-
Nguồn Gốc Phật Giáo Ðại Thừa
-
Tác Giả: Daisaku Ikeda
-
Dịch Giả: Trần Ðức Phi Bằng
-
--o0o--
-
-
Tôi đã đề cập trong những dịp trước về sự vươn dậy của Phật
Giáo Ðại Thừa, xảy ra vào khoảng năm trăm năm sau khi Ðức Phật
nhập diệt. Vì sự khan hiếm những nguồn tài liệu đáng tin cậy
có thể cho một hình ảnh rõ ràng hay cụ thể về lý do và cách
thức sự ra đời của Phật Giáo Ðại Thừa, vấn đề còn mang đầy sự
ước đoán. Ở đây tôi muốn nêu ra và ôn lại những lý thuyết khác
nhau về nguồn gốc của Ðại Thừa và cố gắng xác định ý nghĩa sự
ra đời của Ðại Thừa trong lịch sử Phật Giáo toàn bộ.
-
Vấn đề nầy là một vấn đề rất trọng đại, bởi vì theo tôi nghĩ,
ít nhất, nếu phong trào Ðại Thừa Phật Giáo không xảy ra, Phật
Giáo đã không lan truyền đến các nước phương Ðông như Trung
Hoa, Ðại Hàn và Nhật Bản. Nguyên Thủy Phật Giáo(Theravada),
như chúng ta thấy, có tính chất tu viện, những thành phần
trong đó rút lui khỏi xã hội hằng ngày để có thể giữ những
giới luật khắc khe. Loại tổ chức tôn giáo nầy, do tính chất
của nó, thiếu tinh thần kết nạp và khó cho những thành viên
bình thường trong đời sống xã hội tham dự.
-
Hơn nữa, người Trung Hoa và Nhật Bản, khác người Ấn Ðộ, có
khuynh hướng thực dụng và tinh thần thực tiễn, và tư tưởng
Tiểu thừa, với những luận thuyết về tâm học và siêu hình học
khô khan, sẽ không hấp dẫn họ nhiều. Ngay dù chúng có được
giới thiệu cho những quốc gia nầy, thì cũng chỉ thích hợp cho
một thiểu số, và đã mai một từ lâu. Chúng ta thường nói rằng
Trung Hoa, Ðại Hàn và Nhật Bản là những quốc gia dành cho Phật
Giáo Ðại Thừa. Ðiều nầy có thể dường như quá khẳng định, và
trong thực tế chỉ vì Ðại Thừa Phật Giáo, chứ không phải Tiểu
Thừa, đã được đưa vào những quốc gia nầy để chúng trở thành
những nước Phật Giáo.
-
Như ở Ấn Ðộ, mặc dù Phật Giáo phát triển mạnh dưới thời vua
Ashoka (A Dục) vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, nhưng từ đó
về sau, Bà La Môn Giáo dần dần nắm lại sức mạnh, và Phật giáo
suy yếu. Ðiều nầy xảy ra bởi vì trong khi Bà La Môn Giáo mở
rộng vào xã hội Ấn Ðộ một cách toàn bộ, thì Phật Giáo dần dần
có khuynh hướng rút lui và tự cô lập ra khỏi quần chúng. Ðồng
thời nó bị bao vây bởi tinh thần bè phái liên tiếp tạo ra
những rạn nứt trong giáo hội, từ đó sản sinh ra những bộ phái
cô lập.
-
Nhìn qua lịch sử trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy rằng triều
đại Mauryan(Khổng Tước), triều đại mà trong đó vua Ashoka(A
Dục) là một người nổi bật, đã chấm dứt vào khoảng năm 180
trước tây lịch. Ở miền Tây Ấn Ðộ thì có vương triều
Shunga(Huân Ca) được thành lập do một người Bà La Môn Giáo và
coi Bà La Môn là Quốc Giáo. Sau đó không lâu, và khoảng giữa
thế kỷ thứ nhứt trước Tây lịch, một nhà chinh phục tên là vua
Kharavela xuất hiện ở vùng Kalinga(Kiệt Tuấn Già) thuộc miền
Ðông Nam Ấn Ðộ là một tín đồ Kỳ Na Giáo thuần thành. Do hậu
quả của những sự cố nầy, Phật Giáo mất hết phần lớn sự ủng hộ
hoặc bị đàn áp triệt để. Trong giai đoạn nầy, buồn mà nói
rằng, sự chia rẽ vẫn tiếp tục, và Phật Giáo đã phân liệt thành
mười tám hay hai mươi bộ phái, tiếp tục tranh cãi nhau.
-
Trong bất cứ tổ chức nào, không có gì đáng sợ hơn những kẻ gây
chia rẽ nội bộ, những người có thể gay ra sự đổ vỡ trong tổ
chức. Ðiều nầy đặc biệt đúng với những đoàn nhóm được thành
lập trên những lý ý thức hệ hay triết lý, bởi vì chủ nghĩa bè
phái và sự bất hoà trong nội bộ thường báo hiệu sự sụp đổ
những nguyên lý được tổ chức tin giữ. Ðiều nầy xảy ra bởi vì
những thành phần của tổ chức mãi mê tranh thủ để nắm giữ ưu
thế và chiến đấu với những phe phái đối nghịch, quên lãng đi
những nguyên lý ý thức hệ, và hậu quả là không còn tác động có
hiệu quả ngay cả trong nội bộ nhóm, và sự phổ biến ra bên
ngoài cũng giảm nhiều. Ðiều đặc biệt đáng tiếc là Phật Giáo đã
rơi vào cảnh nạn nhân của tinh thần bè phái phát xuất từ sự cố
chấp của những người thực hành nó, bởi vì một trong những mục
tiêu chính của Phật Giáo là soi chiếu ánh sáng vào bên trong
bản tính của con người và giúp y vượt qua tính ích kỷ nằm sâu
bên trong con người y.
-
Phong trào Ðại Thừa nổi lên ở nhiều địa phương ở Ấn Ðộ trong
lúc đó có thể, trong một ý nghĩa nào đó, được coi như một cố
gắng chỉnh lý tôn giáo và chống lại chủ nghĩa bè phái và xung
đột trong Giáo Ðoàn Truyền Thống. Việc đó của Phật Giáo cũng
tương đương với Cuộc Cải Tổ ở Châu Âu để phục hồi sức sống của
tín ngưỡng. Ðiều Phật Giáo gặp phải mối nguy hiểm về sự đối
lập chính trị hoặc sự khủng bố gắt gao đã làm cho những nhà
lãnh đạo của Ðại Thừa thêm sức mạnh trong ý thức trách nhiệm
của người Phật tử nơi chính mình và trong quyết định tranh đấu
cho tín ngưỡng của họ.
-
Làm thế nào để đương đầu với áp lực chính trị là một trong
những vấn đề quan trọng nhất đối với người Phật tử lúc bấy
giờ. Và ở đây tôi tin rằng chúng ta có thể phân biệt sự khác
biệt tế nhị trong những đường hướng Tiểu Thừa và Ðại Thừa phản
ứng lại áp lực đó.
-
Những người Phật tử Ðại Thừa, như chúng ta thấy, gán cho
Thượng Tọa Bộ(Theravada) là Hynayana hay Tiểu Thừa, một cách
chắn chắn có ý hướng coi thường. Một lý do cho sự việc nầy như
tôi tin tưởng là Thượng Tọa Bộ đã có khuynh hướng giữ vị thế
xa cách đối với chính trị. Một cách thẳng thắng, chúng ta phải
nói rằng những tín đồ Thượng Tọa Bộ trốn bỏ thực tại và khép
mình vào sự ẩn dật của đời sống tu viện. Vì lý do nầy, vị thế
chính trị của họ có tính cách mơ hồ và thái độ của họ đối với
Bà La Môn Giáo, bấy giờ là tôn giáo quốc gia, ít nhiều có tính
cách hòa hoản.
-
Phật tử của phái Ðại Thừa trái lại, tranh thủ với những người
Bà La Môn và tích cực đương đầu với họ. Họ nhận thức Phật Giáo
là một tín ngưỡng phải được gieo rắc mạnh mẽ trong toàn bộ xã
hội, không phải chỉ để riêng cho những tu sĩ trong các tu
viện. Nhiều Kinh và Luận Ðại Thừa đã diễn tả những vị vua lý
tưởng và những đường lối ông dùng trong việc cai trị, và ho,
không do dự đưa ra những tuyên bố chính trị trên nền tảng lý
tưởng Phật Giáo được thể hiện trong Giáo Pháp. Những áp lực
chính trị họ gánh chịu càng ngày càng lớn hơn, và đồng thời họ
cũng chứng tỏ rằng họ có đủ năng lực và quyết tâm chiến đấu
với những áp lực và thách thức của trật tự xã hội hiện hữu. Ở
đây, tôi muốn nói, có những khác biệt giữa Ðại Thừa với Tiểu
Thừa.
-
Mặc dù không thoả mãn với thái độ thờ ơ với chính trị của
những tín đồ Tiểu Thừa là một trong những tác nhân đưa đến sự
khởi dậy của Ðại Thừa, vấn đề về sự liên hệ giữa chính trị và
tôn giáo là vấn đề rất phức tạp và không thể giải quyết vội
vàng. Chắc chắn những vị thuộc Thượng Tọa Bộ và những bộ phái
khác trong Phật Giáo Truyền Thống có những lý do riêng khi giữ
sự xa cách với những vấn đề chính trị. Họ xem giữ những giáo
lý chính thống như một chức năng quan trọng hành đầu. Có Thể
họ lo sợ rằng nếu họ có một lập trường về những vấn đề chính
trị, họ có thể phải chịu lấy những sự quấy nhiễu và đàn áp làm
tổn hại đến việc thực hiện mục đích của mình.
-
Chúng ta cần nhớ lại rằng chính Ðức Thích Ca Mâu Ni sinh ra
trong giòng Kshatriya(Sát Ðế Lợi) tức là giai cấp lãnh đạo, là
con trưởng của vua bộ tộc Shakya(Thích Ca) và là người đương
nhiên sẽ nối ngôi vua. Tuy vậy, Ngài đã chọn con đường từ bỏ
mọi quyền lợi, dấn thân vào xã hội làm một người khất sĩ lang
thang để tìm kiếm một mục tiêu cao cả hơn. Ngài đã chủ tâm từ
bỏ đời sống chính trị để có thể trở nên một người lãnh đạo
tinh thần và nắm vững những chân lý toàn bộ về đời sống con
người. Ðó là lập trường của Ngài, là công việc Ngài chọn cho
mình, một việc liên hệ đến vận mạng của toàn thể nhân loại.
-
Tôi có thể bị hiểu lầm và xin làm sáng tỏ một vấn đề. Mặc dù
tôi tin rằng chính trị và tôn giáo về nền tảng hiện diện trên
hai bình diện hoàn toàn khác nhau, tôi không nói rằng vì lý do
đó, việc một con người tôn giáo lánh xa những vấn đề xã hội và
chính trị là chính đáng hoặc có thể chấp nhận. Sau khi Ðức
Thích Ca Mâu Ni giác ngộ dưới gốc Bồ Ðề, Ngài đã không ở lại
đó một mình, vui hưởng những chân lý Ngài vừa tìm thấy. Thay
vì vậy, Ngài đã đứng lên làm một cuộc hành trình đi giảng dạy
và truyền bá Giáo Pháp để có thể chia xẻ sự giác ngộ và trí
tuệ của Ngài với mọi người, nam cũng như nữ, ở mọi nơi.
-
Khuynh hướng trong những vị Thượng Tọa và những bộ phái Phật
Giáo đầu tiên hoàn toàn khác với điều đó. Các Tăng Sĩ của
những bộ phái nầy, thật sự đã tránh xa mọi sức mạnh và quyền
lực thế tục, dần dần khép kín mình trong rừng, núi, dấng thân
trong việc nghiên cứu học tập các luận giải về Abhidharma(A Tỳ
Ðàm). Làm như vậy, họ tỏ ra chỉ tìm kiếm sự tiến bộ tâm linh
cho chính mình, không làm một việc gì để giúp đở sự tiến bộ
của người khác bằng cách dạy dỗ và hướng dẫn họ.
-
Ở chỗ nầy, những tín đồ Ðại Thừa cũng lại khác với những tín
đồ của các bộ phái xưa kia, nhấn mạnh không những chỉ vào sự
tu tập và giải thoát cho chính bản thân mà đồng thời còn gieo
rắc giáo pháp sâu rộng trong đám đông quần chúng đang chìm
ngập trong thống khổ và mê mờ. Họ khẳng định rằng đó chính là
theo đúng tinh thần của Ðức Thích Ca Mâu Ni. Mục đích của Phật
Tử Tiểu Thừa là đạt quả vị A La Hán, trong khi mục tiêu của
người Phật Tử Ðại Thừa là đạt đến quả vị Bồ Tát, người đã giác
ngộ nguyện giúp đỡ kẻ khác được giải thoát.
-
Ðọc các Kinh điển Ðại Thừa, người ta luôn luôn có ấn tượng về
mức độ chúng đề ra để đối diện xã hội. Chúng ta sẽ có dịp khảo
sát đầy đủ hơn về điểm nầy khi chúng ta thảo luận về Kinh Duy
Ma Cật (Vimalakirti), trọng tâm vây quanh một người cư sĩ Phật
Giáo tên Duy Ma Cật và diễn vai trò tích cực của ông trong
thời đại ông sống. Vì lý do nầy, các học giả đã phải giả
thuyết rằng, trong khi Phật Giáo Tiểu Thừa quy hướng và cộng
đồng tu viện, Phật giáo Ðại Thừa là một phong trào triển nở từ
những tín đồ tại gia thời bấy giờ.
-
Ðối với tôi điều nầy dường như đủ đáng tin cậy, nhưng tôi
không nghĩ rằng chúng ta nên nhìn Phật Giáo Ðại Thừa như là
một phong trào chỉ cho người tại gia khởi xướng. Chúng ta cần
nhớ rằng ở Ấn Ðộ thời bấy giờ có tập quán rất trọng Tăng, và
không chắc rằng giới tại gia hoàn toàn tự hành động mà không
có sự đồng ý hay tiếp tay của những thành phần trong cộng đồng
tu viện. Hơn nữa, Phật Giáo Ðại Thừa đã cho thấy sự cao cả và
phức tạp trong giáo lý của nó, chứng tỏ rằng nó phải có sự
nhúng tay của những nhà thần học và triết gia chuyên nghiệp.
Theo sự suy đoán cá nhân, thì một số thành viên đặc biệt xuất
sắc và giác ngộ trong cộng đồng tu viện, không thỏa mãn với
thái độ và những cách hành trì Phật Giáo Tiểu Thừa, kết hợp
với những người cầm đầu hăng say và sáng tạo của cộng đồng cư
sĩ trong một cuộc hợp tác phiêu lưu để thực hiện những sự cải
tổ.
-
Nơi vị Tăng thi sĩ Mã Minh(Ashvaghosha) và triết gia Long Thọ
(Nagarjuna), chúng ta có thể thấy những điển hình của những tu
sĩ xuất chúng khởi đầu là những tu sĩ Tiểu Thừa và về sau
chuyển qua Ðại Thừa. Ngài Mã Minh sống và viết trong thế kỷ
thứ nhứt hay thứ hai sau Tây Lịch, thọ giới xuất gia và tu học
với bộ phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu (Sarvastivada), một bộ phái
quan trọng của Tiểu Thừa, nhưng về sau trở thành môn đồ Ðại
Thừa. Tương tự, Ngài Long Thọ, sống vào thế kỷ thứ hai hoặc
thứ ba sau Tây lịch, và Ngài Thế Thân(Vasubandhu) sống vào thế
kỷ thứ năm, cả hai đều bắt đầu sự nghiệp tu hành như là những
tu sĩ Tiểu Thừa và sau chuyển sang Ðại Thừa. Tuy nhiên, những
người nầy thuộc vào thời kỳ mà phong trào Phật Giáo Ðại Thừa
đang phát triển và đang hệ thống hoá khối giáo lý lớn lao của
nó.
-
Trong thời kỳ khỏi đầu, chúng ta có thể không nghi ngờ rằng
những tín đồ tại gia, hay ít ra những nhân vật xuất chúng
trong giới tại gia như Duy Ma Cật(Vimalakirti) đóng một vai
trò then chốt trong sự phát triển của Ðại Thừa.
-
Các học giả đã giả thuyết rằng có thể có một số liên hệ giữ sự
phát khởi của Ðại Thừa và sự thiết tha xây dựng tháp, việc làm
rất được phổ biến trong giới cư sĩ thời bấy giờ. Từ khoảng thế
kỷ thứ ba trước Tây lịch đến thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, khi
nước Ấn Ðộ ở vào giai đoạn phát triển về những hoạt động
thương mại, các tín đồ Phật Giáo tại gia giàu có thói quen xây
dựng những tháp hay những núi đất ghi nhớ sự nhập diệt của Ðức
Phật, và điều nầy được coi như một biểu lộ của đức tin nơi họ.
-
Sau khi Ðức Phật qua đời, khuynh hướng sùng bái Ngài ngày càng
gia tăng, nhất là trong giới Phật tử tại gia, như được thấy
trong việc gán cho Ngài ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẽ
đẹp. Phản ảnh khuynh hướng nầy, các tháp mọc lên khắp nơi trên
toàn xứ Ấn Ðộ, đôi khi cất giữ xá lợi của Ðức Phật hay những
vị Thánh Tăng, và những cuộc lễ bái được tổ chức quanh những
nơi nầy. Những nghi lễ nầy khác với những nghi lễ truyền thống
của các vị Thượng Tọa và những bộ phái bắt nguồn từ Thượng Tọa
Bộ, vì vậy chúng được coi là biểu lộ của phong trào Ðại Thừa
trong buổi đầu. Có thể những tháp nầy dần dần có luôn những
chỗ ở cho các vị Tăng chăm sóc ngôi tháp và những vị Tăng nầy
xây dựng bước đầu cho Giáo Ðoàn Ðại Thừa.
-
Như chúng ta có thể thấy ở trên, có rất nhiều nguyên nhân giao
thoa nhau trong thời đại có đưa đến sự khỏi dậy của phong trào
Phật Giáo Ðại Thừa. Nhưng chúng ta làm việc với những sự việc
xảy ra hai ngàn hay hơn hai ngàn năm về trước, với một số tài
liệu tối thiểu còn lại. Và với mức độ hiểu biết đó, chúng ta
không thể có hy vọng xác định những nhân tố nào là nhân tố
quyết định và chúng liên hệ với nhau như thế nào. Ðiều mà
chúng ta không thể quên là phong trào Ðại Thừa đã khởi lên
trong thời kỳ đó là điều không thể chối cãi, và đã ra đời từ
lâu làm lu mờ Tiểu Thừa về phương diện tỏa rộng vào quần chúng
và trong sự gieo rắc ảnh hưởng.
|