-
Tịnh Ðộ &
-
Hành Nghiệp Vãng Sanh
-
Thông Trí
-
--o0o—
-
-
A-
Hoa Khai Kiến phật
-
Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Ðộ trung
-
Cửu Phẩm Liên Hoa vi Phụ Mẫu
-
Hoa khai kiến Phật Ngộ vô sanh
-
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ
-
Trong
vũ trụ có vô lượng vô số thế giới. Trong số những thế giới đó
có: Thế giới thanh tịnh, thế giới ô uế, thế giới đau khổ, thề
giới an vui. Có thế giới mới thành hình, có thế giới sắp tiêu
diệt. Có thế giới thiên về tinh thần, có thế giới thiên về vật
chất. Theo Ðức Thích Ca ngài nói trong vô lượng vô số thế giới
đó cũng có vô lượng vô số cảnh Tịnh Ðộ. Nói đến Tịnh Ðộ thì
theo Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói:
-
-
Phương Ðông có Ðông Phương Tịnh Ðộ(Nước Hoan Hỷ) Giáo chủ ở
cõi nầy là Ðức Phật A Súc và Ðức Phật Tu Di Ðảnh.
-
-
Phương Ðông Nam có Ðức Phật Sư Tử Âm và Ðức Phật Sư Tử Tướng.
-
-
Phương Nam Tịnh Ðộ có Dức Phật Hư Không Trụ và Ðức Phật Thường
Diệt.
-
-
Phương Tây Nam Tịnh Ðộ có Ðức Phật Ðế Tướng và Ðức Phật Phạm
Tướng.
-
-
Phương Tây Tịnh Ðộ có Ðức Phật A Di Ðà và Ðức Phật Ðộ Nhất
thiết chúnh sanh Khổ Não
-
-
Phương Tây Bắc Tịnh Ðộ có Phật Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương
Thần Thông và Ðức Phật Tu Di Tướng
-
-
Phương Bắc Tịnh Ðộ có Phật Vân Tự Tại và Vân Tự Tại Vương.
-
-
Phương Ðông Bắc Tịnh Ðộ có Ðức Phật Hoại Nhất Thiết Thiết Gian
Bố Úy.
-
Ngoài
ra còn có cõi Tịnh Ðộ khác như:
-
- Ðâu
Suất Tịnh Ðộ của Ðức Phật Di Lặc. Như vậy khi nói đến Tịnh Ðộ
là nói đến các cảnh Tịnh Ðộ như đã nêu ở trên, nhưng tại sao
gần như tất cả mọi người chỉ có biết mỗi một cảnh Tịnh Ðộ của
Ðức Phật A Di Ðà? Như chúng ta biết Kinh Ðiển do Ðức Phật nói
có hai loại: Hữu Vấn Hữu Thuyết, và Vô Vấn Tự Thuyết. Hữu Vấn
Hữu Thuyết như trường hợp Kinh Lăng Nghiêm..v..v.. Loại Vô Vấn
Tự Thuyết như Kinh A Di Ðà..v..v.. Căn cứ vào kinh điển đề cập
đến hạnh nguyện Ðức Phật A Di Ðà ta thấy:
-
1-
Kinh Di Ðà là một bộ kinh nói rõ về quốc độ thanh tịnh và hạnh
nguyện của Ðức A Di Ðà. Tất cả các chúng sanh trong cõi đó
không có điều khổ não, y báo trang nghiêm, chánh báo sung mãn,
chỉ hưởng những điều vui. Từ lầu các cho đến các cỏ cây bông
hoa, tất cả đều cấu tạo bằng chất lưu ly pha lê..v..v.. Ngay
cả những lúc gió thổi thông reo đều phát ra những pháp âm vi
diệu để giáo hóa chúng sanh như đã được diễn tả:
-
-
Thích Ca nguyện độ Ta Bà
-
Di Ðà
nguyện mở cửa nhà Lạc Bang
-
Mở ao chín phẩm sen vàng
-
Xây
thành bá bảo độ đàng thất trong
-
Lưu
ly quả đất sáng ngần
-
Lầu
châu các Phật mười phần trang nghiêm
-
Hoa
trời rưới cả ngày đêm
-
Có
cây rất báu có chim rất kỳ
-
Lạ
lùng cái cảnh phương tây
-
Mười
phương cõi Phật sánh tày cũng thua
-
Phân
quang vui vẻ bốn mùa
-
Nước
reo pháp Phật gió khua nhạc trời
-
Di Ðà
có thệ một lời
-
Mở ra
cửa ấy tiếp người vãng sanh
-
Mười
phương ai phát lòng lành
-
Nhất
tâm mà niệm hồng danh của ngài
-
Hằng
ngày cho đến hôm mai
-
Niệm
từ mười tiếng đến vài ba trăm
-
Khi
đi khi đứng khi nằm
-
Chuyên trì niệm Phật lòng chăm phát nguyền
-
Ðược
sanh về cõi bảo liên
-
Là
nơi Cực Lạc ở miền Tây Phương
-
Ðến
khi thọ mạng vô thường
-
Thì
Ngài phóng ngọn hào quang rước liền
-
Biết
bao phước Ðức nhân duyên
-
Ðã về
Cực Lạc còn phiền não chi
-
Sự
vui trời cũng chẳng bì
-
Ðêm
đêm thong thả ngày thì vui chơi
-
Sống
lâu kiếp kiếp đời đời
-
Không
già không chết không dời đi đâu.
-
Cảnh
Tây Phương Tịnh Ðộ của Ðức Phật A Di Ðà là một trong các cảnh
Tịnh Ðộ của mười chư Phật có đầy đủ y báo, chánh báo ..v..v..
có lẽ đây là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng khiến
cho tất cả chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề ai cũng muốn sanh
về cõi Tịnh Ðộ nầy.
-
2- Lý
do thứ đến là phương pháp tu tập sanh về thế giới nầy rất là
giản dị, chẳng hạn như phương pháp niệm Phật. Phương pháp nầy
đi bất kỳ nơi đâu, và trong lúc làm bất kỳ việc gì cũng có thể
trì niệm một cách dẽ dàng. Nghĩa là nơi chốn thực hành phương
pháp nầy không bị giới hạn.
-
3-
Bên cạnh đó chúng ta còn thấy tùy theo nghiệp lực và nguyện
lực của bất kỳ một người nào dầu cho tàn ác đến cách mấy chăng
nữa nhưng chỉ cần có một niệm thiện thì phước báu đó cũng đủ
dẫn dắt sanh về Cực Lạc và dự trong Cửu Phẩm Liên Hoa. Theo
Kinh Thập Lục Quán, Cửu Phẩm Liên Hoa được xếp theo thứ tự:
-
a-
Thượng Phẩm Thượng Sanh
-
Những ai khởi lên tâm chí thành, tâm thâm trọng, và phát
nguyện Ðại Thừa để tu pháp Niệm Phật khi lâm chung được thấy
Tam Thánh Chúng nhiều vô lượng, có trăm ngàn chúng đại Tỳ
Kheo và vô số chư thiên cùng cung điện thất bảo hiện ra
trước mắt. Tự thân của hành giả ngồi trên đài sen, chỉ trong
giây lát vãng sanh về nước Cực Lạc. Về đến ao thất bảo hoa
sen nở liền, ngay tức khắc người ấy nghe Pháp Ðại Thừa, tâm
trí mở mang, chứng ngay quả Vô Sanh Pháp Nhẫn. Sau đó có thể
đi khắp đó đây trong mười phương và được chư Phật thọ ký
-
b-
Thượng Phẩm Trung Sanh
-
Những ai nghe pháp đại thừa mà tâm không kinh sợ, tin tưởng
tuyệt đối vào lý nhân quả, luôn luôn niệm Phật, làm được
những phước thiện gì đều hồi hướng cùng sanh về nước Cực
Lạc. Người ấy khi lâm chung, được thấy một nghìn Ðức Hóa
Phật của A Di Ðà, Tam Thánh và vô số chư Thánh Chúng đến
tiếp dẫn. Tư thân của người ấy ngồi trên sen vàng tía, và
chỉ trong một niệm đã đến ao thất bảo, sau đó một ngày một
đêm hoa sen mới nở. Nhờ phước báu nên khi hoa sen vừa nở
hành giả gặp được hào quang của Chư Hóa Phật và Thánh Chúng
nên hành giả mới được huệ nhãn. Cũng nhờ mở đuốc huệ nhãn
nên hành giả nhớ lại những phước báu đã làm từ đời kiếp
trước, tất cả đều đúng với Ðệ Nhất Nghĩa Ðế. Sau đó bảy ngày
kể từ lúc hoa sen nở, người đó mới được thấy Phật, và trải
qua một tiểu kiếp mới chứng được quả Vô Sanh Pháp Nhẫn.
-
c-
Thượng Phẩm Hạ Sanh
-
Hạng
người nầy cũng vậy, biết tin nhân quả Pháp Ðại Thừa, nhưng chỉ
mới phát tâm vô thượng chứ chưa thực hành đúng mức. Tuy nhiên
vì nghĩ đến nỗi khổ của mọi người nên hồi hướng cầu nguyện cho
chúng sanh, để tất cả đồng sanh về Cực Lạc. Nhờ công đức đó
nên khi lâm chung sẽ thấy được năm trăm vị Hóa Phật đón tiếp.
Tự thân người đó lên ngồi trên hoa sen, hoa xếp lại, và nương
theo hào quang của Chư Hóa Phật đến ao thất bảo một ngày một
đêm hoa mới nở. Sau đó bảy ngày mới thấy được Chư Phật, tuy
nhiên vì chưa đủ phươc báu nên chưa thấy được tướng tốt. Sau
đó ba tuần mới thấy được 32 tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của
Chư Phật. Lúc bấy giờ người ấy mới đủ phước báu và được hầu
Chư Phật, nghe thuyết pháp đại thừa Bách Pháp Môn Luận và được
trụ vào Hoan Hỷ Ðịa.
-
d-
Trung Phẩm Thượng Sanh
-
Hạng người chăm ăn chay giữ giới, niệm Phật tất cả đều hồi
hướng đến chúng sanh đển cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nhờ
phước báu đó nên khi lâm chung Chư Phật và Chư Thánh Chúng
phóng hào quang tiếp đón. Ngay trong giây phút lâm chung đó,
hành giả được nghe chư Phật thuyết giảng về lý Vô Thường,
Khổ, Không, Vô Ngã. Nghe xong pháp vi diệu, tự thân người đó
ngồi trên hoa sen, do nhờ phước lực nên người đó khởi tâm
cung kính đảnh lễ mười phương chư phật. Khi đảnh lễ xong,
vừa ngước đầu lên thì hoa sen cũng vừa sanh về cõi cực lạc.
Tại nơi ao thất bảo hành giả phải đợi cho đến khi hội đủ
phước báo hoa sen mới nở. Lúc bấy giờ hành giả chưa được
thấy Phật, tuy nhiên nhờ có gió thổi thông reo, chim Bạch
Hạc, Anh Võ, Xá Lợi, Ca Lăng, Tầng Già luôn luôn ca hát lập
lại pháp âm vi diệu do Ðức A Di Ðà thuyết, cho nên người ấy
được nghe pháp Tứ Ðế và chứng quả A La Hán.
-
e-
Trung Phẩm Trung Sanh:
-
Hạng
người nầy chỉ biết niệm Phật trong thời gian ngắn một ngày một
đêm, hoặc tu trì Bát Quan Trai Giới. Người ấy đem công đức
Niệm Phật hoặc tu Bát Quan Trai Giới để hồi hướng đến tất cả
chúng sanh để cầu sanh về Cực Lạc. Nhờ phước báu đó nên khi
lâm chung được thấy Chư Hóa Phật và chư Thánh Chúng. Tự thân
người ấy ngồi trên đài sen thất bảo. Hoa sen xếp lại, nương
hào quang của Chư Phật đến ao thất bảo. Sau đó bảy ngày đêm
hoa sen mới nở. Nhờ khởi tâm cung kính nên người ấy lạy và tán
thán chư Phật, nghe pháp Ðại Thừa đắc được sơ quả. Với tâm bất
thối chuyển, người ấy trải qua nửa tiểu kiếp mới đắc quả A La
hán.
-
f-
Trung Phẩm Hạ Sanh:
-
Hạng người nầy chưa bao giờ biết được Phật Pháp, và cũng
chưa bao giờ nghe pháp Ðại Thừa, tuy nhiên nhờ có lòng nhẫn
tu, hiếu đạo với cha mẹ, cho nên giờ phút sắp lâm chung được
gặp thiện tri thức chỉ bảo, nên người ấy khởi tâm niệm sanh
về Cực Lạc, đồng thời người ấy chú tâm nghe vị thiện tri
thức kia tán dương về nước Cực Lạc và hạnh nguyện sâu rộng
của Ðức Phật A Di Ðà. Nghe vừa xong thì mạng cũng vừa lâm
chung. Nhờ phước lực đó nên trong khoảng thời gian bằng co
duỗi bàn tay người ấy được sanh về Cực Lạc. Hạng người nầy
sanh về Tây Phương Cực Lạc nhờ nơi ý và nguyện lực, cho nên
chưa được thấy Phật và những cảnh đẹp ở chung quanh ao thất
bảo, bảy ngày sau, tính từ lúc lâm chung người ấy mới được
thấy và nghe Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát và Ðức Ðại Thế Chí Bồ
Tát nói pháp, nghe và thọ trì người ấy đắc được sơ quả. Sau
đo một tiểu kiếp mới đắc được quả A La hán
-
g-
Hạ Phẩm Thượng Sanh
-
Hạng nguời nầy không tin Phật, không tin nhân quả, và tạo
nhiều thứ nghiệp quả. Tuy nhiên trong tâm niệm có nhân bố
thí. Nhờ ý niệm đó nên khi sắp lâm chung gặp được chư thiện
tri thức hướng dẫn nói lên Kinh Ðiển Ðại Thừa và dạy niệm
Phật. Nhờ công đức đó nên diệt được trọng tội từ năm mươi ức
kiếp. Giây phút lâm chung được thấy Chư Hóa Phật, thấy hóa
thân của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, và Ðức Ðại Thế Chí Bồ Tát
đến rước. Tự thân người ấy nương theo hào quang của các Hóa
Phật và Bồ Tát bay về ao thất bảo. Sau đó bốn mươi chín ngày
hoa sen mới nở và được nghe Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và Ðức
Ðại Thế Chí Bồ Tát thuyết pháp đại thừa. Nghe vi diệu pháp
liền phát khởi tâm vô thượng đạo. Nhờ công đức nghe pháp,
nhờ gắng công tu tập, nên mười tiểu kiếp sau mới đắc chứng
trên bực sơ địa
-
h- Hạ
Phẩm Trung Sanh
-
Hạng
người nầy phá trai phạm giới, trộm cắp của thường trụ, hạng
người nầy lúc sắp lâm chung, những hình tướng độc ác của địa
ngục hiện ra như thấy có lửa dữ trong địa ngục bốc lên. Trong
lửa dữ đó vang vọng những tiếng kêu thảm thiết. Tuy nhiên nhờ
có niệm từ nên cũng chính trong giây phút đó được gặp thiện
tri thức khuyến tu và tán dương công đức của Ðức Phật A Di Ðà.
Nhờ phước đức nầy nên dứt được tội sanh tử tám mươi ức kiếp,
các tướng ác nơi hỏa ngục kia trở thành gió mát thanh lương,
thổi đưa các thứ hoa đẹp đến bên cạnh người lâm chung. Trên
hoa có các Ðức Hóa Phật, Bồ Tát đón người sắp lâm chung về Cực
Lạc. Vì nghiệp lực còn quá nặng nên khi về đến Cực Lạc phải ở
trong bào thai(hoasen) sáu tiểu kiếp hoa mới nở, sau đó nghe
chư thánh chúng giảng kinh Ðại Thừa và phát khởi tâm Bồ Ðề.
-
i- Hạ
Phẩm Hạ Sanh:
-
Hạng
người nầy dầu lỡ gây tạo tội ác ngũ nghịch, thập ác..v..v..
tuy nhiên sau đó cũng có hối lỗi, cho nên trong giây phút lâm
chung mặc dầu thấy những cảnh khổ nơi A Tỳ Ðịa Ngục, nhưng nhờ
phước báu nên gặp được chư thiện tri thức khuyên nhắc niệm
Phật. Người ấy chỉ niệm đến mười niệm thì dứt được sanh tử từ
tám mươi ức kiếp, sau đó chính người ấy thấy hoa sen vàng tươi
đẹp hiện ra trước mắt. Tự thân người ấy nương ngồi trên hoa
sen sanh về cực lạc. Sau đó mười hai tiểu kiếp hoa mới nở,
được thấy Ðức Quán Thế Âm và Ðức Ðại Thế Chí Bồ Tát nói pháp.
-
B-
Hiện Tượng Lúc Lâm Chung
-
Căn
cứ kinh điển nói về sự lâm chung và Cửu Phẩm Liên Hoa cho
chúng ta biết, hành giả nhờ sự tu tập, hoặc có niệm nhân từ mà
đới nghiệp vãng sanh, phẩm bực cao hay thấp là do sự thành tâm
của mỗi người mà đạt được kết quả khác nhau. Theo biện chứng
đới nghiệp vãng sanh, giây phút quan trọng nhất của đời người
là giây phút lâm chung. Sự biểu hiện trên người hoặc trên nét
mặt, cũng như những hành động của người lâm chung, mà thân
nhân hiện đời có thể đoán người sắp lâm chung đó sẽ sanh về
đâu. Những hình tướng đó như sau:
-
1-
Phước báo sanh về cõi trời ta sẽ
thấy
-
01-
Khởi lòng thương mến mọi người
-
02-
Phát khởi thiện niệm
-
03-
Lòng thương vui vẻ
-
04-
Chánh niệm rõ ràng
-
05-
Không có điều hôi hám
-
06- Sống mũi không xiêu vẹo
-
07- Lòng không giận dữ
-
08- Của cải bà con lòng không lưu luyến
-
09- Mặt trong sáng
-
10- Ngước mắt lên mĩm cười, và nghĩ tưởng
đến thiên cung
-
2-
Nghiệp Duyên Sanh Vào Nhân Ðạo Ta
Sẽ Thấy:
-
01-
Ðến lúc chết hay khởi niệm lành
-
02-
Thân không đau khổ
-
03-
Nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ
-
04-
Con trai con gái sanh lòng thương
xót và gần gũi
-
05-
Ðối với việc lành hay việc dữ
lòng không lầm lẫn
-
06-
Tâm tánh chánh trực không dua
nịnh
-
07-
Rõ biết bà con bạn bè
-
08-
Thấy bà con chăm sóc sanh lòng
vui mừng
-
09-
Di chúc việc nhà
-
10-
Sinh lòng thanh tịnh, thỉnh Phật Pháp Tăng đến để đối diện quy
y
-
3-
Nghiệp Duyên Ðọa Vào Bàng Sanh Ta Sẽ Thấy
-
01-
Yêu mến vợ con một cách tha thiết
-
02-
Ngón tay và ngón chân co quắp
-
03-
Khắp mình mẩy toát mồ hôi
-
04-
Tiếng nói khò khè
-
05-
Miệng thường ngậm đồ ăn
-
4-
Nghiệp Duyên Ðọa Vào Ngã Quỷ Ta
Sẽ Thấy
-
01-
Ưa liếm môi miệng
-
02-
Thân nóng như lửa
-
03-
Thường lo đói khát và hay nói đến
ăn uống
-
04-
Mắt thường trừng lên mà không
nhắm
-
05-
Hai mắt khô như chim gỗ
-
06-
Ðầu gối bên phải lạnh trước
-
07-
Tay bên phải thường nắm lại, điều nầy biểu hiện cho sự bỏn xẻn
-
5-
Nghiệp Duyên Sanh vào Ðịa ngục Ta
Sẽ Thấy
-
01-
Gặp con trai, con gái của mình bà
con quyến thuộc đều nhìn kẻ sắp
-
chết
bằng con mắt ghét bỏ
-
02-
Người sắp chết đưa hai tay rờ mó
trên giữa hư không
-
03-
Thiện tri thức dầu có chỉ bảo
nhưng người sắp lâm chung ấy không
-
chịu
nghe theo.
-
04-
Người sắp chết ấy kêu gào than
khóc.
-
05-
Ði đại tiện và tiểu tiện mà người
sắp chết vẫn không hay biết gì
-
06-
Nhắm nghiền hai mắt
-
07-
Thường hay che mặt hoặc úp mặt
-
08-
Nằm nghiêng mà ăn uống
-
09-
Gót chân, đầu gối luôn luôn run
-
10-
Sống mũi xiêu vẹo
-
11-
Mình mẩy miệng mồn luôn luôn hôi
hám
-
12-
Mắt bên trái hay động đậy
-
13-
Hai mắt đỏ ngầu
-
14-
Úp mặt mà nằm
-
15-
Thân hình co rút và tay bên trái
chắn xuống đất mà nằm
-
Nếu
những thân bằng quyến thuộc của người lâm chung thấy một trong
các trường hợp theo như trong Kinh Thủ Hộ Quốc Giới diễn tả
thì phải tự đặt mình trong vai trò của một vị Ðại Thiện Tri
Thức nhắc nhở ca ngợi cảnh giới lạc bang cho người sắp lâm
chung nghe. Có được như vậy chúng ta biết người lâm chung có
thể được dự vào ít nhất trong ba phẩm cuối cùng của chín phẩm
liên hoa.
-
Tuy
nhiên muốn biết sanh về nơi đâu, phải chính tự mình nỗ lực tu
tập tạo điều phúc thiện, thì chắc chắn giây phút cuối cùng của
cuộc đời ta sẽ có được từ một đến mười niệm mà tâm không loạn
động.
-
C-
Kết Luận
-
Nhìn
chung chúng ta thấy hạnh nguyện của Ðức Phật A Di Ðà quả thật
vĩ đại và bao gồm một ý nghĩa sâu xa. Vĩ đại ở chỗ dù cho con
người đại gian ác đến đâu, nhưng một khi có tâm hối cải và
huớng thiện, thì Ngài cũng không bao giờ từ bỏ, như chúng ta
đã thấy ở trong Cửu Phẩm Liên Hoa.
-
Sâu
xa ở chỗ, trong Kinh A Di Ðà có đoạn Ngài nói chỉ cần mười
niệm mà tâm không xen một tạp niệm, thì ngài sẽ rước về Tây
Phương Cực Lạc như trong Kinh có đoạn:
-
- Nầy
ông Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe
nói đến danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà tức thì trì niệm từ một
ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến
bảy ngày mà tâm người ấy không bị loạn động, thì người ấy
trong phút lâm chung được thấy Ðức Phật A Di Ðà và chư Thánh
Chúng. Người lâm chung ấy, tâm không điên đảo, tức thì vãng
sanh về nước cực lạc. Có lúc Ngài lại nói:
-
-
Không thể dùng một chút phước đức nhân duyên để cầu sanh về
Tây Phương Cực Lạc. Mới nghe qua chúng ta cứ lầm tưởng Ðức
Phật A Di Ðà Ngài mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất, tuy nhiên nhìn
kỹ chúng ta sẽ thấy ý nghĩa sâu xa đó. Sâu xa vi diệu vì Ngài
biết tâm niệm của chúng sanh lười mỏi thích vui chơi, chuộng
giả dối cho nên chúng ta không lạ gì khi nghe Ngài nói như
thế. Như nói một người ăn cơm ba chén mới đủ no, thì chúng ta
không thể nói người ấy chỉ cần ăn chén cơn thứ ba là đũ no mà
chúng ta phải tính người ấy ăn chén thứ nhất, chén thứ nhì, và
chén thứ ba mới đủ. Cũng vậy, nếu nói từ một niệm đến mười
niệm không loạn động mà chúng ta không cần tập ở những năm
tháng tu tập trước đó là điều không thể có được. Ðễ có kết quả
tốt chúng ta phải gắng công tu tập từ năm nầy đến năm nọ, cho
đến mỗi niệm phải liên tục để huân tập chủng tử trong tâm
trước, để tạo cho niệm cuối cùng được bền vững. Ý nghĩa sâu xa
vi diệu là như vậy. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi nghe
câu:
-
-
Nhứt cú Di Ðà vô biệt niệm
-
Bất
lao đàn chỉ đáo Tây Phương
-
Nghĩa
Là:
-
- Một
câu niệm Di Ðà mà không xen tạp một niệm nào khác,
-
Tức
thì trong khoảng thời gian như khảy móng tay liền được sanh về
Tây Phương Cực Lạc.
-
Tài
Liệu Tham Khảo:
-
-
Niệm Phật Thập Yếu
-
- Nhị
Khóa hiệp Giải
-
-
Kinh Di Ðà Sớ Sao
-
-
Liễu Sanh Thoát Tử
-
-
Kinh Pháp Hoa
|