-
PHÁP
BẢO
ÐÀN KINH
-
Trúc Giao ghi
-
(tiếp theo kỳ trước)
-
-
b-
Nguyên Nhân Ngộ Ðạo Của Lục Tổ
-
Kinh Văn:
-
Thuở ấy có một người mua củi, bảo Ðại Sư Huệ Năng mang đến
tiệm cho họ, khi khách nhận củi xong, Ðại Sư Huệ Năng nhận
tiền và đi về, ra tới cửa tiệm bỗng nghe một người khách khác
tụng kinh. Khi nghe được lời kinh, trong tâm tư Ðại Sư Huệ
Năng tự nhiên tỏ ngộ, nên mới hỏi người khách đang tụng kinh
gì?
-
Khách bảo:
-
-
Tụng Kinh Kim Cang.
-
Ðaị Sư Huệ Năng lại hỏi:
-
-
Ông ở đâu đến đây trì tụng kinh ấy?
-
Khách đáp:
-
-
Tôi từ Kỳ Châu, huyện Huỳnh Mai, Chùa Ðông Thiền đến đây. Chùa
ấy có Ðức Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ðại Sư hiện làm Pháp Chủ tại đó,
môn nhân của ngài hơn ngàn người. Tôi đến đó lễ bái, nghe
giảng và trì tụng Kinh nầy, vì Ðức Ngũ Tổ thường khuyên Chư
Tăng và các Phật Tử nên thọ trì Kinh Kim Cang thì tự thấy
tánh, chắc chắn thành Phật.
-
Ðại Sư Huệ Năng nghe vị khách nói như thế mới biết thuở trước
đã có nhân duyên, lại nhờ vị khách kia cho mười lượng bạc,
giúp sự sanh tồn của Thân Mẫu và khuyên Ðại Sư Huệ Năng qua
Huỳnh Mai để ra mắt Ðức Ngũ Tổ.
-
Giảng:
-
Chúng ta có thể hình dung một đức bé mồ côi cha
lúc ba tuổi, gia đình lại là một nhà quan. Chúng ta chưa biết
thân phụ của ngài làm quan lớn hay nhỏ, nhưng đã là quan chúng
ta có thể hiểu thân phụ của ngài xưa kia cũng là một gia đình
thượng lưu. Nhưng từ khi thân phụ mất gia đình xuống dốc thất
thế, cuộc sống trở nên nghèo túng, và ngài phải lăn lóc ngoài
trường đời gian nan cực khổ để mưu sinh bằng nghề đốn củi đổi
gạo. Cuộc sống chật vật với rừng rú cỏ cây mãi cho đến năm
ngài hai mươi hai tuổi, vào một hôm nhân dịp đem củi đến nhà
giao cho khách, ngài mới có cơ duyên nghe được âm thanh của
Kinh Kim Cang. Nghe được lời Kinh một lần ngài liền tỏ ngộ.
Bình thường, tất cả mọi người muốn có trí tuệ tối thượng thì
phải giữ giới, nhân giữ giới nên Ðịnh từ từ xuất hiện, khi
Ðịnh có thì Tuệ nương theo đó mà phát sanh. Trong khi đó Ðức
Lục Tổ chưa bao giờ biết Ðạo, cũng không bao giờ biết tụng
kinh niệm Phật và thiền định là gì, vậy mà vừa nghe qua một
lần lời Kinh Vô Tướng là tỏ ngộ. Chứng tỏ ngài là người có đầy
đủ phúc duyên, cho nên mới có tuệ căn và trí tuệ tối thượng
trong một xác thân phàm tục của một thanh niên chưa tròn hai
mươi hai tuổi như thế. Xét về hoàn cảnh nghèo nàn cơ cực của
ngài, có người cứ thắc mắc và cho rằng: Có lẽ ngài là người vô
duyên thiếu phước, nên đã là một vị Tổ mà không biết chữ và
sinh sống trong một gia đình nghèo hèn như vậy. Tuy nhiên xét
về tâm nguyện của Chư Phật, Chư Bồ Tát, chư Tổ chúng ta thấy
Bồ Tát Huệ Minh từ đâu xuất giáng trần, thai sanh vào gia đình
Vua chúa để làm Ðông Cung Thái Tử Tất Ðạt Ða, sau đi tu và
thành đạo. Trong trường hợp nầy vì tâm nguyện của Bồ Tát muốn
chỉ cho mọi người thấy rằng cảnh vương giả không câu thúc được
các ngài. Trường hợp của ngài Ma Ha Ca Diếp thai sanh trong
một gia đình Bà La Môn giàu có nhưng sau từ bỏ gia đình đi tu
theo đạo thờ lửa, và cuối cùng trở về làm đệ tử của Phật.
Trong trường hợp nầy tâm nguyện Bồ Tát muốn chỉ bày cho tất cả
mọi người thấy rằng một người giàu có không bị cảnh danh lợi
chi phối, và một người ngọai đạo cũng có thể trở thành đệ tử
Phật để tu đạo giải thoát. Ðối với trường hợp của ngài Huệ
Năng, có thể nói đây là một nghịch hạnh, cho nên ngài thị hiện
vào trong một gia đình nghèo nàn khổ sở, để rồi cuối cùng xuất
gia học đạo và thành đạt quả vị Tổ Sư. Nói tóm lại Chư Phật,
Chư Bồ Tát muốn tất cả chúng sanh phát tâm cầu giải thoát nên
có khi thị hiện vào cảnh vua chúa, Giàu sang, có khi trong
cảnh bần cùng, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào Chư Vị cũng tu
được, và các ngài tuỳ theo nhân duyên phương tiện mà khai hóa
chúng sanh. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy ngài Huệ Năng sanh
vào trong một gia đình nghèo khó, chịu mồ côi, sống một cuộc
sống lam lũ khổ cực, để rồi cuối cùng cũng xuất gia tu học và
thành đạt không phải là ngài vô duyên thiếu phước mà là tâm
nguyện của Bồ Tát như vậy.
-
Khi nghe Kinh Kim Cang liền tỏ ngộ, ngài Huệ Năng đã thấy được
nhân duyên của đời trước, đây là trí tánh của chư Bồ Tát chứ
chúng ta không thể tìm thấy trong một con người phàm tục. Ngài
cũng tự nhận biết nếu bỏ mẹ đi tìm thầy lúc nầy thì bất hiếu,
bởi vì gia đình nghèo, mẹ lại già, vã lại ngài là con một
trong gia đình nên chưa quyết định, nhưng nhờ có người Khách
mua củi hiểu và giúp đỡ trợ duyên cho mười lượng bạc nên ngài
mới có phương tiện trong việc phụng dưỡng mẹ già, nên ý chí
tìm thầy cầu pháp cũng được kiên định hơn. Gặp cơ hội tốt ngài
về nhà xin phép mẹ, mẹ ngài cũng hoan hỷ cho ngài theo thầy
học đạo. Ðối với Ðức Lục Tổ là bậc Bồ tát hiện thân, ngài đã
biết tâm nguyện của mình và ngài cũng thấy được hiện tại tất
cả chúng sanh đang cần ngài, nên việc từ bỏ gia đình xuất gia
học Ðạo, có thể nói: Là bậc Bồ Tát một khi nhớ lại bổn tánh
thì các ngài phải thực hiện con đường độ sanh của mình, nên
việc từ bỏ gia đình chỉ là một sớm một chiều mà thôi. Nhưng
đối với thân mẫu của ngài, phải nói đây là điều hết sức cao
quý, bởi vì bà dám hy sinh tình cảm riêng tư gia đình, cá nhân
để cho con mình ra đi đến nơi phương trời xa lạ, để học đạo.
Còn bà, bà chấp nhận sống một thân một mình nơi quê nhà.
Trường hợp nầy thật là quý hiếm, khác hẳn với con người phàm
tục của chúng ta. Có những lúc cha mẹ muốn con đi theo con
đường chân chánh giải thoát, nhưng con không có thiện căn cũng
không được. Có những lúc con xin cha mẹ để đi làm con người
thoát tục, nhưng cha mẹ không hiểu và không chấp nhận thì cũng
trở thành dang dở. Ðối với trường hợp của ngài Huệ Năng, chúng
ta có thể nói thân mẫu của ngài, bà đã thấy trước được con
đường của ngài Huệ Năng sẽ đi, nên bà hy sinh cho chúng sanh
mà không muốn giữ riêng ngài Huệ Năng cho chính mình. Vì nếu
bà không thấy những gì mà ngài Huệ Năng sắp làm, bà từ chối
không cho Huệ Năng đi tu, thì ngài Huệ Năng có dám bỏ mẹ đi tu
không? Chúng ta biết ngài Huệ Năng là người con chí hiếu nên
câu trả lời chúng ta thấy chắc chắn là không. Mặc đầu ngài Huệ
Năng biết tất cả chúng sanh đang cần ngài, nhưng mẹ ngài cũng
là một chúng sanh, nhưng chúng sanh nầy là người đã từng sinh
và nuôi dưỡng mình, vã lại chư Phật có dạy, những ai sanh nhằm
thời không có Phật mà biết phụng dưỡng cha mẹ thì cũng như
hiếu kính với chư Phật. Nhưng khi bày tỏ lòng mình thì mẹ ngài
liền đồng ý, đây không phải là tấm lòng của một bà mẹ thông
thường đối với con, mà phải nói đây là sự hiểu biết và tâm ý
tương thông sâu xa của hai bậc đại thừa Bồ Tát.
-
Từ xưa tới nay, chúng ta cũng đã từng thấy như trường hợp ông
Cấp Cô Ðộc, vì sự lợi ích của chư Tăng Ni và hàng ngàn ngàn
tín dồ nên ông đã không ngần ngại dấn thân vào con đường Phật
sự. Nói về vị khách mua củi khi biết Ðức Lục Tổ có ý định tu
học ông liền phát bồ đề tâm tặng tiền để cấp dưỡng cho cụ bà,
điều nầy chứng tỏ đạo tâm của vị nầy cũng hết sức mãnh liệt.
Trong cuộc sống hiện tại cũng có những Phật Tử hết lòng hộ đạo
như thế. Ðứng trên lập trường khách quan chúng ta thấy, nếu
không có sự phát tâm trợ duyên của người khách mua củi, thì
ngài Huệ Năng không đủ điều kiện để thưa với mẹ xin đi tu. Khi
xin đi tìm thầy học đạo nếu mẹ ngài không cho thì sự nghiệp tu
học của Lục Tổ không thành tựu được. Như thế cả hai: Người
khách mua củi và thân mẫu của ngài Huệ Năng đều là những Bồ
Tát trợ duyên cho bậc tối thắng Bồ Tát thành tựu đạo quả.
-
c- Cuộc Ðối Thoại Hào Hứng Giữa Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn & Thanh Niên
Huệ Năng.
-
Kinh Văn:
-
Sau khi sắp đặt sự sanh tồn cho thân mẫu xong, Ðại Sư Huệ Năng
từ giã mẹ già ra đi, trải qua 30 ngày mới đến huyện Huỳnh Mai,
khi vào đảnh lễ Ðức Ngũ Tổ, Tổ hỏi:
-
-
Ngươi ở phương nào, đến đây cầu việc gì?
-
Ðại Sư Huệ Năng bạch Tổ:
-
-
Ðệ Tử là dân giả ở xứ Tân châu, thuộc xứ Lĩnh Nam, từ phương
xa đến lễ thầy chỉ cầu làm Phật chứ không cầu việc gì khác.
-
Ðức Ngũ Tổ nói:
-
-
Ngươi là người xứ Lĩnh Nam, dòng dõi Lạp Lão mà làm Phật được
sao?
-
Ðại Sư Huệ Năng bạch Tổ:
-
-
Người tuy có Nam Bắc, nhưng Phật tánh vốn không Nam Bắc, thân
Lão Lạp với Hòa Thượng tuy chẳng đồng, nhưng Phật tánh vốn
không sai khác.
-
Ðức Ngũ Tổ còn muốn nói nữa, song đại chúng nhóm lại hai bên
tả hữu, nên Tổ bảo Ðại Sư Huệ Năng theo đại chúng làm việc
-
Nghe Tổ dạy như vậy, Ðại Sư Huệ Năng bạch Tổ:
-
-
Bạch Hoà Thượng, tự tâm của con hằng sanh trí huệ, không lìa
tự tánh tức là Phước Ðiền, vậy không rõ Hoà Thượng dạy con làm
việc chi?
-
Ðức Ngũ Tổ nói:
-
-
Chú bé Lão Lạp kia! Căn tánh của ngươi rất lanh lợi, ngươi chớ
có nói nữa, hãy đi xuống nhà bếp đi.
-
Nghe Tổ dạy, Ðại Sư Huệ Năng xuống nhà bếp, ở đây có một cư sĩ
sai Ðại Sư Huệ Năng bửa củi và đạp chày giả gạo suốt hơn tám
tháng.
-
Có một ngày, Ðức Ngũ Tổ chợt đến gặp Ðại Sư Huệ Năng, ngài
dạy:
-
-
Ta nghĩ chỗ thấy của ngươi đáng dùng, song sợ có người hung ác
hại, nên không thể cùng nói chuyện, ngươi có biết không?
-
Nghe dạy Ðại Sư Huệ Năng liền bạch Tổ:
-
-
Con đã hiểu thấu được tôn ý của Thầy nên không dám đến nhà
trên để cho mọi người biết.
-
Giảng:
-
Ðoạn nầy ngài nói lúc đến gặp Tổ để cầu đạo. Sau
khi từ giã mẹ già ngài ra đi hơn 30 ngày mới đến huyện Huỳnh
Mai. Chúng ta thấy phương tiện di chuyển ngày xưa không xe
hơi, máy bay như bây giờ, mà phải đi xe bò, xe ngựa, xe lừa,
còn phần nhiều thì đi bộ. Nhưng với ngài Huệ Năng trong hoàn
cảnh nghèo thiếu, không nói chúng ta cũng biết chắc chắn là
ngài đi bộ. Ðoạn đường từ xứ Tân Châu-Lĩnh Nam (Việt Nam) đến
huyện Huỳnh Mai không biết là bao xa, nhưng đi bộ chúng ta
cũng có thể hình dung được sự vất vả nhọc mệt muôn phần. Ðiều
nầy cũng làm cho chúng ta thấy tấm lòng cầu đạo của một thanh
niên cỡ 22 tuổi hết sức dũng mãnh. Khi vừa gặp Ngũ Tổ thì Tổ
hỏi:
-
-
Ngươi ở phương nào, đến đây cầu việc gì?
-
Tôi bạch Tổ:
-
-
Ðệ Tử là dân giả ở xứ Tân châu, thuộc xứ Lĩnh Nam, từ phương
xa đến lễ thầy chỉ cầu làm Phật chứ không cầu việc gì khác.
-
Ðức Ngũ Tổ nói:
-
-
Ngươi là người xứ Lĩnh Nam, dòng dõi Lạp Lão mà làm Phật được
sao?
-
Tôi bạch Tổ:
-
-
Người tuy có Nam Bắc, nhưng Phật tánh vốn không Nam Bắc, thân
Lạp Lão với Hòa Thượng tuy chẳng đồng, nhưng Phật tánh vốn
không sai khác.
-
Vào đời nhà Ðường, chữ Lạp Lão là thuật ngữ chưởi thề của
người Trung Hoa, có nghĩa là dân mọi rợ. Chữ Ðồ mọi rợ, là
tiếng của người Trung Hoa vào thời kỳ đó dùng để mắng chửi
những người dân mà họ cho là dã man gần như súc vật ở phương
nam, tức là Việt Nam bây giờ. Nghe qua sự đối đáp giữa Ngũ Tổ
và thanh niên Huệ Năng, chúng ta tưởng như Ðức Ngũ Tổ kỳ thị,
nhưng không phải như vậy. Bởi vì Ngũ Tổ biết tất cả mọi người
ai cũng có Phật Tánh, và ngài cũng thường dạy mọi người như
vậy. Ðây là cách Ngũ Tổ trắc nghiệm sự hiểu biết của người cầu
thành phật ra sao, chứ không phải kiểu cách phong kiến, hay
thái độ khinh người của Ngũ Tổ. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy
Ngũ Tổ không quá đáng trong việc xử sự với một người có tâm
cầu học, mà người đó lại là một thanh niên ngoại quốc còn quá
trẻ. Nhưng một thanh niên đầy tự tin cũng đâu có vừa, và một
câu trả lời hết sức sáng chói:
-
-
Người tuy có Nam Bắc, nhưng Phật tánh vốn không Nam Bắc, thân
Lạp Lão với Hòa Thượng tuy chẳng đồng, nhưng Phật tánh vốn
không sai khác.
-
Chúng ta có thể hiểu chữ Bắc Nam trong kinh văn là
chỉ cho Trung Quốc và Việt Nam, bởi vì Việt Nam lúc đó là
thuộc địa bắc thuộc lần thứ ba của người Trung Hoa. Theo tiêu
chuẩn nghi lễ, sự lễ phép trong tông môn, thì cách đối đáp của
thanh niên Huệ Năng vừa mới gặp Ngũ Tổ lần đầu tiên quả thật
là rất vô lễ. Ngay như ở Việt Nam, chúng ta chưa thấy có một
tín đồ nào đến Chùa xin tu mà đối đáp với một vị Hòa Thượng
Trụ Trì như vậy. Huống chi đây là một thanh niên ngoại quốc,
của một nước nhược tiểu man rợ mà dám đối đáp với một Ðại Lão
Hoà Thượng, mà vị Hoà thượng đó lại nổi tiếng như ngài Hoằng
Nhẫn, thống lãnh cả Ðông Sơn Pháp Môn ở Trung Quốc vào thời
thịnh Ðường thời đó. Ðây là lời nói của một con người đã chứng
ngộ tâm linh mới thấy được trí tánh của tất cả mọi người, mọi
loài là bình đẳng như nhau, không sai biệt, lớn nhỏ, cao thấp
nên mới dám khẳng định như vậy. Hiểu được như thế thì chúng ta
mới thấy, câu trả lời đó không phải là lời vô lễ của hàng hậu
học đối với một bậc Tổ Sư theo nghi lễ thông thường. Riêng về
Ngũ Tổ, khi nghe một thanh niên còn quá trẻ mà có cái lối đối
đáp sắc bén như vậy, có lẽ Tổ cũng ngạc nhiên lắm. Trên con
đường hành đạo với 58 tuổi đầu, có lẽ đây là lần thứ nhất
trong đời của ngài mới gặp một thanh niên lanh lợi như Huệ
Năng. Ðối với đức Ngũ Tổ, ngài không trách mắng một thanh niên
dám vô lễ với ngài, trái lại ngài còn rất thích thú, và còn
muốn trắc nghiệm thêm khả năng của người thanh niên nầy, thì
đồ chúng đến đông quá, do đó Tổ lại thôi và bảo Thanh Niên Huệ
Năng đi xuống bếp làm công quả.
-
Tại sao Ðức Ngũ Tổ không muốn mọi người nghe những mẫu đối
thoại giữa Ngài và Huệ Năng? Mới đầu chúng ta cảm thấy hơi
ngạc nhiên, nhưng xét kỹ chúng ta thấy đức Ngũ Tổ hết sức tế
nhị. Tế nhị ở chỗ, nếu ngôi vị Tổ Sư được trao đến tay cho một
môn đệ là một người Trung Hoa, và là người được đồ chúng kính
nể thì việc đó không có gì đáng nói. Nhưng trong số đồ chúng
rất đông, theo học với Ngũ Tổ đã lâu, có những tăng
chúng ở Chùa cả mấy mươi năm, mà Ngũ Tổ chưa chấp nhận
một người nào. Vậy mà nay, khi gặp một thanh niên còn quá trẻ,
lại là người ngoại quốc mà được cùng với Ngũ Tổ nói chuyện
tương đắc, và được Tổ chọn làm truyền nhân để thống lãnh cả
Ðông Sơn Pháp Môn sau nầy, thì sẽ nguy hiểm đến tánh mạng cho
người được truyền y bát như thế nào? Ðó là lý do chính đáng mà
Ngũ Tổ không thể tiếp tục trắc nghiệm nhiều hơn nữa. Tất cả
những dự liệu của Ngũ Tổ, sau nầy đúng như thế. Những chi tiết
nầy chúng tôi sẽ trình bày sau. Khi nghe dạy như vậy, trước
khi vào nhà dưới để làm công quả con người Mọi Rợ nầy còn
chứng minh thêm cho Ðức Ngũ Tổ biết sự thấy tánh của mình:
-
-
Bạch Hòa Thượng, đệ tử biết rõ trong tâm của mình thường hay
sanh trí tuệ, không rời tự tánh đó là phước điền, như vậy Hoà
Thượng muốn bảo con làm việc gì cho có công đức?
-
Ðây là hai điểm quan trọng trong lần gặp gở đầu tiên giữa một
bậc Tổ Sư và một thanh niên mới học đạo, và cũng là điều vui
mừng nhất của Ngũ Tổ sau bao tháng ngày tìm kiếm người thừa
kế, mặc dầu vậy Tổ vẫn làm bộ nạt:
-
-
Chú bé Lão Lạp kia! Căn tánh của ngươi rất lanh lợi, ngươi chớ
có nói nữa, hãy đi xuống nhà bếp đi.
-
Câu nói nầy, Ðức Ngũ Tổ đã xác định được khả năng
chứng ngộ của Huệ Năng rồi, nhưng sự hành xử của một vị Tổ Sư
với một môn đệ mới bước chân vào đạo như vậy, nói theo thông
thường có lẽ hơi quá đáng. Chính vì vậy mà tâm tư của Tổ Sư
cũng có chút áy náy, và ngại rằng phần phiền não vi tế của Huệ
Năng vẫn còn, cho nên ngài mới tìm đến an ủi:
-
-
Ta nghĩ chỗ thấy của ngươi đáng dùng, song sợ kẻ hung ác hại
ngươi, nên chẳng cùng ngươi nói chuyện, ngươi có biết chăng?
-
Và Huệ Năng trả lời:
-
-
Ðệ Tử hiểu rõ tôn ý của Thầy, vì vậy nên con không thường xuất
hiện ở nhà trên để tránh những sự dòm ngó của mọi người.
-
Cho tới bây giờ, Tổ mới thực sự tin tưởng Thanh Niên Huệ Năng
đã hiểu trọn vẹn về những suy tư của ngài. Ðó cũng là lý do Tổ
quyết định phải trắc nghiệm một lần cuối cùng trước khi trao
trọng trách cho Huệ Năng.
-
II- Trắc Nghiệm Môn Ðệ.
-
Kinh Văn:
-
Một hôm, Ðức Ngũ Tổ đòi tất cả môn nhân nhóm họp lại, dạy
rằng: Ta vì các ngươi mà nói, người đời có sanh tử là việc
lớn, phải tu giải thoát; nếu suốt ngày các ngươi chỉ cầu ruộng
phước, chớ không cầu giải thoát biển khổ sanh tử, tự tánh nếu
còn mê thì phước nào cứu nổi? Các ngươi hãy lui ra tự nghiêm
xét trí tuệ, rồi dùng tánh bát nhã của bổn tâm, mỗi người làm
một bài kệ trình cho ta xem, nếu tỏ ngộ được đại ý thì ta phú
y bát cho làm Tổ đời thứ sáu. Các ngươi hãy mau lên đừng chậm
trễ, suy nghĩ tức là không trúng. Người kiến tánh nói ra thì
thấy rõ, nếu được như vậy thì dù cho lúc đang múa đao lâm trận
cũng thấy tánh.
-
Giảng:
-
Trong đoạn kinh văn nầy Ðức Ngũ Tổ nhấn mạnh Sanh Tử Luân Hồi
là việc quan trọng, muốn thoát khỏi sanh tử luân hồi thì phải
tu huệ để minh tâm kiến tánh. Tu phước thì sẽ hưởng được phước
báo trong cỏi nhân gian hoặc trong cỏi trời, nhưng một khi hết
phước thì vẫn phải sa đọa vào trong tam đồ ác đạo. Ðây là lý
do chính yếu Ðức Ngũ Tổ bảo mọi người phải cố gắng tu tập và
phải trình kệ để ngài duyệt xét sự ngộ đạo của mỗi người.
Những năm lâu xa về trước, Ðức Ngũ Tổ có rất nhiều đệ tử rất
giỏi nhưng ngài không bảo trình kệ, vậy mà khi Huệ Năng xuất
hiện và sau khi trao đổi vài ba câu chuyện thì Tổ mới bắt đầu
bảo mọi người trình kệ? Lý do là khi gặp Huệ Năng qua lần đối
thọai đầu tiên, Ngũ Tổ đã biết được Huệ Năng là người có đầy
đủ tư cách làm người thừa kế ngài, nhưng ngài không thể tự
nhiên mà truyền trao địa vị tối cao của Ðông Sơn Pháp Môn cho
một thanh niên cư sĩ, với tuổi đời còn quá trẻ mà lại là người
ngoại quốc. Vì vậy cuộc trắc nghiệm môn đệ lần nầy, chúng ta
có thể hiểu có hai lý do: Một là muốn cho đại chúng tâm phục
khẩu phục người thừa kế ngôi vị Tổ Sư Ðông Sơn Pháp Môn. Hai
là Ðức Ngũ Tổ muốn trắc nghiệm khả năng giác tánh của Huệ
Năng lần cuối trước khi truyền trao địa vị Tổ Sư.
-
Trước khi Tổ bảo mọi người lui ra, ngài còn ân cần căn dặn:
Người thấy tánh nói ra thì thấy rõ, nếu được như vậy dầu gặp
lúc bối rối như múa đao ra trận cũng thấy ngay. Ðại ý câu nầy
nói nếu người nào đó thấy tánh thì cho dù ở trong chỗ binh đao
cũng vẫn thấy tánh. Cũng vậy người mà đã thấy đạo thì không
cần ngồi chỗ vắng mới thấy đạo. Lý do mà Tổ dạy như
vậy, bởi vì tất cả mọi người cầu thánh trí của Phật thì cần
phải thiền định, nếu không thiền định thì niệm tưởng xao động.
Hành giả một khi vọng niệm không sanh thì đó là thiền. Ngồi
thấy bổn tánh chính là định. Bổn tánh chính là tâm vô sanh.
Ðịnh được rồi thì đối với cảnh tâm không sanh, tám gió: Tài
Lợi, Suy Hao, Hủy Nhục, Tự Ðề Cao, Tự Khen Ngợi, Chê Bai
Người, Ðau Khổ, Vui Vẻ, tất cả những thứ nầy dù cho ở nơi nào
cũng không lay động được tâm. Hành giả một khi đã đạt được
trạng thái nầy thì tự biết rõ ràng và tâm không trụ tất cả các
chỗ, cho nên gọi là rõ ràng thấy bổn tâm, cũng gọi là rõ ràng
thấy tánh. Thể tánh đó là tâm giải thoát, cũng gọi là tâm Bồ
Ðề, tâm vô sanh tức là tâm Phật. Hành giả đạt đến trạng thái
nầy thì tâm như gương, và tất cả những gì xuất hiện ở trước
gương thì trong gương đều hiện lên hình ảnh như thật ở bên
ngoài. Do vậy mà Tổ dạy: Làm kệ mà còn suy nghĩ tức là còn có
dụng tâm. Còn có dụng tâm là còn có chỗ trụ, còn có chỗ trụ là
còn vướng mắc là không đúng. Không nên có dụng tâm, là không
có chỗ trụ, không có chỗ trụ thì không còn vướng mắc, như vậy
người thấy tánh thì trong quân trận cũng thấy tánh.
-
a- Bài Kệ Kiến Tánh Của Thần Tú.
-
Kinh Văn:
-
1- Ðại chúng vâng lời thầy dạy, lui ra bàn luận với nhau rằng:
Chúng ta chẳng cần tịnh tâm cố gắng làm kệ trình Hoà Thượng
làm chi vô ích. Ở đây đã có ngài Thần Tú, là bậc Thượng Tọa,
hiện làm Giáo Thọ, chắc chắn thành công, chúng ta dầu có ráng
làm kệ cách nào cũng uổng tâm lực. Nghe qua lời ấy ai cũng an
tâm, nói: Về sau chúng ta nương theo thầy Thần Tú chớ làm kệ
chi cho nhọc công.
-
Giảng:
-
Sau khi nghe Tổ dạy tất cả mọi người ai cũng phải trình kệ thì
trong đại chúng ai nấy cũng đều xôn xao, vì họ tự nghĩ trên họ
còn có ngài Thần Tú là bậc giáo thọ của họ. Ðược Ngũ Tổ chỉ
định làm giáo Thọ đương nhiên phải có khả năng. Sự chứng ngộ
như thế nào thì chưa biết, nhưng sức học chắc chắn phải hơn
hẳn mọi người. Vì vậy nếu đem kiến thức của họ so với ngài
Thần Tú thì còn thua kém xa, như vậy có cố gắng trình kệ cũng
chỉ là hoài công vô ích. Ðó là lý do ai nấy cũng nhường phần
làm và trình kệ cho giáo thọ Thần Tú.
-
Mọi người ai cũng nghĩ như vậy mà quên rằng sự giác ngộ về
phương diện tâm linh, nó không giống như những thông lệ thông
thường, mà nó căn cứ vào sự hiểu biết và tùy thuộc vào túc
duyên của mỗi người. Một người cao niên không hẳn là sự hiểu
biết hơn người ít tuổi. Một người học giỏi không hẳn là họ đã
thấy đạo trước người thiếu học, và cũng vậy một người giàu
sang không hẳn là tư cách của họ tốt hơn người nghèo nàn. Tất
cả những trường hợp đó phải cẩn thận mà suy xét. Là người học
Phật, chúng ta phải lấy lời dạy của chư Phật làm kim chỉ nam,
dùng tâm nhu hòa làm phương tiện thực hành, lấy giác tánh làm
sự nghiệp. Có được như vậy mới không cô phụ lòng mong mỏi của
chư Phật, chư Tổ. Việc Ngũ Tổ bảo mọi người trình kệ Kiến Tánh
là cốt yếu để cho tự mỗi người nói lên sự hiểu biết và giác
ngộ của mình. Như có lần đã nói, việc Tổ bảo trình kệ, trọng
tâm chính yếu là Tổ muốn trắc nghiệm Huệ Năng lần cuối cùng,
chứ không phải Tổ vì Thần Tú và đồ chúng trong chùa. Nhưng đây
là sự hiểu ngầm giữa Tổ và Huệ Năng mà thôi chứ mọi người
không có ai biết. Tuy nhiên mọi người chỉ tin tưởng vào Giáo
Thọ Thần Tú cho nên họ thiếu tự tin nơi chính mình, để rồi
cuối cùng mình cứ tùy thuộc vào người khác
-
Kinh Văn:
-
Thượng Tọa Thần Tú tự nghĩ: Các người kia không trình kệ, vì
kính nể ta là bậc Giáo Thọ, còn ta phải làm kệ trình Hoà
Thượng mới được. Nếu không Hòa Thượng đâu biết được chỗ kiến
giải cạn hay sâu ở tâm ta. Ý kệ của ta sắp trình, cầu được
pháp là thiện, cầu làm Tổ là ác chẳng khác nào lòng phàm phu
muốn đọat ngôi thánh. Nếu không trình kệ thì trọn đời chẳng
đặng Pháp. Thật là khó, thật là khó thay.
-
Trước Chùa Ngũ Tổ có một dãy nhà ba gian. Tổ định mời quan
Cung Phụng là Lư Trân vẽ bức hoạ Ðồ Lăng Già Biến Tướng và Ngũ
Tổ Huyết Mạch Ðồ để lưu truyền cúng dường.
-
Thượng Tọa Thần Tú làm kệ xong, nhiều lần muốn đem trình Tổ,
nhưng mỗi khi đến trước Tổ đường thì tâm thần tán lọan hoảng
hốt, mồ hôi đổ dầm dề khắp thân thể, như thế không sao trình
kệ được. Trước sau suốt bốn ngày, tổng cộng 13 lần việc trình
kệ vẫn chưa xong. Thượng Tọa Thần Tú mới suy nghĩ. Ta cứ tới
Tổ đường chép ở đó may ra Hòa Thượng đi đến trông thấy, như
Hòa Thượng khen hay thì ta liền ra mặt bái bạch: Kệ ấy thật
của Tú làm, nếu Hòa Thượng chê dở thì oan uổng cho ta ở chùa
mấy năm, thọ của người lễ cúng mà hành đạo chẳng ra chi.
-
Giảng:
-
Vì tất cả mọi người cho rằng ngài Thần Tú là thầy Giáo Thọ của
họ, cho nên mọi người đồng nhường phần trình kệ cho Thần Tú.
Riêng về ngài Thần Tú, sau khi mọi người không làm kệ thì ông
cảm thấy rất khó xử: Bởi vì theo ông nghĩ, làm kệ trình ý cầu
Pháp thì tốt, còn nếu cầu là Tổ thì không tốt. Nói cầu pháp
thì tốt, là vì nếu không trình kệ thì Tổ không biết được kiến
giải của mình ra sao, thì làm sao Tổ có thể truyền Pháp. Nói
cầu làm Tổ thì không tốt, bởi vì tất cả các pháp đều do tâm
sanh, do vậy mà khi khởi lên ý niệm cầu làm Tổ tức là khởi tà
niệm, ác kiến của phàm phu. Trong tình trạng khó xử đó cuối
cùng ngài Thần Tú quyết định phải trình kệ, tuy nhiên chính
ông, ông cũng nghi ngờ khả năng của mình. Ngài Thần Tú thầm lo
nghĩ: Không biết ông có đủ khả năng bước vào cửa Phật Pháp hay
không, vì vậy mà sau khi làm kệ xong, trong vòng bốn ngày, có
tới 13 lần ông muốn trình kệ lên cho Tổ xem, nhưng cứ mỗi lần
đến nhà trước để trình kệ thì tâm thần hoảng hốt rồi lại thối
lui trở về phòng. Lý do tạo nên sự khủng hoảng như vậy, là vì
không ai biết mình bằng mình, ngài thần Tú đã biết khả năng
của chính mình và thiếu sự tự tin ngay ở giờ phút đầu. Ðây là
cái khổ tâm nhất của ngài Thần Tú, vì ông chưa thật là người
có tài mà đại chúng cứ một mực suy tôn làm thầy của họ. Bây
giờ đây, nếu sự việc xảy ra, mọi người biết mình là người vô
dụng, thì những thần tượng từ hồi nào tới giờ, mà đại chúng đã
dành cho ông sẽ mất hết, quả thật là khổ tâm. Sau nhiều đêm
trằn trọc suy nghĩ, Ngài Thần Tú chợt nhớ tới việc Ngũ Tổ mời
ông Cung Phụng Lư Trân về chùa vẽ Lăng Già Biến Tướng và Ngũ
Tổ Huyết Mạch Ðồ tại hành lang trước nhà của Ngũ Tổ cư trú.
Cuối cùng Thần Tú tìm được một phương pháp đó là: Ông chỉ cần
viết bài kệ của ông lên trên hành lang ba gian đó thì thế nào
Tổ cũng thấy. Nếu được Tổ khen hay thì ông sẽ bước ra đảnh lễ
Tổ và nhận là của mình làm. Còn nếu không được Tổ khen thì
cũng không sợ mất mặt với đại chúng.
-
Kinh Văn:
-
Ðêm ấy, canh ba, Thượng Tọa Thần Tú không cho ai biết, tự cầm
đèn, chép kệ trên vách phía Nam Tổ Ðường, bày tỏ chỗ thấy của
tâm mình. Bài kệ như sau:
-
Thân là cây Bồ Ðề,
-
Tâm như đài gương sáng.
-
Luôn luôn phải phủi sạch,
-
Chớ để dính bụi nhơ.
-
Chép kệ xong trở về Tăng phòng, chẳng ai biết cả. Thượng Tọa
Thần Tú lo nghĩ: Nếu sáng ngày Ðức Ngũ Tổ thấy kệ hoan hỷ, thì
ta có duyên với Phật Pháp, trái lại nếu nói kệ không đúng thì
tự ta còn mê, nghiệp chướng đời trước nặng nề, không thể đắc
Pháp thật thánh ý khó lường. Thượng Tọa Thần Tú cứ lo nghĩ ở
trong phòng suốt đêm năm canh nằm ngồi không yên.
-
Ðức Ngũ Tổ vẫn biết Thượng Tọa Thần Tú chưa vào cửa đạo, nên
chẳng thấy tự tánh.
-
Sáng ngày Ðức Ngũ Tổ gọi ông Cung Phụng Lư Trân đến phía Nam
Tổ Ðường để vẽ họa đồ vào vách, khi trông thấy bài kệ thì Tổ
không cho ông Lư Trân vẽ, dạy rằng: Cung Phụng khỏi cần vẽ họa
đồ, ta làm nhọc ngươi từ phương xa đến. Kinh Kim Cang có câu:
Phàm những vật có sắc tướng đều giả dối. Hãy lưu bài kệ nầy
cho mọi người trì tụng, y theo bài kệ nầy mà tu thì khỏi đọa
ác đạo, y theo bài kệ nầy mà tu thì được lợi ích lớn lao. Ðức
Ngũ Tổ dạy các đệ tử thắp hương lễ kính và trì tụng kệ nầy hầu
sẽ được thấy tánh. Các vị môn nhân tụng kệ ai cũng khen ngợi:
Lành thay.
-
Giảng:
-
Nghĩ thế nào thì Thượng Tọa thần Tú làm thế ấy, sau khi chép
bài kệ lên trên vách, trở về phòng riêng ông hồi hộp lo âu, cứ
thế mà suốt cả năm canh không ngủ được, và ngồi đứng không
yên. Chúng ta thấy ngài Thần Tú trước khi viết kệ thì cũng lo
lắng khổ sở, sau khi viết kệ cũng lo lắng khổ sở, rõ ràng bả
vinh hoa phú quý, lợi danh trong thế gian nó làm cho con nguời
khổ như vậy, mà con người cứ rũ nhau lao đầu vào cho khổ. Nếu
Thượng Tọa Thần Tú đừng vì cái địa vị của một Giáo Thọ Sư, mà
là một người tầm thường nào đó biết an phận thì đâu có khổ như
vậy. Cho đến sáng Tổ gọi ông Lư Trân đến hành lang phía Nam để
vẽ đồ tướng, mới thấy bài kệ trên vách, nhân đây Tổ mới bảo
ông Cung Phụng Lư Trân không cần phải vẽ đồ hình nữa, bởi vì
tất cả các pháp hữu vi đều là hư vọng, cho nên có hình ảnh của
Lăng Già Biến Tướng và Ngũ Tổ Huyết Mạch Ðồ hay bài kệ nầy
cũng như nhau. Nên Tổ dạy ông Lư Trân thôi đừng vẽ nữa, đã vậy
Tổ còn dạy môn đệ phải thắp hương kính cẩn, lễ bái và
trì tụng: Nếu ai y cứ theo bài kệ mà hành trì thì được có lợi
lớn, người nào y cứ vào đây mà tu hành thời sẽ khỏi đọa ba
đường ác... Tư tưởng của Ngũ Tổ là tư tưởng của Kim Cang Bát
Nhã, vì vậy tất cả các tướng pháp không quan trọng đối với
ngài. Quả thật như vậy, nếu còn chấp tướng mình, tướng người,
tướng chúng sanh, tướng mạng số... Nếu còn chấp cái nầy nên
để, cái kia nên bỏ, thì còn chấp pháp, chưa phải là bậc hiểu
đạo thấy đạo. Ðối với tướng pháp, đối với mọi sự, mọi vật,
không nên chấp trước tướng trạng phát hiện, mà phải nên biết
một cách chân thật, nên thấy một cách chân thật, nên tin hiểu
một cách chân thật. Cho nên pháp tướng tức là chẳng phải pháp
tướng cho nên tạm gọi là Pháp tướng. Chỉ có Chư Phật là bậc
đại Giác Ngộ và chư Bồ Tát, chư Tổ là người có đủ tư cách nói
tất cả các pháp đều là hư vọng, ngoài ra, cũng câu nói nầy,
đối với những người chưa thấy đạo như chúng ta nói như thế
không được. Bởi vì, nếu những người mới vào đạo mà không nhờ
vào những pháp tướng giả tạm như tụng kinh, niệm Phật, tham
thiền, nhập định...thì hành giả ấy sẽ không có chỗ nương tựa
để hành trì. Ðại chúng nghe Tổ dạy như thế dĩ nhiên ai ai cũng
khen ngợi. Riêng về Thượng Tọa Thần Tú thì ông rất vui mừng vì
đã bỏ được cái gánh nặng ưu tư trong lòng từ mấy ngày qua.
-
Kinh Văn:
-
Ðến canh ba ngày ấy, đức Ngũ Tổ gọi Thượng Tọa Thần Tú vào Tổ
đường hỏi: Kệ ấy có phải của ngươi làm chăng?
-
Thượng Toạ Thần Tú bạch:
-
-
Bạch Thầy, thật của đệ tử làm nhưng không dám vọng cầu Tổ vị,
chỉ ngưởng mong Hoà Thượng từ bi xem thử coi đệ tử có chút trí
tuệ chi không?
-
Ðức Ngũ Tổ nói:
-
-
Bài kệ nầy chưa thấy được bổn tánh, chỉ đến ngoài cửa chứ chưa
vào được trong, sự thấy biết như vậy không thể cầu được vô
Thượng Bồ Ðề. Vô thượng bồ đề cần phải ở ngay lời nói mà biết
được bổn tâm, thấy được bổn tánh, gốc không sanh, không diệt,
bất cứ lúc nào cũng niệm niệm tự thấy, muôn pháp vốn không
ngăn ngại. Một niệm chơn thì tất cả đều chơn, muôn cảnh vẫn tự
như như, tâm như như đó là chân thật. Chỗ thấy như thế tức là
vô thượng Bồ Ðề. Vậy ngươi hãy lui ra suy nghiệm trong một vài
ngày, làm lại kệ khác đem trình ta xem, nếu kệ của ngươi vào
được cửa đạo, ta sẽ phú y pháp cho ngươi. Thượng Tọa Thần Tú
lễ Tổ bước ra, trải qua nhiều ngày vẫn không làm được kệ,
trong lòng hoảng hốt bất an, ví như ở trong mộng, đi đứng ngồi
nằm đều lo nghĩ buồn rầu.
-
Giảng:
-
Theo trong kinh văn cho chúng ta biết, đến canh ba Ngũ Tổ mới
gọi Thượng Tọa Thần Tú vào để hỏi về bài kệ. Tại sao Ngũ Tổ
không gọi một người nào khác mà lại gọi đích danh Thượng Tọa
Thần Tú? Ðiều nầy chứng tỏ rằng nhất cử nhất động ở trong
chúng Tổ đều biết hết. Việc đại chúng không có người dám trình
kệ, mà lại có kệ xuất hiện ở hành lang vậy thì kệ nầy do Thần
Tú làm chứ không ai xa lạ. Mặc dầu Tổ biết bài kệ của Thần Tú
nhưng Tổ muốn chính miệng của Thượng Tọa Thần Tú nói, có lẽ đó
là lý do Tổ gọi Thượng Tọa Thần Tú vào Tổ đường. Nhưng tại sao
Tổ lại phải đợi cho mọi người yên giấc Tổ mới nói chuyện riêng
với ngài Thần Tú? Tổ phải đợi cho mọi người đi ngủ hết mới nói
chuyện với Thần Tú là có lý do của Tổ, chúng ta sẽ lần lượt
tìm hiểu.
-
Như chúng ta biết, vào giấc sáng khi đọc bài kệ, Tổ hết lòng
ca ngợi, đã vậy Tổ còn kêu mọi người phải thắp nhang lễ bái để
mà tu theo tinh thần của bài kệ, việc nầy Thượng Toạ Thần Tú
đã biết. Do đó Thượng Toạ Thần Tú khi nghe Tổ truyền vào Tổ
đường thì trong tâm trạng của ông rất là mừng, ông nghĩ rằng
kệ của ông có lẽ được Tổ chấp nhận, vì vậy khi nghe Tổ hỏi,
bằng một giọng khiêm nhường ông kính cẩn thưa:
-
-
Bạch Thầy, Thật là con làm, nhưng con không dám tham vọng cầu
địa vị Tổ, mà chỉ mong Hoà Thượng từ bi xem thử đệ tử có chút
trí huệ chi không?
-
Bạch với Tổ xong trong tâm trạng chờ đợi, Thần Tú tưởng
là Tổ sẽ truyền trao y bát cho mình nào ngờ Tổ dạy:
-
-
Ông làm bài kệ nầy, chưa thấy được tánh, chỉ đến ngoài cửa,
chứ chưa được vào trong, sự thấy biết như vậy không thể cầu
được vô thượng bồ đề.
-
Những lời Tổ vừa dạy ngoài sự tưởng tượng, và dự đoán
của Thượng Tọa Thần Tú, bao nhiêu hy vọng trở thành là người
thừa kế của Ngũ Tổ đều tan biến như mây khói. Những điều giáo
huấn thẳng thắn của Tổ vừa mới nói, lý do nào khi sáng Tổ
không nói, mãi cho tới bây giờ chỉ có hai thầy trò Tổ mới dạy.
Ðến đây chúng ta mới thấy Ngũ Tổ là người hết sức tâm lý. Như
mọi người ai cũng biết Thượng Tọa Thần Tú là Giáo Thọ của tất
cả môn đệ thuộc Ðông Sơn Pháp môn, nghĩa là trên thì có Tổ
dưới thì có ngài Thần Tú, nếu Tổ công khai nói chỗ dở của Thần
Tú trước mặt đám đông môn đệ thì sau nầy liệu còn có ai phục
tùng Thần Tú nữa hay không? Chắc chắn là không, bởi vì từ hồi
nào đến giờ mọi người kính nể Thần Tú vì họ nghĩ ông là Giáo
Thọ của họ, và cũng là người có tài, cho nên họ mới chịu phục
tùng, nhưng bây giờ biết Thần Tú cũng chưa vào được ngưỡng cửa
Phật Pháp thì cũng như bao nhiêu người khác thôi, có gì dâu mà
phải phục tùng? Như vậy chúng ta có thể hiểu ý Tổ muốn nói
chuyện riêng với Thần Tú có hai lý do: Một là Tổ cũng thấy
Thần Tú có tài, nhưng chưa rốt ráo. Hai là Tổ muốn giữ thể
diện cho Thần Tú. Tổ phải khéo léo như vậy, mới có thể tránh
được những sự xáo trộn vô ích trong chúng.
-
Bây giờ đây chúng ta thử phân tích lý do tại sao Ngũ Tổ bảo
bài kệ của Thần Tú chưa thấy được bổn tánh, chỉ ở bên ngòai
chớ chưa vào được bên trong. Theo tinh thần bài kệ của
Thần Tú nói:
-
Thân là cây Bồ Ðề:
Ý
nghĩa cụ thể của câu nầy ví thân con người như cội Bồ Ðề là
chưa thoát ra khỏi thân tướng.
-
Tâm như đài gương sáng:
Ý
nghĩa câu nầy rất rõ ràng dụ cho tâm như đài gương sáng chói,
nghĩa chưa thoát ra khỏi tâm tướng.
-
Hai câu kế tiếp là muốn nói: Muốn cho đài gương luôn sáng chói
thì phải luôn luôn lau chùi chớ để dính bụi bặm. Như thế là
còn chấp vào hình tướng, và cũng vì chưa thoát khỏi tướng nên
còn phải mất nhiều thời gian và công phu để gọt dũa. Nói tóm
lại là bài kệ nầy còn chấp tướng, nên chưa thể ly tướng. Chưa
thể ly tướng thì không làm sao thấy được bổn tánh, vì vậy đức
Ngũ Tổ mới bảo: Ông làm bài kệ nầy, chưa thấy được tánh, chỉ
đến ngoài cửa, chứ chưa được vào trong. Nói về bài kệ của
Thượng Toạ Thần Tú, nếu đứng trên phương diện của những vị hữu
học, sơ phát tâm thì bài kệ nầy có tác dụng khuyến khích tu
học rất tốt. Vì vậy mà đức Ngũ Tổ dạy tất cả các môn nhân ai
ai cũng trì tụng. Ai trì tụng theo kệ đó thì khỏi đọa ác đạo
và được lợi ích lớn lao. Bởi vì giới tu hành không phải tất cả
đều được thượng căn thượng trí, mà có rất nhiều hạng người,
nếu không dùng bài kệ ấy cho những người sơ cơ mới học, để
tinh tấn tu tập thì khó tránh được những ô nhiễm của trần
gian. Nhưng đứng trên phương diện những bậc Bồ Tát vô học,
những người thấỵ tánh thì bài kệ nầy chưa thấy tánh.
-
Như có lần đã nói ở trên, sau lần gặp gở và đối thoại với
thanh niên Huệ Năng, Tổ mới bắt đầu bảo mọi nguời trình kệ.
Như vậy dụng ý Tổ bảo trình kệ, thật sự Tổ không nhắm vào
Thượng Tọa Thần Tú và chư đồ chúng, vì ngài biết trong số
những người nầy, kể cả Thượng Tọa Thần Tú cũng chưa phải là
người có đủ khả năng để đảm nhiệm chức vị Tổ Sư của Ðông Sơn
Pháp Môn. Tuy nhiên, để cho có sự công bằng thì ít, nhưng để
tránh một sự xáo trộn trong chúng thì nhiều, nên Tổ mới công
khai bảo mọi người trình kệ. Nếu Tổ không bảo chúng trình kệ
để trình bày cái thấy của mọi người, mà Tổ ngang nhiên truyền
y bát cho một người nào đó thì chúng sẽ không phục. Nếu người
được truyền ngôi vị Tổ Sư để thừa kế cho Ngũ Tổ là Thượng Tọa
Thần Tú thì trong chúng chắc sẽ không có, hoặc nếu có thì chỉ
có một số ít chỉ trích phê phán. Còn trường hợp không phải là
Thần Tú, cũng không phải là người trong chúng mà là Huệ Năng,
thì trong chúng sẽ có sự tranh dành, và như thế tình hình
trong chúng sẽ rất là xáo trộn. Do đó, như đã nói ở trên, lý
do Tổ bảo mọi người trình kệ kiến tánh là muốn trắc nghiệm
thanh niên Huệ Năng một lần cuối cùng trước khi giao trọng
trách, mà cũng làm cho mọi người nghĩ Tổ đã công bằng trong
việc lựa chọn truyền nhân. Trong thâm ý thì Tổ muốn trắc
nghiệm thanh niên Huệ Năng, nhưng chúng ta thấy Tổ cũng nâng
đỡ và muốn giúp cho Thần Tú. Như lúc Tổ gọi Thượng Tọa Thần Tú
vào Tổ Ðường, sau khi Tổ bảo thẳng là bài kệ kiến tánh của
Thần Tú chưa thấy tánh và ngài đã dạy:
-
-
Vô thượng bồ đề cần phải ở ngay lời nói mà biết được bổn tâm,
thấy được bổn tánh, gốc không sanh, không diệt, bất cứ lúc nào
cũng niệm niệm tự thấy, muôn pháp vốn không ngăn ngại. Một
niệm chơn thì tất cả đều chơn, muôn cảnh vẫn tự như như, tâm
như như đó là chân thật. Chỗ thấy như thế tức là vô thượng Bồ
Ðề.
-
Tuy nhiên, sau khi nghe Tổ dạy bài kệ của mình chưa kiến tánh,
Thượng Tọa Thần Tú hết sức kinh ngạc, nhưng cũng đỡ chút là
không mất thể diện với đại chúng. Thất vọng quá, nên khi trở
về phòng riêng trong tâm của ông hết sức bàng hoàng, vì thế mà
cả mấy ngày sau đó ông cảm thấy mình như người sống trong
mộng, và cuối cùng cũng không làm được bài kệ khác.
-
Như trên có nói là Tổ có ý ngầm khai thị cho Thượng Tọa Thần
Tú. Quả thật như vậy, phân tích kinh văn chúng ta thấy Ngũ Tổ
đã dạy:
-
-
Vô thượng bồ đề cần phải ở ngay lời nói mà biết được bổn tâm,
thấy được bổn tánh, gốc không sanh, không diệt, bất cứ lúc nào
cũng niệm niệm tự thấy, muôn pháp vốn không ngăn ngại. Một
niệm chơn thì tất cả đều chơn, muôn cảnh vẫn tự như như, tâm
như như đó là chân thật. Chỗ thấy như thế tức là vô thượng Bồ
Ðề.
-
Như chúng ta đã biết, bởi vì bài kệ của Thần Tú còn
đang kẹt trong cái thân tướng, và tâm tướng nên chưa thấy
tánh. Vì thế mà Tổ liền dạy về các hành trạng của Pháp Tướng.
Ngài muốn nói các pháp thì đồng tánh, nhưng tướng trạng khác
nhau, mỗi pháp hiển hiện ra mỗi cách khác nhau nên kêu là
tướng Pháp. Người thấy tánh khi không còn nhận tướng pháp, tức
nhiên không còn nhận tướng phi pháp. Pháp vốn không sanh, nên
không có pháp tướng. Bởi lẽ không sanh, nên không có diệt, nên
không có phi pháp. Khi biết rõ pháp không có ngã tánh, tức là
không phải hư vọng thì gọi là chân thật. Vì chân thật nên kêu
là Như Lai. Bổn tánh của Bát Nhã uyên nguyên là không hình
không tướng, do đó gọi là từ xưa vốn không có vật, tức là thể
Như Lai. Người tu cốt tìm trở lại cái bổn thể vô tướng không
sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không có, không không,
không còn, không mất, không một, không hai. Chỗ thấy như vậy
mới gọi là Vô Thượng Bồ Ðề.
-
Có lẽ bao nhiêu ngày đêm cố gắng để có đủ can đảm viết kệ, và
trình kệ, tưởng là được Tổ chấp thuận, nào ngờ sự thật không
như ý mong muốn, vì thế trong tâm Thượng Tọa Thần Tú buồn rầu
hốt hoảng, nên không để ý đến lời khai thị của Ngũ Tổ. Nếu
Thượng Tọa Thần Tú bình tâm một chút, suy nghĩ những lời dạy
của Tổ, thì sẽ thấy Tổ đã chỉ cửa kho báu để cho Thần Tú nói
riêng, và tất cả các môn đệ nói ít nhất hai lần để cho mọi
người bước vào thánh địa.(còn tiếp)
|