ðà. Ðức Phật đã bị coi là một Avatara của
Vishnu trong Matsya, Bhagavata, Garuda, và Linga Purana.
Không chỉ vậy, những người thờ thần Shiva tiếp thâu
những yếu tố tu viện và chiêm nghiệm của Phật Giáo, và
những người thờ thần Vishnu tiếp thâu những yếu tố sùng
bái và nhân đạo của Phật Giáo để bảo đảm tính phổ biến
trong quần chúng. Những người thờ thần Vishnu còn sửa
đổi thái độ của họ về vấn đề hệ thống giai cấp. Họ chấp
nhận nó như là một thể chế xã hội, không chuyên chở một
sự theo đuổi tôn giáo hay tâm linh nào. Như tiến sĩ
Radhakrishnan nói:
-
- Một tiến trình thâm nhập và sửa đổi từ từ đã phát
triển, như việc ủng hộ thuyết cho rằng Ðại Thừa Giáo chỉ
là một giai đoạn phân phái trong trào lưu lớn những
người thờ thần Vishnu, Tiểu Thừa Giáo, với tính chất khổ
hạnh nhiều hơn, được coi như một phái của người thờ thần
Shiva. Khi tín ngưỡng Bà La Môn khắc sâu tình thương mọi
loài và sùng bái thần linh và tuyên bố rằng Ðức Phật là
hóa thân của Vishnu, hồi chuông báo tử của Phật Giáo ở
Ấn Ðộ đã vang lên.
-
NHỮNG NGUYÊN NHÂN BÊN TRONG
-
Bên cạnh những nguyên nhân bên ngoài, chắc chắn là những
nguyên nhân chính cho sự thoái hoá và biến mất của Phật
Giáo, còn có một số ít những hạn chế và lầm lỗi bên
trong cũng đã làm cho sự biến mất cuối cùng của Phật
Giáo trên quê hương nó xảy ra một cách nhanh chóng.
-
Chúng ta phải thừa nhận rằng chính những tín
đồ Phật Giáo lãnh phần trách nhiệm lớn cho số phận đáng
buồn của tôn giáo của họ. Ðức Phật đã vạch ra con đường
cho các vị Tỳ kheo không những là người đi tìm sự giác
ngộ bằng thực hành những giới luật đạo đức và tâm linh,
nhưng cũng là người phụng sự xã hội hay là người bạn,
triết gia và người hướng đạo cho quần chúng. Ðức Phật là
một vị thầy tôn giáo đầu tiên ở Ấn Ðộ, hay nói đúng hơn
là toàn thế giới, cổ vũ những đệ tử của mình đi và đi
khắp nơi vì hạnh phúc và lợi ích của nhiều người. Thêm
nữa, Ngài là người đầu tiên đưa ra lý tưởng hy sinh,
quên mình và phục vụ cho kẻ khác. Ngài nói rằng một Tỳ
kheo phải xin ăn, phải sống bằng vật bố thí, phải hạn
chế chỉ ăn ngày một bửa. Theo những lời dạy của Thầy
những vị Tỳ Kheo đầu tiên đã đạt đến những tiêu chuẩn
cao nhất của lòng kính tín, hy sinh và phụng sự. Ðiều
nầy đã thành tựu rực rỡ và làm cho Phật Pháp trở thành
một tôn giáo phổ biến và được tôn kính nhất ở Ấn Ðộ.
Nhưng bất hạnh thay, các tăng sĩ về sau đã không giữ
những tiêu chuẩn dành cho họ. Khi các tu viện trở nên
giàu có, thì hoạt động chính của họ được coi là đào sâu
việc nghiên cứu từ chương thay vì truyền bá Giáo Pháp,
tăng sĩ đánh mất sự giao hảo gần gũi với quần chúng, và
tương quan giữa tăng sĩ và cư sĩ bị thụt lùi. Các vị Tỳ
Kheo trở nên xao lãng và thụ động đối với những mục đích
thực tiễn. Ðiều nầy làm cho Phật Giáo suy yếu. Tình
trạng Tăng Già trong những năm chấm dứt thời kỳ vinh
quang của Phật Giáo tại Ấn Ðộ có thể được đánh giá từ
những điều mà Cunningham, một nhà khảo cổ, thám hiểm, và
học giả vĩ đại nhất nói vấn đề nầy. Ông nói:
-
- Phật Giáo đã thật sự trở nên một tín
ngưỡng già nua và kiệt lực, những vị khất sĩ không còn
đi khất thực, nhưng từ lâu đã được hổ trợ bằng đất đai
dành riêng cho các tu viện. Các vị Sa Môn và Tỳ Kheo
không giống như những người của thời xưa, những người
uyên bác và trí tuệ, sự tiết độ về thân xác và sự nhứt
tâm thiền quán cộng với những chủ trương thực tiễn và
gương mẫu trong sạch, đã kích thích lòng sùng kính của
quần chúng. Những tín đồ Phật Giáo hiện đại rơi vào tình
trạng mục nát, họ bằng lòng sống một đời sống thụ động
trong những công việc tẻ nhạt hằng ngày của đời sống tu
viện, nơi đó còn một vài dấu hiệu tôn giáo bề ngoài;
nhưng không còn sự tha thiết nồng nhiệt trong sinh hoạt
thiếu sinh khí của những công việc tẻ nhạt hằng ngày
đó, và lòng hăng say đã có thời đốt cháy trong tim của
mỗi người tu sĩ Phật Giáo trong việc truyền bá tôn giáo
của họ đã dập tắt từ lâu.
-
Trong những ngày xa xưa, tăng sĩ và tu viện
là huyết mạch của Phật Giáo. Nó nẩy nở, bao giờ những tu
viện còn, các tăng sĩ còn cẩn trọng. Một khi các tăng sĩ
trở nên thờ ơ và đánh mất cái tầm nhìn vào sứ mệnh của
họ, Phật Giáo suy tàn. Và khi các tu viện làm mồi cho sự
phá hoại văn hoá, Phật Giáo đi đến chỗ sụp đổ hoàn toàn.
Rất nhiều sách vở Phật Giáo, hầu hết được cất giữ trong
các tu viện, cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Ðộ do sự phá
hủy các tu viện. Lý do là những tín đồ Phật Giáo không
có tổ chức cư sĩ để giảng dạy, truyền bá, và bảo vệ tôn
giáo của họ. Với sự thiếu vắng những tổ chức như vậy, họ
chỉ đứng nhìn mà không giúp được gì khi các tu viện bị
cướp phá, xúc phạm và các tăng sĩ bị trục xuất hay giết
hại.
-
Sự thiếu vắng những tập quán và nghi thức
cho những cuộc lễ lộc trong xã hội như đám cưới, v.v.
của Phật Giáo cũng là một trong những yếu tố làm cho
Phật Giáo suy tàn ở Ấn Ðộ. Ðức Phật chống lại chủ nghĩa
nghi thức, cũng như độc quyền của những người Bà La Môn
là giai cấp thầy tế, không cho phép những tăng sĩ hành
động như những thầy tế trong những cuộc lễ có tính cách
xã hội. Cũng không có những cuộc lễ đặc biệt về sinh
nhật, cưới hỏi, v.v. được đề ra. Như vậy giới cư sĩ tiếp
tục thực hành theo những phong tục và lễ lộc đang lưu
hành, phần lớn do những người Bà La Môn đề ra. Thái độ
không xen vào của Phật Giáo, như tiến sĩ Joshi nói:
-
- Mặc dù giúp cho sự truyền bá tôn giáo được trôi chảy,
đã đem đến kết quả trên chặng đường dài làm suy giãm ảnh
hưởng của nó trong xã hội.
-
Một nguyên nhân bên trong khác, lót đường
cho sự suy tàn của Phật Giáo, là sự chiều chuộng quá
đáng của những tín đồ đại thừa nhiệt tình đối với những
sự mê tín của Ấn Ðộ giáo. Ðể truyền bá rộng tín ngưỡng
của họ, không những họ đã nhân lên và thần thánh hóa Ðức
Phật, lại còn đưa một số thần và nữ thần Ấn Ðộ Giáo vào
làm các vị thần Phật Giáo, dưới dạng những Bồ Tát để
nhân cách hóa những năng lực của Phật Ðà. Việc nầy làm
cho Phật Giáo không còn khác biệt, ngọai trừ tên gọi,
với các thần thánh Ấn Ðộ Giáo, sự khác biệt giữa hai tôn
giáo bị xóa bỏ. Và khi Ấn Ðộ Giáo đưa Ðức Phật vào danh
sách các thần của họ để chứng minh rằng Phật Giáo là một
phái của họ. Phật Giáo đánh mất tính riêng biệt.
-
KẾT LUẬN
-
Mất sự bảo trợ của giới vua chúa có thể được coi là một
nguyên nhân khác làm sự suy tàn của Phật Giáo mau chóng.
Ví dụ, phải trên hai trăm năm để Phật Giáo mọc những
chiếc rễ vững chãi và có được hình thái của một trào lưu
giãi phóng xã hội lớn trên quê hương của nó. Việc nầy
xảy ra với sự ra đời của vua A Dục (Ashoka) vào thế kỷ
thứ ba trước tây lịch. Tuy nhiên trong vòng năm mươi năm
vua A Dục qua đời vào năm 232 trước Tây lịch, Ðế quốc
Khổng Tước (Maurya) sụp đỗ và Phật Giáo mất sự bảo trợ
của giới vua chúa chỉ trở lại 300 năm sau với sự ra đời
của Ca Nhị Sắc Ca (Kanishka) vào năm 78 sau Tây lịch.
Với sự sụp đỗ của vương triều Qúy Sương (Kushana) vào
thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, Phật Giáo lại mất sự bảo
trợ của giới vương giả. Giai đoạn sau Quý Sương là một
giai đoạn rối ren chính trị, cuối cùng đã đưa đến sự nổi
lên của vương triều Cấp Ða (Gupta) ở nước Ma Kiệt Ðà
(Magadha). Những vị vua của vương triều Cấp Ða là những
người theo Bà La Môn giáo và triều đại của họ được đánh
dấu là đã làm phục hồi Bà La Môn giáo. Người bảo trợ có
quyền hành cuối cùng cho Phật Giáo là vua Giới Nhật
(Harsha) nắm quyền vào năm 606 sau Tây lịch, có nghĩa là
năm trăm năm sau vua Ca Nhị Sắc Ca. Sau khi vua Giới
Nhật mất vào năm 647, Phật Giáo lại mất sự bảo trợ của
giới vương giả, và không bao giờ có lại được sự bảo trợ
trên một phạm vi rộng lớn. Một khi sự bảo trợ của giới
vua chúa không còn, và bị thay thế bằng sự đàn áp của
giới vua chúa và tôn giáo, thành lũy cuối cùng của Phật
Giáo sụp đổ nhanh chóng hơn có thể tưởng. Những
gì còn lại chưa bị những người phản động Ấn Ðộ Giáo phá
hủy hết lại bị dẹp sạch bởi những người cuồng tín Hồi
Giáo. Như một nhà văn đã viết:
-
- Màn cuối cùng trong vở kịch Phật Giáo trên sân khấu
đất mẹ của nó, bắt đầu bị khủng bố, và chấm dứt trong
câm lặng, một sự câm lặng lãng quên. Những nơi thiêng
liêng đổ nát, bị rừng rậm che khuất, chùa chiền của nó
chuyển sang tôn giáo khác. Ðức Phật biến mất trong đám
đông các thần Ấn Ðộ Giáo và ra khỏi ký ức của con người.
-
Dù lý do nào đưa đến sự suy tàn và biến mất
của Phật Giáo khỏi đất nước Ấn Ðộ đi nữa, một việc chắc
chắn đó là điều bất hạnh nhất khi tôn giáo của Ðức Phật,
một tôn giáo hoàn cầu đầu tiên, đánh mất ảnh hưởng trên
đất tổ của nó. Sự việc nầy xảy ra, Ấn Ðộ đã phải trả một
giá rất đắt, đó là sự thật lịch sử. Nước Ấn Ðộ sung mãn
cho đến khi Phật Giáo vẫn còn là một tôn giáo sống động,
và khi Phật Giáo suy tàn, Ấn Ðộ đã mất đi tinh thần tự
do, danh tiếng giảm sút, và sự tiến bộ bị ngăn trở.
-
-- o0o --
|