-
Sự Phục Sinh Của
-
Phật Giáo Tại Ấn Ðộ
-
Tác Giả: D. C Ahir
-
Dịch Giả: Trần Ðức Phi Bằng
-
--o0o--
-
-
-
Vào đầu thế kỷ thứ 19, Phật Giáo vẫn không được biết đến ở Ấn
Ðộ, nơi nó được sinh ra, lớn lên, và đạt đến những thành tựu
cao nhất. Không có chùa chiền, không có Văn Học, không có tín
đồ. Ngay cả tên Phật Ðà cũng bị xóa trong ký ức của người Ấn
Ðộ. Số phận của vua A Dục(Ashoka) và những vị vua Phật Giáo
khác, những Thánh Tăng và Học Giả đã có những cống hiến lớn
lao cho nền Văn Hóa, Nghệ Thuật và Văn Học Ấn Ðộ cũng tương
tự. Gia tài Phật Giáo dấu kín dưới lớp bụi và vôi gạch đổ nát
trong chân trời tối, được những viên chức tò mò của người Anh
bắt đầu phơi bày ra ánh sáng. Những trụ đá của Vua a Dục dĩ
nhiên là những đối tượng đập vào mắt họ. Câu chuyện lãng mạng
về những khám phá của ngành khảo cổ bắt đầu từ thủ đô của Ấn
Ðộ, vào năm 1750 khi Padre Tieffenthaler, khám phá ra Trụ
Delhi-Meerut trên Ðỉnh Delhi. Cùng trong năm đó, Allhabad-Trụ
Kosam ở Allhabad, cũng được khám phá. Tiếp theo đó là sự khám
phá Trụ Lauriya- Araraj ở Bihar vào năm 1784. Năm 1785, Trụ
Delhi-Topra ở Ferozshah Koat, Delhi được Ðại Úy Polier khám
phá. Ông giới thiệu một số hình vẽ những câu khắc trên đó cho
ông William Jones, người thiết lập Hội Á Châu Bengal ở
Calcutta vào năm 1784 để sưu tập, giải mã và dịch những mảnh
khảo cổ và các loại khác do những thành viên của hội tìm được.
-
Vào năm 1836, một số câu khắc trên Ðá và Trụ được
khám phá trong nhiều khu vực ở Ấn Ðộ. Nhưng không có người nào
biết cả nội dung, lẫn tên của người đã tạo ra chúng. Không một
học giả Ấn Ðộ nào có đủ trình độ để giải mã những câu khắc xưa
nhất của Ấn Ðộ đã được tìm thấy không những trên Ðá và Trụ mà
còn trên một số công trình kiến trúc. Vào năm 1837, James
Prinsep, một viên chức cao cấp của Sở Ðúc Tiền Ấn Ðộ ở
Calcutta, và là Tổng Thư Ký Hội Á Châu Bengal, sau nhiều năm
cần mẫn nghiên cứu và làm việc, đã thành công trong việc giải
mã những câu khắc. Vào tháng 7 năm 1837, ông xuất bản những
bản sao, sự phiên âm ngữ âm, và bản dịch ra Anh Ngữ những câu
khắc trên Trụ đã được biết đến trong lúc đó. Vào năm 1838,
Prinsep giãi mã và xuất bản bản dịch câu khắc trên Tảng Ðá
Girnar, trụ nầy được khám phá bởi Thiếu Tá James Tod vào năm
1822, và câu khắc trên Tảng Ðá Dhauli được khám phá bởi Ðại Úy
M. Kottoe vào năm 1837. Ông cũng làm một cuộc nghiên cứu tỷ
giảo hai câu khắc trên đá đó và thấy rằng chúng có cùng một
ngôn ngữ và nội dung.
-
Những chữ mở đầu của tất cả các chỉ dụ trên Trụ và
Tảng Ðá là: Người được chư thần thương yêu, Vua Piyadasi, đã
nói thế nầy. Ai là Vua Piyadasi, điều đó vẫn còn nằm trong bí
mật. May mắn thay, cũng vào khoảng thờ gian đó, George Turnour
dịch và ấn hành bằng tiếng Anh cuốn Mahavamsa, một cuốn sử
biên niên viết bằng tiếng Pali của Miến Ðiện. Chữ Piyadasi
thấy trong Mahavamsa giúp James Prinsep nhận ra rằng Vua
Piyadasi chính là Vua A Dục(Ashoka), là vị Hoàng Ðế Phật Giáo
vĩ đại). Sự giãi mã những chỉ dụ của Vua A Dục và sự nhận diện
ra Vua A Dục là một biến cố, mở ra kỷ nguyên mới. Nó làm phong
phú cho lịch sử Ấn Ðộ và Phật Giáo đến nỗi tất cả các sách
lịch sử đều phải viết lại.
-
Sự xuất hiện của ông Alexander Cunningham, vị Tổng
Giám Ðốc đầu tiên của Cơ Quan Nghiên Cứu Khảo Cổ Ân Ðộ vào năm
1821, là một ân huệ cho Ấn Ðộ nói chung và Phật Giáo nói
riêng. Không nghi ngờ điều gì ông là một nhà khảo cổ tiên
phong vĩ đại nhất, và là một vị anh hùng hổ trợ cho sự phục
sinh của phật Giáo ở Ấn Ðộ. Khám phá quan trọng đầu tiên của
ông thực hiện tại Sanchi. Mặc dù những công trình kiến trúc ở
Sanchi đã được khám phá năm 1818 nhưng mãi cho đến năm 1851,
Ðại Tháp mới được Cunningham mở ra. Bên trong Tháp, ông khám
phá ra xá lợi của hai vị đại đệ tử của Ðức Phật là Xá Lợi
Phất(Sariputta) và Mục Kiền Liên (Moggallana). Những xá lợi
nầy được mang về London, được giữ và chăm sóc cẩn thận cho đến
khi nó được trả về Ấn Ðộ vào thế kỷ sau. Tác phẫm Bhilsa Topes
hay là những Công Trình Kiến Trúc Phật Giáo Ở Trung Ấn vào
năm 1854 là một nghiên cứu toàn diện về những Chùa Chiền ở
Sanchi.
-
Sự nhiệt tâm và say mê của Cunningham trong lãnh
vực khảo cổ mở ra một viễn ảnh về việc nghiên cứu những công
trình kiến trúc cổ. Và một điều may mắn khác, một học giả
người Pháp M. Stanisla Julien, trong thời gian đó cũng xuất
bản một bản dịch những tường thuật về cuộc du hành của ngài
Huyền Trang, một nhà hành hương và chiêm bái nổi danh của
Trung Hoa đến Ấn Ðộ từ năm 629 đến năm 644 sau Tây Lịch.
Cunningham đi theo dấu chân của ngài Huyền Trang, viếng mọi
nơi mà nhà hành hương Trung Hoa đã diễn tả, và với sự làm việc
kiên nhẫn và sự bạo dạn lớn lao nhất, ông đã thành công trong
việc khám phá ra hầu hết các ngôi Chùa Phật Giáo. Trong tác
phẫm bất hủ của ông: Ðịa Lý Cổ Ðại Ấn Ðộ, Phần I, Thời Ðại
Phật Giáo, Cunningham tóm tắt lịch sử vinh quang của những di
tích và những công trình kiến trúc Phật Giáo rải rác khắp nơi
trên đất Ấn. Vào năm 1870, ông khai quật vùng lân cận Chùa Bồ
Ðề Ðạo Tràng, và xuất bản những kết luận của ông trong tác
phẩm tên là: Ðại Bồ Ðề, hay Ngôi Chùa Lớn Ở Bồ Ðề Ðạo Tràng.
Vào năm 1873-74 Cunningham khai quật Ðại Tháp Bharhut và cứu
vãn được nghệ thuật tinh tế nhất của Phật Giáo khỏi bị rơi vào
quên lãng. Tác phẩm được xuất bản của ông là: Tháp Barhut, đã
rọi một nguồn sáng vào nơi thờ phượng cổ nhất của Phật Giáo ở
vùng Trung Tâm ấn Ðộ. Những câu khắc của vua A Dục cũng được
Cunningham lưu ý và chính ông vào năm 1877 đã xuất bản văn bản
và bản dịch tất cả những câu khắc đã được biết đến.
-
Sự tái phát hiện những công trình kiến trúc Phật
Giáo, cũng như Văn Học Phật Giáo Pali và Sanscrit, giữ nó dưới
hình thức gốc hay dưới bản dịch, ở Miến Ðiện, Nepal, Tây Tạng,
và Trung Hoa đã tạo một nhận thức mới trong dân chúng Ấn Ðộ,
nhưng chưa một ai nghĩ đến sự phục hưng Phật Giáo ở Ấn Ðộ. Vào
năm 1885, thi sĩ Edwin Arnold, là tác giả nổi danh thế giới
với tác phẩm: Ánh Sáng Á Châu viếng thăm Bồ Ðề Ðạo Tràng và
kinh hoàng khi thấy tình trạng đáng thương của nơi thờ phượng
thiêng liêng nhất của tín đồ Phật Giáo. Về sau ông viết những
bài báo đăng trong tờ Telegraph mà ông là chủ biên, và lôi kéo
được sự lưu tâm của tín đồ Phật Giáo về tình trạng đáng thương
tâm của Bồ Ðề Ðạo Tràng, và thuyết phục họ cứu vãn nó tránh
khỏi phải bị tổn hại nhiều hơn. Cảm hứng bởi những bài báo,
Dharmapala, một tín đồ Phật Giáo trẻ ở Sinhala, viếng thăm
Sarnath và Bồ Ðề Ðạo Tràng vào tháng giêng năm 1891 để tận mắt
thấy những tình trạng của những ngôi Chùa Phật Giáo. Ông bị
kích động khi thấy tình trạng khủng khiếp của nơi thờ phượng
thiêng liêng nhất. Ở Bồ Ðề Ðạo tràng, nơi ông bị chấn động rõ
rệt khi dưới sự chăm sóc của Mahant, Chùa Ðại Bồ Ðề bị bỏ bê
và mạo phạm một cách đáng tủi thẹn. Vì vậy, ông kiên quyết
phục hồi vinh quang ngày xưa của những nơi thờ phụng thiêng
liêng và làm chúng trở thành những Trung Tâm Phật Giáo sống.
Với mục đích đó trong tâm, ông thành lập Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ
vào này 31 tháng 5 năm 1891. Không lâu sau đó, Nagarika
Dharmapala sắp đặt bốn vị Tăng Sĩ từ Miến Ðiện đến ở ngôi nhà
nghỉ Miến Ðiện tại Bồ Ðề Ðạo Tràng để chăm sóc Chùa Ðại Bồ Ðề.
Phong trào phục hưng Phật Giáo tại Ấn Ðộ khởi sự từ đó.
-
Phong trào phục hưng đạt được động lượng khi một
số người con của đất nước trở thành những tăng sĩ Phật Giáo và
phục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng Già. Người Ấn Ðộ
đầu tiên trở thành Tu Sĩ Phật Giáo trong thời hiện đại là
Mahavir Swami. Ông xuất gia ở Miến Ðiện vào năm 1890 và về sau
tạo Kushinagar thành trung tâm sinh hoạt của ông. Tiếp theo
sau Mahavir Swami là các ngài Ðại Ðức Dharmananda
Kosambi(1902), Ðại Ðức Bodhananda(1914), Bhadant Anand
Kausalayayan (1928), Mahapandit Rahul Sankriyayan(1930), và
Ðại Ðức Jagdish Kashyap(1934). sự xây dựng những ngôi Chùa mới
như Sri Dharmarajika Vihara ở Calcutta vào năm 1920, Buddha
Vihara ở Risalda Park, Lucknow vào năm 1925, Malagandhakuti
Vihira ở Sarnath vào năm 1931 và Buddha Vihira ở New Delhi vào
năm 1939, tạo thêm sức đẩy cho phong trào phục hưng.
-
Vào lúc nước Ấn Ðộ được trả độc lập vào năm 1947,
gia tài khổng lồ của Phật Giáo, Nghệ Thuật và Văn Học của nó
được nhiều người trên đất Ấn Ðộ biết đến. Khi Quốc Hội Ấn Ðộ
bận rộn phát hoạ một Hiến Pháp cho nước Ấn Ðộ tự do, vấn đế
quồc kỳ và Biểu Tượng Quốc Gia làm rối những nhà thành lập.
Cuối cùng họ hướng về gia tài Phật Giáo, nó tiêu biểu cho quá
khứ vinh quang của Ấn Ðộ. Cảm ơn sự sáng suốt của Quốc Hội.
Bánh Xe Pháp Luân và Ðầu Cột Sư Tử của Trụ Vua A Dục ở Sarnath
được chọn làm những Biểu Tượng Quốc Gia của nước Ấn Ðộ tự do.
Ba nhân vật kích động phía sau sự chọn lựa những Biểu Tượng
Văn Hóa Phật Giáo nầy làm Biểu Tượng Quốc Gia là: Bác Sĩ
Rajendra, Chủ Tịch Quốc Hội, đến từ Bihar, nơi Ðức Phật Giác
Ngộ; Jawaharlal Nerhu, Thủ Tướng, là người ngưỡng mộ Ðức Phật
và Vua A Dục, và Bác Sĩ B. R. Amberdkar, Tổng Thư Ký Quốc Hội
là người phát họa Bản Hiến Pháp, cũng là người thay đổi giòng
lịch sử trong một ít năm sau đó bằng cách đã hướng dẫn hàng
ngàn đồ đệ của ông theo Phật Giáo.
-
Vào ngày 22 tháng 7 năm 1947, Jawaharlal Nerhu đề
nghị trước Quốc Hội:
-
Kính thưa Ông Chủ Tịch, đây là một niềm hãnh diện
cho chúng tôi được đệ trình nghị quyết sau đây:
-
- Quyết định rằng Quốc kỳ của nước Ấn Ðộ sẽ có ba
màu nằm theo chiều ngang, vàng đậm, trắng, và xanh lá cây đậm
tỷ lệ bằng nhau. Ở trung tâm phần trắng, có một bánh xe mầu
xanh dương tương trưng cho Charkha. Hình Bánh Xe sẽ là hình
Bánh Xe thấy ở trên Ðầu Trụ Sư Tử Sarnath của Vua A Dục. Ðường
kính của bánh xe, sẽ tùy thuộc vào chiều rộng của dãi màu
trắng. Tỷ lệ chiều ngang đối với chiều dài của lá cờ thông
thường sẽ là 2.3.
-
- Nghị quyết nầy, thưa Ngài, được viết bằng ngôn
ngữ đơn giản, bằng kỷ thuật ngôn ngữ đơn sơ và không có sự sôi
nổi hay nồng nàn trong những lời mà tôi đang đọc. Nhưng tôi
chắc chắn rằng nhiều người trong tòa nhà nầy sẽ cảm thấy sôi
nổi và nồng nàn. Tôi cảm thấy trong giờ phút nầy, nằm xa đằng
sau Nghị Quyết và lá Quốc Kỳ mà tôi có vinh dự trình ra trước
tòa nhà nầy để được chấp thuận chứa đựng lịch sử, một lịch sử
được cô đọng của một giai đoạn ngắn trong sự sống còn của Quốc
Gia. Tuy nhiên, một đôi khi trong một giai đoạn ngắn, chúng ta
xuyên qua đoạn đường của nhiều thế kỷ. Không phải sự sống đơn
thuần là đáng kể, nhưng chính là điều mà một người thực hiện
trong kiếp sống ngắn ngủi nầy ở bên trong chúng ta; Không phải
chỉ một sự hiện hữu đơn thuần của một Quốc Gia là đáng kể,
nhưng chính là điều mà Quốc Gia đó thực hiện ở những giai đoạn
khác nhau trong sự hiện hữu của nó; và tôi mạo muội tuyên bố
rằng trong phần tư thế kỷ vừa qua, nước Ấn Ðộ đã sống và hành
động một cách cô đọng, và những nỗi xúc cảm đầy ắp trong lòng
của nhân dân không chỉ đại biểu cho một sự quyến rũ ngắn ngủi
vài năm, nhưng là một cái gì tuyệt đối hơn nữa .
-
Nerhu nói thêm:
-
Tôi xin thưa rằng, đây chính là niềm hãnh diện của
tôi, được gia phó đệ trình Nghị Quyết nầy. Giờ đây, thưa ngài,
tôi xin nói một vài lời về lá cờ nầy. Chúng ta sẽ thấy rằng có
một sự thay đổi nhỏ, từ cái mà trong nhiều người chúng ta đã
dùng trong những năm qua. Màu sắc thì không thay đổi, một màu
vàng nghệ đậm, một màu trắng và một màu xanh dương đậm. Trong
phần màu trắng, trước kia có hình Charkha tượng trưng cho giới
bình dân Ấn Ðộ, tượng trưng cho đại đa số quần chúng, tượng
trưng cho kỷ nghệ của họ và đến với chúng ta, từ thông điệp
của Mahatma Gandhi. Giờ đây biểu tượng Charkha được thay đổi
một ít trên lá cờ nầy, không loại bỏ hoàn toàn. Tại sao nó
được thay đổi? Nói một cách thông thường, biểu tượng trên một
mặt của lá cờ phải hoàn toàn giống như mặt kia. Ngược lại, sẽ
có khó khăn đối với những quy luật. Giờ đây hình charkha như
trước đây đã có mặt trên lá cờ nầy, có một bánh xe ở một bên,
và một cái trục ở một bên. Nếu quý vị nhìn mặt kia của lá cờ,
cái trục đi theo chiều kia và bánh xe đi theo chiều nầy; nếu
không như thế nó sẽ không cân xứng, bởi vì bánh xe phải hướng
về cực, không hướng về đuôi của lá cờ. Có sự khó khăn thực
tiễn nầy. Vì vậy sau khi suy nghĩ kỷ lưỡng chúng tôi đồng ý
rằng biểu tượng lớn lao đã chiếm cảm tình của dân chúng nầy
vẫn tiếp tục giữ, nhưng nó được tiếp tục giữ với một sự thay
đổi nhỏ, rằng là bánh xe vẫn ở đó, không còn hình Charkha, cái
trục và cái giải tạo ra sự lộn xộn nầy, phần chính của Charkha
vẫn ở đó, đó là bánh xe. Nhưng loại bánh xe nào chúng ta sẽ
dùng? Chúng tôi suy xét lại nhiều bánh xe, và lưu ý đến một
bánh xe nổi danh, xuất hiện ở nhiều nơi và tất cả chúng ta đều
đã thấy, bánh xe trên Ðầu Trụ Vua A Dục và ở nhiều nơi khác.
Bánh xe nầy là Biểu Tượng của nền Văn Hóa cổ Ấn Ðộ, nó là Biểu
Tượng của nhiều thứ, mà Ấn Ðộ đã trải qua nhiều thời đại. Vì
vậy chúng tôi nghĩ rằng Biểu Tượng Bánh Xe nầy sẽ ở chỗ đó và
chúng ta có bánh xe đó.
-
Nerhu nói thêm:
-
- Về phần tôi, tôi vô cùng hân hoan rằng trong ý
nghĩa nầy, một cách không trực tiếp, chúng ta đã kết hợp Biểu
Tượng nầy với lá cờ của chúng ta, nhưng trong một ý nghĩa, tên
của Vua A Dục, một trong những tên tuổi huy hoàng nhất, không
chỉ của lịch sử Ấn Ðộ mà còn của lịch sử thế giới. Chính trong
thời điểm xung đột, tranh giành và không khoan thứ nầy, tâm
hồn chúng ta phải quay trở về cái mà Ấn Ðộ đã trải qua trong
những ngày xa xưa.
-
Nghị quyết về lá Quốc Kỳ được Quốc Hội thông qua
không tranh cãi, Bánh Xe Pháp Luân tượng trưng cho Giáo Pháp
của Ðức Phật vào ngày 15 tháng 8 năm 1947 trở thành biểu tượng
của tự do, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân dân Ấn Ðộ.
-
Ðầu Trụ Sư Tử của Vua A Dục được chấp thuận như là Huy Hiệu
Quốc Gia, cũng tượng trưng cho Ðạo Phật. Bốn con sư tử hướng
ra bốn phương, tượng trưng cho tướng Sử Tử Rống của Phật Ðà
giảng dạy cho bốn phương.
-
Những nhà lập hiến cũng chấp thuận tư tưởng Quốc Gia Phúc Lợi
của Vua A Dục: Không có một bổn phận nào quan trọng hơn đối
với ta, hơn là tạo Phúc Lợi cho mọi người, Vua A Dục đã nói
như thế. Niềm ước muốn duy nhất của ông là làm cho dân chúng
hạnh phúc về mọi phương diện. Vì vậy ông theo đuổi châm ngôn:
Bahujana-Hitaya, Bahujana-Sukhaya. Nghĩa là: Vì lợi ích của
nhiều người, vì phúc lợi của nhiều người. Trong những việc
quốc sự, mặc dù Vua A Dục là một tín đồ Phật Giáo thuần thành,
nhưng sự cai trị của ông đặt nền tảng trên những lý tưởng
chung. Ông nâng đỡ Phật giáo, nhưng không bao giờ đàn áp những
tín nguỡng khác. Ngược lại ông còn trợ cấp cho họ. Thật vậy
chính sách của ông, được đánh dấu với sự hoàn tòan loại bỏ
tinh thần Quốc Gia gây hấn, trên một bình diện chính trị, và
sự cuồng tín trên bình diện tôn giáo. Ngay cả sau khi đặt Phật
Giáo làm Quốc Giáo, Vua A Dục cũng đã không chung chiếu với
những thế lực đen tối của đức tin mù quáng và sự thù nghịch
tôn giáo.
-
Ấn Ðộ ngày nay đã đi theo thể chế Chính Phủ Dân Chủ, và đời
sống dân chủ. Ở Ấn Ðộ, tư tưởng dân chủ cũng đã phát nguồn từ
những tín đồ Phật giáo. Ðoàn thể Tăng Già do Ðức Phật dựng nên
đặt nền tảng trên tinh thần dân chủ và hoạt động giống như
Quốc Hội ngày nay. Ðể nhấn mạnh điểm nầy, Jawalarlal Nerhu
trích nhận xét sau đây của Lord Zetland trong Khám Phá Ấn Ðộ:
-
-
Và điều nầy làm ngạc nhiên nhiều người khi biết rằng trong
những Cộng Ðồng Tín Ðồ Phật Giáo ở Ấn Ðộ hai ngàn hay hơn hai
ngàn năm trước chúng ta có thể tìm thấy những nguyên tắc cơ
bản của sự thực hành hệ thống Quốc Hội ngày nay. Phẩm giá của
Tăng Ðoàn được duy trì với sự ủy nhiệm một viên chức đặc biệt,
hình thức phôi thai của Vị Chủ Tịch trong Hạ Nghị Viện. Một
viên chức thứ hai được ủy nhiệm dể bảo đảm số Ðại Biểu qui
định, mẫu đầu tiên của Trưởng Ban Tổ Chức trong hệ thống của
chúng ta. Khi cuộc tranh luận đưa đến sự khác biệt về ý kiến,
vấn dề được quyết định bằng sự biểu quyết của đại đa số, sự
biểu quyết thực hiện bằng việc bỏ phiếu kín.
-
Bày tỏ những quan điểm tương tự ở Quốc hội và ngày 17 tháng 10
năm 1949, Bác Sĩ Ambedkar, vị Kiến Trúc Sư lớn của Hiến Pháp
Ấn Ðộ, nói: Vào ngày 26 tháng giêng năm 1950, nước Ấn Ðộ sẽ là
một nước Dân Chủ trong ý nghĩa rằng nước Ấn Ðộ từ ngày đó sẽ
có một chính phủ của nhân dân, vì nhân dân và cho nhân dân...
Không phải là nước Ấn Ðộ đã không biết thế nào là dân chủ. Ðã
có một thời nước Ấn Ðộ được xây dựng với những Cộng Hòa và gồm
nhiều nước quân chủ, và chúng được bầu cử hay giới hạn. Chúng
không bao giờ là tuyệt đối. Không phải rằng Ấn Ðộ đã không bao
giờ biết đến Quốc Hội và thủ tục Quốc Hội. Nghiên cứu về Ðoàn
Thể Tăng Già Phật Giáo cho chúng ta thấy rằng không những chỉ
có những Nghị Viện, mà Tăng Già còn biết tiến hành tất cả
những quy tắc thủ tục Nghị Viện mà chúng ta biết ngày nay. Họ
có những quy luật về kiến nghị, quyết Nghị, Số Ðại Biểu quy
định, Ðặc Trách Tổ Chức, Ðếm Phiếu, Bỏ Phiếu Kín, Vận Ðộng Phê
Bình, Việc Giữ Ðúng Nguyên Tắc, Nhiệm Kỳ...
-
Trong Tăng Già Phật Giáo, vị Chủ Tịch được gọi là
Asanaprajnapaka(thủ tọa). Kiến nghị được nêu ra ba lần trước
Ðại Chúng. Nếu mọi người đều im lặng, nó được coi như thông
qua không tranh cãi. Trong trường hợp bất đồng ý kiến, vấn đề
được đưa ra đầu phiếu kín của đa số. Phiếu kín được goi là
Salaka. Những người thâu thập phiếu kín được gọi là Salaka
Gahapaka. Như vậy sự giải quyết tranh cãi trong Tăng Già theo
một lề luật rất tiến bộ, và thật sự dân chủ.
-
Vào ngày 26 tháng Giêng 1950, nước Ấn Ðộ trở thành một nước
Ðộc Lập Cộng Hoà Dân Chủ, bảo đảm cho mọi người dân Công Lý,
Tự Do, Bình Ðẳng, và Huynh Ðệ. Vào ngày đó Dinh Phó Vương trở
thành trụ sở của Chủ Tịch nước Ấn Ðộ. Dinh thự tráng lệ
Rastrapati Bhavan, như được biết, có 340 phòng, 227 cây cột,
35 mái hiên và một dặm rưỡi hành lang. Trong Ðại sảnh Durbar
nơi dùng vào những buổi tiếp kiến của Phó vương dưới thời cai
trị Anh, mà vị Phó Vương ngồi trong chiếc ghế được trang sức
bằng bạc, ngày nay đặt một tượng Phật nhập định cao để ban
phúc cho những nhà lãnh đạo nước Ấn Ðộ hiện đại. Ðại Sảnh
Dunbar được vị Chủ Tịch dùng làm nơi cử hành những lễ phong
chức và trao những giải thưởng Quốc gia. Cạnh bên là Ðại Sảnh
A Dục, đặt theo tên Vua A Dục. Ðó là phòng khiêu vũ của Phó
Vương ngày xưa. Ngày nay, các vị Tân Bộ Trưởng phát lời tuyên
thệ ở đây. Những vị Ðại Sứ nước ngoài cũng trình Ủy Nhiệm Thư
lên Chủ Tịch Ấn Ðộ ở phòng nầy. Ðầu Trụ hình bò đực nổi tiếng
trên Trụ A Dục ở Rampurva, Bihar được nhìn thấy ngay trước lối
vào Ðại Sảnh A Dục. Trên chóp chóp của cái vòng Trung tâm cao
180 feet của điện Rashtrapati Bhavan, trên đó lá cờ Quốc Gia
bay phất phới, cũng gần giống như ngôi tháp Sanchi.
-
Sau khi độc lập, vấn đề có một kỷ nguyên Quốc Gia cũng được
dặt ra. Ðể thực hiện mục tiêu nầy, Hội Ðồng Cải Cách Lịch do
Bác sĩ Meghnath Saha được đề cử làm Chủ Tịch. Theo đề nghị của
hội Ðồng, Chính Phủ Ấn Ðộ chấp nhận Kỷ Nguyên Saka(Ðế Thích)
bắt đầu từ thời đại Ka Nhị Sắc Ca, một vi Vua Phật Giáo khác,
lên ngôi năm 78 sau Tây Lịch, và cai quản phần lớn Miền Bắc Ấn
cho đến năm 101. Kỷ Nguyên, khởi đầu từ Ca Nhị sắc Ca được
biết là Kỷ Nguyên Saka và được đưa vào Kỷ Nguyên Quốc Gia vào
ngày 22 tháng 3 năm 1957 tương ứng với ngày 1 tháng Chaitra
năm 1879. Năm Saka, giống như năm George, thường có 365 ngày,
và 366 ngày vào năm nhuần. Thông thường, tháng Chaitra có 30
ngày, và vào tháng nhuần thì cò 31 ngày. Các tháng Vaisakha,
Jaistha, Asadha, Sravana, và Phalguna là 31 ngày, và những
tháng còn lại Asvina, Kartika, Agrahayana, Pausa, Magha và
Phalguna có 30 ngày.
-
Nguyên tắc chủ đạo về chánh sách đối ngoại của Ấn Ðộ, được
Jawaharlal Nerhu, người xâ dựng nước Ấn Ðộ tân tiến, công thức
hoá, bao gồm Năm Nguyên Tắc về chung Sống. Công thức hóa những
nguyên tắc nầy, Nerhu đã cảm hứng từ chính sách chung sống hoà
Bình của Vua A Dục, và năm giới, những giới luật tối thiểu của
một tín dồ Phật Giáo tại gia, do Ðức Phật chế ra. Năm nguyên
tắc, được Nerhu công thức hoá, và đươc Hội Nghị Bandung của
các nước Á Châu xác nhận vào tháng 4 năm 1955 là:
-
1- Tôn trọng sự toàn vẹn và chủ quyền lãnh thổ của mỗi nước.
-
2- Không gây hấn.
-
3- Không xen vô việc nội bộ của nước khác.
-
4- Quyền lợi bình đẳng và tương quan.
-
5- Chung sống hoà bình.
-
Nghệ thuật Ấn Ðộ là nghệ thuật Phật Giáo. Thật vậy
tín đồ Phật Giáo là những người tiên phong trong mọi hình thái
nghệ thuật. Trong các công trình Phật Giáo ở Ấn Ðộ, những Ðộng
Ajanta là nổi tiếng nhất. Ðược chạm trên những đá sống, những
bức tranh giàu nghệ thuật điêu khắc và đẹp đẽ trên các bức
tường, trụ, và trần của một số động, chúng là những di tích
quý giá nhất của nghệ thuật Ấn Ðộ cổ. Chúng ta không nghi ngờ,
chúng thu hút một số lượng lớn nhất khách du lịch từ khắp nơi
trên thế giới. Nổi bậc là một con voi với một hoa sen trên vòi
từ bức tranh vẽ trên tường được lấy dùng làm biểu tượng cho Sở
Du Lịch Chính Phủ Ấn Ðộ.
-
Dù trên bình diện nghệ thuât hay kiến trúc, hình
ảnh Ấn Ðộ cổ thời cũng được bắt đầu với tín đồ Phật Giáo.
Những công trình Phật Giáo được xếp làm ba loại chính: Tháp,
những phòng Chùa và những động đục vào đá. Những thứ nầy được
khám phá rất nhiều khắp nước và là một nguồn cảm hứng cho các
nhà kiến trúc hiện đại. Ðặc biệt cổng vào Sanchi và cửa sổ
Ajanta được dùng làm kiểu mẫu cho nhiều toà nhà hiện đại. Một
toà nhà như vậy là tòa Viya Bhavan nổi danh ở Delhi, cổng
chính của nó là một diễn dịch hiện đại của Cửa Sổ Ajanta.
-
Biến cố quan trọng đầu tiên trong kỷ nguyện sau
khi độc lập, tập trung sự lưu tâm của quần chúng Ấn Ðộ vào
những đạo đức Phật Giáo, là quay trở về và phục hồi những xá
lợi của hai vị đại đệ tử lớn của Ðức Phật, Xá Lợi Phật và Mục
Kiền Liên, tại nơi yên nghĩ đầu tiên của chúng là Sanchi.
Những Xá lợi nầy được tìm ra bởi Alexxander Cunningham vào năm
1851 từ Ðại Tháp ở Sanchi, và được đem cất giữ cẩn thận ở Luân
Ðôn trong Viện Bảo Tàng Victoria và Albert. Với sự yêu cầu của
Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ, những xá lợi được Chính Phủ Anh hoàn trả
về Ấn Ðộ vào ngày 24 tháng 2 năm 1947. Do sự sắp xếp, xá lợi
trước tiên được đem tới Miến Ðiện bởi Daya Hewavitarne, một
người cháu của Anagarika Dharmapada, người đã thay mặt Hội Ðại
Bồ Ðề nhận tất cả những sở hữu của họ từ Viện Bảo Tàng nói
trên. Trải qua một năm rưỡi, những xá lợi được dân chúng Miến
Ðiện tôn thờ trước khi chúng tiếp tục hành trình về Ấn Ðộ.
Những xá lợi của ngài Xá Lợi Phất, và Mục Kiền Liên vào đất Ấn
Ðộ, sau gần một thế kỷ du hành ở Luân Ðôn, vào ngày 13 tháng 1
năm 1949, và được chào đón trên tàu H.M.I.S. Tir bởi Bác Sĩ
Kailash Nath Katju, Thống Ðốc miền Tây Bengal. Sau khi di
chuyển xá lợi từ tàu, xá lợi được đem về Tòa Nhà Chính Phủ với
một đám rước cờ hoa sặc sỡ, ở đây những xá lợi tạm thời được
giữ trong phòng Ðặt Ngai.
-
Xá lợi của ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đuợc ông
Jawaharlal Nerhu, Thủ Tướng nước Ấn Ðộ, trao cho Hội Ðại Bồ Ðề
Ấn Ðộ trong một buổi lễ công cộng tổ chức tại Calcutta vào
ngày 14 tháng 1 năm 1949. Một cuộc gặp gỡ công cộng có cả nửa
triệu người đại diện nhiều quốc gia tham dự, do Bác Sĩ K. N
Katju, Thống Ðốc Miền tây Bengal, làm chủ trì. Trong buổi lễ
lịch sử nầy, Jawaharlal Nerhu nói: Tôi đã đến nơi đây thay mặt
cho Chính Phủ Ấn Ðộ để chào mừng quý vị và nhận những xá lợi
nầy của hai người con lớn lao của đất nước Ấn Ðộ đã sống gần
2500 năm trước. Ðây là một hân hạnh cho tôi và cho Chính Phủ
mà tôi đại diện được tham dự trong dịp nầy, và trong lòng tôi
có một cái gì còn lớn lao hơn là cơ hội nầy. Có một chuổi
những con người vĩ đại đi qua tâm hồn tôi từ ngày mà Ðức Phật
sinh trưởng trên mảnh đất cổ xưa nầy và truyền bá ánh sáng Trí
Tuệ của ngài trong quốc gia nầy, và những quốc gia khác, và về
sau khi thông điệp mà ngài đã ban ra lập đi lập lại nhiều lần.
-
Quay sang những đại biểu các quốc gia Phật Giáo
láng giềng, Jawaharlal Nerhu nói: Nhiều người trong quý vị đến
từ những quốc gia xung quanh Ấn Ðộ, và có những vị còn xa hơn.
Tôi xin đón mừng quý vị ở đây. Ðối với quý vị cũng vậy, nếu
tôi có thể nói như vậy, là một chuyến về quê. Chúng ta đang
đón mừng chuyến về quê của những xá lợi nầy đã đi xa trên một
trăm năm về trước, chuyến về quê của những chân lý lớn lao. Ðó
cũng là chuyến về quê của nhiều nguời từ những vùng đất xa xôi
đã về đây trên trên nước Ấn Ðộ nầy, coi Ấn Ðộ hầu như quê
hương của mình, nếu tôi tôi có thể nói như vậy. Trong những
ngày xa xưa khi thông điệp của Ðức Phật dược truyền ra ngoài
đất nước của chúng tôi, và những nhà hành hương từ mảnh đất
nầy đi đến những đất nước khác. Ðến và đi xảy ra thường xuyên
và mối quan hệ nầy đã liên kết chúng ta lại với nhau. Ðó là
mối quan hệ tinh thần và không có một dính mắc chính trị nào
mà chúng ta buộc bằng những sợi dây lụa. Cuối cùng, giờ đây,
buổi lễ hôm nay lại một lần nữa mang lại những gắn bó đó.
Chúng ta hãy hy vọng rằng chẳng những chúng ta mà cả những
quốc gia khác nữa cũng sẽ chung sống trong hòa bình và chúng
ta sẽ không có sự xung đột. Nếu có một xung đột nào chúng ta
sẽ giải quyết bằng hoà bình và thiện chí.
-
Bác Sĩ K. N Katju, Thống Ðốc miền Tây Bengal,
người chủ trì buổi lễ, trong bài diễn văn ông nói: Hôm nay
chúng ta làm lễ chào mừng việc trở về nhà của hai nhân vật vĩ
đại sinh ra trên vùng đất cổ xưa nầy của chúng ta. Hai vị đại
đệ tử của Ðức Cồ Ðàm Phật Ðà, Ðấng Giác Ngộ, được ngài coi như
những người truyền bá và diễn dịch sáng chói nhất giáo pháp
tuyệt vời mà ngài đã giảng dạy để cứu độ loài người. Tên của
hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên quấn quít với tên của
Ðức Thế Tôn, và trải qua vô số thế hệ trong nhiều quốc gia,
hai ngài đã mang đến niềm an ủi và sự cảm thông. Một vị là
hiện thân của đức khiêm tốn, dịu dàng và kiên nhẫn, sự kiên
nhẫn vượt qua mọi hiểu biết, và vị kia, Mục Liền Liên, trí
thông minh sắc bén biện tài sắc sảo và nổi danh về thần thông.
Cả hai ngài là những vị đệ tử mà Ðấng Từ Phụ rất thương yêu và
chúng ta đang mừng đón hai ngài trở lại hôm nay. Những xá lợi
nầy rõ ràng là được thờ phụng dưới những chỉ thị của Vua A Dục
ở nhiều nơi trong Ấn Ðộ, nhân khi Giáo Pháp cao thượng của
Ðấng Từ Phụ không còn làm sinh động cuộc sống của chúng ta,
chúng ta đánh mất mọi sự hiểu biết ngay cả những địa danh
thiêng liêng gắn liền với tên của Ðức Từ Phụ và đệ tử của
Ngài.
-
Tiếo theo, Bác Sĩ Katju nói: Không phải là sự
trùng hợp ngẩu nhiên mà với sự lớn lên của ý thức Quốc Gia của
chúng ta, đã đến với chúng ta, trong một mức độ rộng lớn hơn,
và rộng lớn hơn, ý thức về sự tuyệt vời của Giáo Pháp được
giảng dạy trên đất Ấn Ðộ 2500 năm về trước, và dọc ý thức đó,
chúng ta cũng đã khám phá như là một sự kỳ diệu nhiều kho tàng
thiêng liêng của chúng ta. Trong những đống vụn của một ngôi
tháp đổ nát, chín mươi năm trước chúng đã tìm thấy những mớ
tro thiêng liêng nầy chúng ta được đưa đi xa qua Anh Quốc và
chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi đất nước thân yêu của
chúng ta được tự do và dùng Biểu Tượng Bánh Xe Chánh Pháp được
quay lần đầu tiên ở Sanath do Ðức Từ Phụ như là trung tâm của
mọi tình cảm và lòng trung thành mà hai vị đệ tử của Ngài lại
trở về. Bây giờ các ngài có thể yên nghỉ trong thanh bình, tôi
hy vọng, trong hàng trăm năm trên quê hương của họ ở Sanchi,
được mọi người dân Ấn Ðộ không phân biệt chủng tộc tín ngưỡng
hay mầu da, biết đến và tôn kính.
-
Bác Sĩ Shyma Prasad Mookerjee, Chủ Tịch Hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ,
khi nhận xá lợi từ Thủ Tướng, nói: Việc xảy ra hôm nay thực sự
là một sự việc lịch sử. Hai vị thánh lớn của Phật Giáo, ngài
Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên, vui mừng hơn tất cả mọi
người về niềm tin và sự tôn kính đối với Ðức Cồ Ðàm Phật Ðà.
Những xá lợi của hai ngài gợi nhớ cho chúng ta ảnh hưởng lớn
lao mà hai ngài đã tạo ra trong thời đại của họ và cao cả nhất
là với tư cách cá nhân, các ngài đã giữ vai trò thiết lập Giáo
Pháp của Ðức Phật trên nền tảng vững vàng và chắc chắn. Chúng
ta cũng tôn trọng các ngài như là biểu tượng của sự lớn lao đã
có lần thuộc về Ấn Ðộ, về sự cao vời của tâm linh mà nó đã đạt
được hàng ngàn năm về trước, và về niềm hy vọng mà nó có thể
đạt được trong tương lai vẫn còn chưa đến.
-
Trước khi được đem về Sanchi để thờ phụng xá lợi
của ngài Xá Lợi Phật và Mục Kiền Liên được đem đến nhiều nơi
trên đất Ấn để dân chúng có dịp tỏ lòng tôn kính đối với hai
đại đệ tử của Ðức Từ Phụ. Sự tiếp đón xá lợi nồng hậu nhất là
của dân chúng Bihar, nơi sinh và trưởng thành của hai ngài.
Vào ngày 26 tháng 3 năm 1949, xá lợi của hai ngài Xá Lợi Phất
và Mục Kiền Liên đi đến Patna và được năm chục ngàn người tiếp
đón với sự vui mừng và nồng nhiệt lớn lao. Phát biểu trong dịp
nầy, Bác Sĩ Sri Krisna Sinha, Thủ Tướng Bihar nói với niềm
kiêu hãnh chân thật và cảm tưởng biết ơn, lịch sử Bihar là
lịch sử thu nhỏ của Ấn Ðộ và hơn thế nữa trong một chiều hướng
nào đó, lịch sử của thế giới. Ấn Ðộ đã là nước dẫn đầu thế
giới qua nhiều thời đại và uy tín cho sự dẫn đầu đó là từ Ðức
Phật và đoàn thể đệ tử vô ngã của ngài.
-
Những lễ chào mừng sự trở về của xá lợi ngài Xá
Lợi Phất và Mục Kiền Liên được kết thúc với một cuộc lễ lớn
tạo Sanchi vào tháng 11 năm 1952 với sự hiện diện của Thủ
Tướng Ấn độ, Miến Ðiện, những nhà lãnh đạo Phật Giáo thế giới
và chư vị Ðại Ðức Tỳ Kheo. Phát biểu trong dịp nầy, Thủ Tướng
Ấn Ðộ, Jawaharlal Nehru, nói rằng ông thấy trong giáo lý của
Ðức Phật một con đường dẫn đến tiến bộ thịnh vượng và rằng ông
đã lấy việc làm cho người khác biết sự rọi sáng nầy như là sứ
mạng suốt đời của ông. Ông nói thêm rằng việc trở về quê hương
của những xá lợi có một ý nghĩa sâu xa hơn cho tâm hồn ông và
ý nghĩa được nhận thấy khi tất cả chúng ta đã tạo nên những
ngôi Chùa sống trong tim của chúng, thờ phụng những kỷ niệm cổ
xưa để làm kim chỉ nam cho thế giới hổn mang ngày nay. Kết
luận, ông Nehru nói: Ngoài cuộc hội họp nầy, một hạt mầm sẽ
đâm chồi và hạnh phúc sẽ lan truyền. Như vậy những cuộc lễ ở
Sanchi mở ra một viễn cảnh mới cho sự phục sinh của Phật Giáo
ở Ấn Ðộ.(còn tiếp)
|